Khí Công

 
VSCM Lê Sáng

 

Sự sống bao gồm hoạt động và nghỉ ngơi. Các xúc động tâm lư, những căng thẳng thần kinh sẽ gây sự cản trở hoạt động và nghỉ ngơi. Không phát huy được khả năng, thiếu bền bỉ dẻo dai, không sáng suốt nhận định đều do những căng thẳng, những xúc động gây ra. Hoạt động như vậy khó đạt được hiệu quả. Thân xác không hoạt động, trong ḷng lại đầy những tính toán lo âu, là nghỉ ngơi không trọn vẹn, sinh lực chẳng được phục hồi. Hoạt động nghỉ ngơi như vậy, cuộc sống của ta khó có an vui hạnh phúc. Qua thực nghiệm, người xưa đă t́m ra và khoa học ngày nay đă công nhận: với sự luyện tập khí công, nhịp tim sẽ được điều ḥa để bộ máy tâm sinh lư được cân bằng ổn dịnh. Chỉ trong cân bằng ổn định, sự hoạt động nghỉ ngơi mới được trọn vẹn.

Khí công gồm hai phần: Tĩnh luyện và động luyện.

Khí Công Tĩnh Luyện có thể tập ở hai tư thế: Ngồi hoặc nằm.

Trong tư thế ngồi, ta xếp bằng hoặc cài chéo hai chân vào nhau, hai bàn tay úp xuống đùi, cánh tay ép vào lườn, xương sống thẳng để khí huyết dễ luân lưu, mắt nhắm chủ tâm vào tam tinh là vùng giữa hai chân mày, đối chiếu với năo, đó là vùng suy nghĩ của năo bộ. Chủ tâm vào vùng này khi luyện khí, lâu ngày ta sẽ làm chủ đươc tư tưởng của ḿnh và có khả năng tập trung tư tưởng cao.

Trong tư thế nằm, ta nằm ngửa, hai tay để xuôi theo thân, bàn tay úp, mắt nhắm, chú tâm vào vùng rốn. Chú tâm vào vùng này khi nằm luyện khí, huyết sẽ dồn xuống bụng làm thần kinh bớt căng thẳng. Nhờ vậy ta dễ đi vào giấc ngủ và có giấc ngủ êm sâu.

Tập khí ở hai tư thế này, mắt phải nhắm lại, môi khép kín, lưỡi co lên hàm trên để kích thích sự hoạt động của tuyến nước miếng là phương dược trong cơ thể con người giúp chận bớt các chứng sưng gan, tim lớn và ngăn chận được các chứng loét bao tử, thực quản.

Khí Công Động Luyện: Nhu khí công quyền. Thí dụ: bài Nhu khí công quyền 1 với lối thở hai th́ của Việt Vơ Đạo.

Như tên gọi đây là bài tập kết hợp hơi thở với các động tác co duỗi của tay, di động của chân với sự làm mềm tối đa các cơ bắp khi vận động. Nếu dày công tập luyện sẽ có khả năng làm chủ tâm ư, biết giảm bớt căng thẳng từ đó sẽ có sự sáng suốt, bền bỉ dẻo dai khi hoạt động, khi làm việc tay chân hoặc trí óc. Lúc luyện tập các bài nhu khí, phải chú tâm vào các động tác để cảm nhận được sự co duỗi của các cơ bắp, môi khép, lưỡi để tự nhiên, hít thở bằng mũi, hơi thở ăn nhịp với động tác, chú ư làm mềm các cơ vùng mặt và cơ bàn tay dể có; sự nhẹ nhàng thư thái trong tâm khí vận động.

Tập khí công là tập thở bằng bụng: Hít vào ph́nh bụng lên, thở ra thóp bụng lại.

Hít thở bằng mũi. Hơi dài ngắn tùy sức, nhưng phải êm nhẹ, thời gian vào ra của hơi thở bằng nhau. Đây là phương pháp khí công tu dưỡng nên ngoài các cơ bắp giúp vùng bụng ph́nh lên, hóp lại giúp tay chân chuyển động các cơ bắp khác, nhất là các cơ bắp vùng mặt và cơ bản tay phải làm mềm tối đa.

Để đáp ứng nhu cầu hoạt động nghỉ ngơi của con người, như đă tŕnh bày, khí công gồm hai phần: động luyện và tĩnh luyện. Dù động hay tĩnh đều có thể cương hoặc nhu luyện. Khí công cương luyện là hít thở kết hợp sự căng cứng toàn bộ hay từng phần cơ bắp. Và sự tập trung cao độ của thần kinh vào vùng cơ bắp căng cứng. Đó là dùng lực để vận khí và phương pháp này tạo sức mạnh về thần chất cho người tập luyện. Khí công nhu luyện là hít thở đi đôi với sự làm mềm các cơ bắp, tạo êm dịu cho hệ thần kinh. Các cơ bắp khi ở trạng thái mềm tối đa, cơ thể con người được nghỉ ngơi trọn vẹn và sinh lực được mau chóng phục hồi. Khí công nhu luyện giúp người tập có một nhịp tim điều ḥa, một hệ thần kinh ổn định, sự điềm tĩnh nhu hoà sẽ đến. Đó là sức mạnh tinh thần.

Khi luyện khí phải biết kết hợp cả động lẫn tĩnh, cả cương lẫn nhu. Tuy nhiên nếp sống ngày nay đă khiến mọi người đă quá hoạt động, gây ra quá nhiều sự căng thẳng về thần kinh nên cách tập thích hợp nhất cho mọi người là dù động hay tĩnh nên nhu luyện nhiều hơn để tái luyện cân bằng.

Có người nhờ luyện khí đă có những khả năng phi thường. Đó là trường hợp ít có. Những người này ngoài căn cốt đặc biệt c̣n phải trải qua một thời gian dài dồn toàn bộ tâm sức để luyện tập với các phương pháp vượt khỏi sức chịu đựng của mọi người. Cũng có những khả năng phi thường tự nhiên xuất hiện ở một số người. Khả năng siêu nhiên chính là tiềm năng của con người, có thể do tập luyện, cũng có thể do tự nhiên xuất hiện. Đây không phải là hiện tượng phổ biến.

Có nhiều lối luyện khí:

  • Hai th́: Nạp (hít vào), Xả (thở ra)
     
  • Ba th́: Nạp, Vận (nín thở lúc khí đầy phổi, đẩy khí đi toàn châu thân), Xả
     
  • Bốn th́: Nạp, Vận, Xả, Bề (ngưng thở lúc đă thở hết khí trời ra).

Các lối thở này, với sự điều chỉnh hơi thở ra vô, êm nhẹ, từ từ, dài lâu, giúp người tập có khả năng điều chỉnh được nhịp tim, chịu đựng được các t́nh trạng thiếu oxy hoặc tăng nồng độ carbonic trong máu, từ đó bắt buộc hệ thần kinh điều chỉnh cho thích nghi, tạo sức đề kháng để cơ thể có thể chống lại mọi thay đổi đột ngột của môi trường.

Khi tập thở, hơi thở ra vô dài ngắn, tùy theo sức chịu đựng của mỗi người. Kiên nhẫn tập luyện, hơi thở sẽ trở nên êm nhẹ, lâu dài, thong thả, nhịp thở ra vô sẽ đều nhau, nhịp tim được điều ḥa, hoạt động của bộ máy tâm sinh lư sẽ cân bằng ổn định. Sự cân bằng này được biểu lộ qua tác phong điềm tĩnh nhu ḥa, vô cầu.

Khi đă có sự cân bằng này rồi, nếu muốn, ta có thể luyện qua hơi thở ba th́, bốn th́.

Chỉ trong hoạt động, ta mới phải nín thở lấy sức, c̣n b́nh thường, lối thở hai th́ là lối thở tự nhiên của mọi người. Ai cũng hít thở nhưng nếu không luyện khí, sự hít thở sẽ không hoàn chỉnh. Sự hít thở gọi là hoàn chỉnh khi cả lúc động cũng như cả lúc tĩnh hơi thở ra vô lúc nào cũng nhẹ êm, sâu dài, thong thả. Luyện khí ở tư thế nhu tĩnh, ta dễ chuyên chú vào khí để hoàn thiện, dễ làm chủ hơi thở của chính ḿnh. Nhờ tập nhu khí ở tư thế tĩnh, ta sẽ dễ phát huy được công năng của các bào nhu khí, cương khí đối với bản thân khi luyện tập. Đó là sự kết hợp giữa động và tĩnh trong luyện khí. Nếu chuyên luyện nhu khí, sự trẻ trung tươi mát, sự bền bỉ dẻo dai, sự hồn nhiên vô tư, sự hiền ḥa từ tốn, sự bao dung độ lượng sẽ đến với ta. Đây chính là cái đẹp bên ngoài của tinh thần Nhân Vơ Đạo.

Vận động với nhịp độ nhanh, cường độ mạnh, cần tăng cường hô hấp nên đôi khi phải thở ra bằng miệng mới kịp. Tuy nhiên tốt nhất ta nên hít thở bằng mũi. Có những lư do sau đây:

- Mũi là bộ máy điều ḥa không khí của cơ thể. Với những nếp gấp ở hốc mũi, không khí hít vào được tẩy bụi, hấp nóng, có khi lại được tiếp hơi ấm để đủ điều kiện cần thiết trước khi vào phổi. Hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng, mũi do hô hấp nóng không khí hít vào, nhiệt độ bị giảm dần, sẽ bị lạnh. Điều này có thể gây sổ mũi hoặc sưng cuống phổi. Nếu thở ra bằng mũi hơi thở sẽ hoàn lại chất nhiệt cho mũi và như thế lại giúp nó làm tṛn vai tṛ điều hoà không khí hít vào.

- Mũi có vai tṛ làm điều tiết lưu lượng không khí hít vào, thở ra và làm giảm tốc quá tŕnh hô hấp. Hít vào bằng miệng, lẽ tất nhiên ta đưa nhanh chóng vào phổi một lượng lớn không khí và như thế dễ làm tổn thương nhiều phế nang tế nhị. Vả lại, nên hiểu rằng khi hít vào, phổi vừa hấp thụ không khí lẫn máu theo một tỷ lệ nhất định để giữ vững cân bằng cho môi trường bên trong. Thở bằng miệng thường làm thay đổi tỷ lệ đó và làm mất cân bằng cơ chế hô hấp vốn rất tinh tế. Thở bằng miệng chỉ áp dụng trong trường hợp khẩn cấp do cơ thể đ̣i hỏi.

- Những nếp gấp trong mũi được phủ dầy đầy dây thần kinh có mắc nối với nhiều cơ quan và các trọng tâm thần kinh. Gặp người bị ngất, cho họ ngửi amoniac hoặc giấm chua, họ có thể tỉnh ngay. Cơ thể con người cũng cần được kích thích bởi luồng không khí qua mũi.

Trong cơ thể con người, mạch là những ống dẫn huyết từ tim chạy ra khắp châu thân và ngược lại. Theo Đông y, ngoài mạch máu ra, c̣n có hệ thống kinh lạc. Kinh là những đường dây nối liền các huyệt trong châu thân theo một hàng dọc và lạc là những đường nối liền từ kinh nọ sang kinh kia, chạy theo hàng ngang. Có hai kinh chính là Nhâm Kinh và Đốc Kinh. Nhâm Kinh là đường kinh nối liền từ chỗ lơm ở môi dưới chạy thẳng xuống, qua lằn chỉ ở dịch hoàn đến hậu môn. Đốc kinh là đường kinh chạy từ đỉnh xương cùng lên đến đỉnh đầu trỏ ra trước mặt vượt qua rănh dưới đầu mũi tới nuớu răng hàm trên. Khi luyện khí, hai môi nên khép lại cho Nhâm Kinh và Đốc Kinh được nối liền với nhau để khí dễ luân lưu. Ngoài ra, lưỡi co lên, chạm dốc giọng để kích thích sự hoạt động của các tuyến nước bọt. Theo y học th́ nước miếng là phương thần dược trong cơ thể con người, có thể trị các chứng sưng gan: tim lớn, làm thần kinh mát dịu, nhất là những chứng lở loét bao tử thực quản. Chúng ta cũng thường thấy rằng một cái dàm hay xương cá chích vào chân răng, lưỡi miệng, chỉ trong hai, ba tiếng đồng hồ không nghe đau nhức nữa. Nếu da thịt bị như thế, ít nhất hai ba hôm mới hết, có khi lại lở thành mụn nữa.

Tập khí công là tập thở bằng bụng dưới hít vào, ph́nh bụng, thở ra, hóp bụng, để kích thích vùng đan điền. Đông Y quan niệm đó là nơi tích tụ sinh lực của con người và khoa học ngày nay coi đó là vùng trọng tâm của thân thể. Khi kích thích đúng mức, sinh lực sẽ được phát huy. Nói cách khác, khi trọng tâm con người, do tập luyện trở về vị trí đan điền, tâm sinh lư được cân bằng. Trong trạng thái cân bằng, sinh lực sẽ được phát huy toàn vẹn. Nếu đă nắm vững hệ thống kinh mạch, ta có thể dùng tư tưởng để dẫn khí. Tuy nhiên, dùng ư dẫn khí sẽ sinh tâm lư nóng vội v́ muốn mau chóng thành công, như vậy dễ đi đến t́nh trạng thái quá, dễ gây căng thẳng cho hệ thần kinh, hệ tim mạch bị loạn nhịp. Sinh lư bị xáo trộn do luyện khí, người xưa gọi là "tẩu hỏa nhập ma". Cách tập an toàn nhất cho tất cả mỗi người là tập với ḷng thanh thản vô cầu, không dùng ư dẫn khí, chỉ thư giăn tối đa, tùy cơ thể tập; chú tâm vào từng vùng nào đó. Thí dụ: tập khí ở tư thế tĩnh tọa, chú tâm vào vùng giữa hai chân mày, ở tư thế nằm, chú tâm vào vùng rốn. Khi thở đúng mức, khai thông được hai kinh Nhâm, Đốc, luồng khí sẽ chu lưu khắp cơ thể theo hệ thống kinh lạc. Khi hít thở, dưỡng khí qua phế nang được máu hấp thụ, theo động mạch đi đến các cơ quan. Khi di chuyển theo đường kinh lạc là một thứ khí khác, người xưa gọi là: chân khí, tiên thiên khí, khí thái hư... Hấp thụ được luồng khí này, con người sẽ phát triển được các phẩm tính thanh cao, hướng thượng. Người tập có khả năng điều khí tốt khai thông được Nhâm Đốc Kinh, th́ các bài nhu khí, cương khí sẽ giúp thúc đẩy, dẫn khí ra tứ chi. Khai thông kinh lạc là bước đầu của lĩnh vực khí công.

Tập khí công phải biết phối hợp giữa động với tĩnh, giữa cương với nhu, và đó là nguyên lư Cương Nhu Phối Triển của Vovinam-Việt Vơ Đạo.

 

 

Khí Công Bài Một - Khái Lược về Khí Công

 
GS. Ngô Gia Hy - VS. Trần Huy Phong (1993)

 

Lời Giới Thiệu: Giáo sư Ngô Gia Hy là vị thầy trong ngành Y học Việt Nam. Hơn nữa thế kỷ qua, ngoài việc giảng dạy tại Đại Học Y Khoa, giáo sư c̣n nghiên cứu, biên soạn nhiều tác phẩm giá trị thuộc ngành Y, ngành Khoa Học Xă Hội và Khí Công Dưỡng Sinh Trị Liệu. Cho tới nay, giáo sư đă biên soạn 140 đề tài nghiên cứu khoa học, văn hóa và đỡ đầu cho hơn 90 luận án bác sĩ và luận án chuyên khoa. Trong thập niên gần đây, giáo sư Ngô Gia Hy đă dành nhiều thời giờ nghiên cứu, thực tập các trường phái Khí Công, dùng kiến thức khoa học lư giải và bổ sung các phương pháp luyện khí.

Bên cạnh giáo sư Ngô Gia Hy, vơ sư Trần Huy Phong là một nhà giáo, một vơ sư, môn đệ xuất sắc của Cố Vơ Sư Nguyễn Lộc, người sáng lập Môn Phái Vovinam-Việt Vơ Đạo. Từ năm 1960, vơ sư Trần Huy Phong đă trở thành một vơ sư cao đẳng, trực tiếp tham gia lănh đạo phong trào Việt Vơ Đạo tại Việt Nam và quốc tế. Vơ sư Phong là chuyên gia khí công của Việt Vơ Đạo. Ông quan niệm "Thuật và Khí phải song hành", nghĩa là cả hai đều quan trọng như nhau.

Giáo sư Ngô Gia Hy: Đă mấy chục năm qua, tôi và vơ sư Trần Huy Phong từng có "duyên nợ" với nhau: đầu thập niên 70 chúng tôi cùng tham gia "Ủy Ban Vận Động Dựng Đền Quốc Tổ" và cùng chủ trương thành lập tại Saigon một Đại Học Tư Thục nhằm mục đích phục vụ cho lư tưởng giáo dục. Hiện nay tôi và vơ sư Phong cùng với các giáo sư khác đứng ra thành lập Đại Học Tư Thục Hùng Vương tại Sài g̣n.

Vơ sư Phong là một vơ sư cao cấp của Môn Phái Vovinam-Việt Vơ Đạo, là một bậc thầy về Khí Công của Môn Phái này. Tôi rất quan tâm và mến mộ các môn vơ thuật, đặc biệt là môn Vovinam-Việt Vơ Đạo, với vơ sư Phong là một người có Tâm Chất thể hiện rơ nét Tinh Thần Vơ Đạo Việt Nam. Nay tôi và vơ sư Phong cùng biên soạn Tài Liệu Khí Công này nhằm giúp các bạn trẻ tham khảo và thực tập. Rất mong được sự góp ư của các độc giả xa gần.

 


Định Nghĩa

Khí là nguồn năng lực sống của con người. Khí luân lưu trong khắp cơ thể theo các đường Kinh mạch vào Lục phủ ngũ tạng. Khí biểu hiện dưới cả hai dạng vật chất và tinh thần, nhưng mắt ta không nh́n thấy được (không được lầm lẫn giữa Khí và Không Khí. Không khí là khí trời, là phương tiện để ta hô hấp trong lúc luyện Khí.)

Mỗi người sinh ra đều mang trong cơ thể một lượng khí nhất định, nhiều ít tuỳ theo từng người. Đó là Khí trời cho, tức Khí thụ hưởng từ cha mẹ, c̣n gọi là Tiên Thiên Khí hay Khí Bẩm Sinh. Ngoài Tiên Thiên Khí, hàng ngày con người c̣n tiếp thụ một lượng Khí từ bên ngoài vào cơ thể ḿnh xuyên qua đồ ăn thức uống, không khí, ánh sáng, vũ trụ tuyến và môi trường sống nói chung. Loại khí này gọi là Hậu Thiên Khí (tức Khí Có Sau).

Khí Công: là công phu tập luyện để điều ḥa, phát huy tích luỹ và sử dụng hai loại khí nói trên. Hai loại khí ấy phối hợp và cộng hưởng với nhau làm thành Chân Khí. Chân Khí thịnh th́ người khỏe, khi suy th́ người yếu, khi rối th́ người bệnh, khi kiệt th́ người chết.

Có thể nói, Khí Công là gốc của các phái vơ Nội Gia, là căn cốt của mọi phương pháp dưỡng sinh Đông Á. H́nh thành từ các Phép Đạo Dẫn của Đạo Gia, phối hợp với Môn Phái Thiền Tông Đạt Ma Sư Tổ, Khí Công triển khai qua dịch học đă trở nên rất phong phú và mỗi ngày một phát triển nhất là dựa vào Y học hiện đại. Lấy nguyên lư Quân B́nh Âm Dương, Điều Ḥa Ngũ Hành làm căn bản trong luyện khí. Khí Công làm gia tăng nội lực, một mục tiêu mà mọi Vơ Gia đều mong muốn. Lại nữa, cũng trên căn bản này, các Vơ Gia c̣n có thể tự trị bệnh và hơn thế, trị bệnh cho người khác, thể hiện Tinh Thần của Vơ Đạo.

Phương pháp luyện tập Khí Công không khó, nhưng muốn luyện tập Khí Công thành tựu th́ phải có quyết tâm cao và tốn nhiều công phu. Cũng ví như cách học làm thơ, cách chơi các nhạc cụ th́ không khó nhưng muốn trở thành một thi sĩ, một nhạc sĩ có tài th́ khó hơn. Chính v́ vậy có người nói muốn luyện thành Khí Công th́ phải có "cơ duyên". Nhưng điều chắc chắn là bất cứ ai nếu yêu thích Khí Công và kiên tŕ luyện tập theo đúng phương pháp th́ cũng sẽ đạt được một kết quả nhất định, đủ để giúp cho thân thể kháng kiện, kịch phát năng lực bản thân, điều trị được nhiều loại bệnh tật của chính ḿnh và của người khác như các loại bệnh về Tim mạch - Thần Kinh - Tê Thấp - Thận Suy - Các loại bệnh về hô hấp, tiêu hóa, các loại bệnh liên quan đến cột sống v.v... Tập Khí Công c̣n làm gia tăng tuổi thọ. Đối với các vơ sinh luyện Khí Công c̣n tích lũy nội lực, tập trung tâm ư, ngơ hầu phát huy tối đa hiệu quả của đ̣n thế.

Kỷ Thuật Luyện Khí

Các phương pháp luyện khí thay đổi tùy theo các Trường Phái. Đại để có năm Trường Phái chính: Đạo Gia - Phật Gia - Y Gia - Vơ Gia

  1. Phương pháp của Đạo Gia chủ yếu tạo sự kháng kiện cả thể xác và tâm hồn. Phương pháp này dạy cách phát triển trau dồi Tâm Chất và sự sống. Nghĩa là nhấn mạnh cả về hai mặt: luyện tập và suy tưởng.
  2. Phương pháp của Phật Gia đặt nặng về sự điều ḥa phần Tâm, tức là gạt bỏ mọi tạp niệm để đầu óc trống rỗng, tiến đến giác ngộ.
  3. Phương pháp của Khổng Gia lại nêu ra những "Nguyên Tắc Của Tâm Hồn!" Sự chân chính và sự rèn luyện các đức tính. Đưa người tập vào trạng thái nghỉ ngơi, an b́nh và yên tĩnh.
  4. Phương pháp của Y Gia chủ trương dùng Khí Công để điều trị bệnh tật, bảo dưỡng sức khỏe và kéo dài tuổi thọ.
  5. Phương pháp của Vơ Gia nhằm xây dựng sức mạnh cá nhân, biết chấn tĩnh tinh thần khi bị tấn công hoặc để công kích địch thủ. Mặc dầu phương pháp này cũng có chức năng bảo vệ sức khỏe và nâng cao tuổi thọ nhưng nó khác hẳn với các Trường Phái nói trên.

Tuy các phương pháp của các Trường Phái có sự khác biệt nhưng chúng vẫn không nằm ngoài ba nguyên tắc chính: Tĩnh Luyện, Động Luyện, và Tĩnh Động Luyện. Cả ba nguyên tắc này đều có 3 mặt: Luyện Tâm (tức Điều Tâm), Luyện Thở (tức Điều Tức) và Luyện Ngoại H́nh (tức Điều Thân).

 

  • Luyện Tâm (Điều Tâm): Bắt buộc phải gạt bỏ mọi suy ngh́, ưu tư và t́nh cảm để đầu óc trống rỗng hoặc phải tập trung ư niệm vào một điểm để đưa trí năo vào một trạng thái đặc biệt. Cách luyện này gọi là Định Thần.
  • Luyện Thở (Điều Tức): Những bài tập thở gồm: Nạp Khí - Vận Khí - Xả Khí - Bế Khí, đều phải "nhẹ và sâu" (sẽ chỉ dẫn ở phần sau).
  • Luyện Ngoại H́nh (Điều Thân): Gồm nhiều vị trí khác nhau trên cơ thể qua nhiều tư thế, xuyên qua 6 cách: Đi - Đứng - Ngồi - Nằm - Quỳ - Thoa Bóp.

Bất kể luyện tập theo phương pháp nào, nếu tập bền bỉ và đúng phép th́ chắc chắn sẽ đạt được một công phu đáng kể. Khí Công của Việt Vơ Đạo tổng hợp các kinh nghiệm của nhiều Trường Phái khác nhau, chủ yếu để luyện Tâm + Thân theo nguyên lư "Cương Nhu Phối Triển." Cũng để tập trung sức mạnh của TÂM THÂN trong tự vệ chiến đấu, điều trị bệnh tật và gia tăng tuổi thọ.

Phương pháp Khí Công trong vơ thuật c̣n gọi là: Nội Công. Nội Công là phương pháp luyện tập những phần bên trong của cơ thể con người (không luyện cơ bắp như thể dục thể thao). Luyện bên trong tức là phương pháp luyện để:

  • Kinh mạch điều ḥa (luyện Kinh Mạch).
  • Thần kinh vững mạnh (luyện Tâm).
  • Lục phủ ngũ tạng được kích phát và kháng kiện (luyện Phủ Tạng).

Muốn "luyện bên trong" chủ yếu là phải vận dụng hơi thở. Thở đúng phương pháp là cơ bản của việc luyện công. Thở tự nhiên hàng ngày là thở Vô Thức. Thở Nội Công là thở Có Ư Thức. Thở chủ động theo phương pháp đă được nghiên cứu công phu.

Cách Thở Nội Công:

A. Thở Bụng: là cách thở chủ yếu, trong Nội Công gọi là "Thở Thuận".

 

    a. Trong khi luyện thở có thể Nằm - Ngồi - Đi - Đứng đều được cả, nhưng bao giờ cũng phải giữ cho xương sống thật thẳng.

  • Nằm: Trên một mặt bằng cứng (không nệm, không gối đầu) hai tay để úp xuôi theo thân ḿnh.
  • Ngồi: Ngồi xếp bằng theo lối bán già hay kiết già tùy ư. Cũng có thể ngồi trên ghế, không dựa lưng, hai chân để xuôi xuống sàn một cách ngay ngắn, hai tay buông xuôi xuống hoặc để trên hai bắp vế. Giữ lưng thẳng góc với mặt ghế.
  • Đứng: Đứng thật thẳng như thế "Nghiêm" nhưng hai chân ngang rộng khoảng 25cm cho vững. Hai tay buông xuôi thoải mái, không co cứng cơ.
  • Đi: Hai chân di động nhưng giữ thân người thật thẳng.

Dù ở tư thế nào hai tay và hai vai đều buông lỏng thoải mái. Trước khi thở phải gạt bỏ tạp niệm. Tập trung ư vào hơi thở.

Lưu ư: chữ Khí dùng ở đây chỉ là Khí Trời, tức Hơi Thở, không phải là Chân Khí như đă định nghĩa.

    b. Thực Hành

  • Nạp Khí: Hít khí trời thẳng vào bụng dưới, tất nhiên bụng dưới sẽ căng lên.
  • Vận Khí: Nín thở, dồn hơi vào Đan Điền (cách vùng bụng dưới rốn khoảng 3-4cm) rồi dồn khí luân lưu theo Kinh Mạch.
  • Xả Khí: Thở ra hết, thót bụng lại, từ từ nhẹ nhàng cho hơi ra hết.
  • Bế Khí: Ngưng thở trong lúc bụng trống rỗng, nhíu cơ hậu môn lại và tưởng tượng khí của toàn cơ thể trở về Đan Điền.

Một ṿng thở đủ bốn nhịp như thế gọi là Phép Thở 4 Th́.

 

    Lưu ư:

  1. Cả 4 th́ đều phải: Êm, Nhẹ, Đều Đặn. Kết hợp co cơ và giăn cơ, nhưng giăn cơ là chính.
  2. Tự điều ḥa 4 nhịp sao cho vừa phải để cảm thấy thoải mái, dễ chịu.
  3. Nếu chỉ Nạp, Vận, và Xả mà không Bế Khí Í th́ đó là phép thở 3 th́. Nếu chỉ Nạp và Xả không thôi th́ đó là phép thở 2 th́. Các Đạo Gia thường áp dụng lối thở hai th́ và lấy thư giăn là chủ yếu.
  4. Những người bị bệnh do cao huyết áp, bệnh Tim mạch, bệnh Hen Suyễn chỉ nên thở 2 th́. Thở thật đều, nhẹ và êm.

B. Thở Ngực (C̣n gọi là Thở Nghịch):

  • Lúc Nạp Khí, Ngực căng lên, Bụng thót lại.
  • Lúc Xả Khí, Ngực xẹp xuống, Bụng hơi ph́nh ra.

Phép Thở Nghịch rất tốt cho Phế Nang Thượng, tạo sự cường tráng. Người mới tập thở mỗi ngày nên chia làm nhiều lần, mỗi lần khoảng 5, 10 phút và thật đúng giờ, trong tư thế Đi - Đứng - Ngồi - Nằm đều được cả.

Khi đă thở quen, dần dần tăng thời gian tập lên. Những nhà Khí Công chuyên nghiệp họ thở hầu như suốt ngày, dĩ nhiên trừ lúc ăn no, làm việc nặng, ngủ nghỉ. Đây mới chỉ là những cách thở căn bản trong Khí Công. Thở đúng cách theo các tư thế khác nhau là chúng ta bắt đầu bước vào con đường luyện tập Khí Công hay Nội Công vậy.

 

Khí Công Bài Hai - Phương Pháp Luyện Khí

03-14-2002
-- VS Trần Huy Phong

 

Lời Tác Giả: Năm 1993, tôi có viết một bài "Khái Lược Về Khí Công" cùng với giáo sư Ngô Gia Hy, đăng trong Đặc San Việt Vơ Đạo nhân dịp kỷ niệm phái đoàn Pháp về thăm Việt Nam. Đặc san này đă có phổ biến khá rộng răi. Trước khi vào bài hai "LUYỆN KHÍ", các bạn nên đọc lại bài "Khái Lược Về Khí Công" để có sự hiểu thấu đáo hơn.

 


Khí là nguồn năng lực sống của con người (vital energy). Có hai loại Khí: Khí Tiên Thiên do cha mẹ truyền thụ, Khí Hậu Thiên do ta tiếp thụ qua dinh dưỡng và môi trường sống. Khí luân lưu khắp cơ thể, qua các đường Kinh Mạch vào Lục phủ ngũ tạng. Khí biểu hiện dưới cả hai dạng vật chất và tinh thần (các nhà khoa học đă dùng máy móc để thí nghiệm và xác minh điều đó), nhưng với mắt thường ta không nh́n thấy được. Không bao giờ được lầm lẫn Khí và Khí Trời (tức không khí), v́ không khí (air) chỉ là một trong những phương tiện, dùng để hô hấp trong khi Luyện Khí. Vơ lâm Trung Nguyên thường truyền tụng một câu nói rất nổi tiếng:

      Lực bất đả quyền
      Quyền bất đả công
      Luyện vũ bất luyện công
      Đáo lăo nhất trường không

Có nghĩa là "người chỉ có sức khỏe không thôi th́ không thể đánh người giỏi quyền pháp, và người có quyền pháp không thắng được người có Khí Công. Tập vơ mà không luyện Khí Công th́ khi về già sẽ không c̣n ǵ nữa".

Những Phương Pháp Thở Thông Thường
Để Chuẩn Bị Luyện Khí

Lưu ư: Thở đúng phương pháp là phần cơ bản của việc luyện Công. Thở hàng ngày là thở tự nhiên, thở vô thức. Thở Khí Công hay Nội Công là thở có ư thức, thở theo phương pháp. Các bài thở thông thường này, chưa cần thiết phải áp dụng những phương pháp Nhập Tĩnh, Thu Công.

Tư Thế: Trong khi luyện thở, có thể Nằm - Ngồi - Đứng đều được cả, nhưng bao giờ cũng phải cho đầu, cổ và xương sống thật thẳng th́ Khí mới có thể lưu thông được.

  1. Nằm: trên một mặt bằng và cứng (không nệm, không gối đầu), hai tay để úp, xuôi theo thân ḿnh. Hai chân duỗi thẳng, gót chân chạm nhau, mũi bàn chân ngả ra hai bên. Tư thế nằm áp dụng cho những người sức khỏe quá yếu, hoặc những người thiếu máu, không thể ngồi lâu được.
  2. Ngồi: ngồi xếp bằng theo lối bán già hay kiết già tùy ư, cũng có thể ngồi trên ghế, không dựa lưng, hai chân để xuôi xuống sàn một cách tự nhiên, ngay ngắn, hai tay buông xuôi xuống hoặc để trên hai bắp vế. Điều quan trọng là phải giữ cho đầu, cổ xương sống xuống đến hậu môn ở trên một đường thẳng. Ngồi là tư thế đúng nhất và tốt nhất cho việc Luyện KhíÍ.
  3. Đứng: Hai chân đứng song song, dang rộng khoảng 25cm, cho vững, hai tay buông xuôi theo thân người, hai đầu gối hơi chùng xuống một chút, nặng ở hai gót chân, buông lỏng hai vai. Tư thế đứng dùng để tập luyện nhiều động tác quan trọng.

Dù ở tư thế nào, thân, vai, bụng đều buông lỏng, thoải mái. Trước khi thở phải gạt bỏ hết mọi ư nghĩ, tập trung tinh thần vào hơi thở. Trước khi Luyện Khí nên biết Thư Giăn. Không biết Thư Giăn th́ kết quả Luyện Khí sẽ bị giới hạn rất nhiều:

  1. Thư giăn Cơ Bắp: buông lỏng tất cả dường gân, thớ thịt: từ đầu ngón tay cho tới tứ chi, vai, bụng và toàn thể thân người, coi như toàn thân mềm nhũn ra, không c̣n một trương lực nào cả.
  2. Thư giăn Tâm Thần: để bộ năo từ từ tan biến đi, không c̣n một ư thức nào nữa, không nghe, không thấy, không biết ǵ nữa, cứ để tâm ch́m vào hư vô... Mới đầu khó thực hiện, nhưng sau sẽ quen dần.

Động tác Thư Giăn sẽ giúp ta thấy nhẹ nhàng, khoan thai, dễ chịu sau những giờ làm việc căng thẳng. Thư giăn thoải mái xong mới bắt đầu tập luyện.

I. Thở Bụng (c̣n gọi là thở Thuận):

1. Phương pháp thở bụng 2 thời liên tục: ngồi bán già hay kiết già, hay ngồi trên ghế hoặc đứng, hoặc nằm trên mặt phẳng và cứng, không gối đầu, mục đích giữ cho đầu, cổ, lưng thật thẳng, hai tay buông xuôi.

a. Nạp Khí: Từ từ hít hơi vào thẳng bụng dưới theo phương pháp: đều, nhẹ, êm, sâu (khi đầy, bụng hơi ph́nh ra).

b. Xả Khí: ngay khi đó, từ từ thở ra cũng đều- nhẹ - êm và thở ra hết.

Ghi chú quan trọng:
- Hít vào và thở ra đều bằng mũi.
- Công thức: mới tập theo công thức 3-3 (nghĩa là hít vào trong 3 giây và thở ra cũng đúng 3 giây, nghĩa là thở 10 ṿng trong 1 phút. Cách đếm: ba trăm lẻ một, ba trăm lẻ hai, ba trăm lẻ ba... cứ đếm đều đặn là rất đúng, nếu cần lấy đồng hồ ra căn lại cách đếm cho chính xác hơn), dù ta có thể tập dài hơn cũng đừng cố, phải tập ít nhất trong 3 tuần lễ mới có thể tăng dần.

Về sau, khi đă tập luyện vững vàng rồi, ta có thể theo công thức: 5-5 (tức 5 ṿng thở ra một phút) hoặc 6-6 (tức 6 ṿng thở trong một phút). Một người b́nh thường, thở trung b́nh 15 ṿng trong 1 phút, nếu nay ta thở chỉ c̣n 10 ṿng/phút là đă khá tốt rồi.

So sánh với nhịp thở của một loài động vật: gà mái 30 nhịp/phút, chó 28 nhịp/phút, mèo 24 nhịp/phút, ngựa 16 nhịp/phút, rùa 2 nhịp/phút. Nếu nhiều công phu tập luyện, sau này ta có thể thở từ 2 nhịp hay 1 nhịp trong một phút th́ tuổi thọ của ta có thể tăng lên như loài rùa. Mặt khác, khi thở chậm, nhịp tim cũng sẽ đập chậm lại và đều hơn. Giả thử nhịp tim đang từ 90 giảm xuống 60 lần/phút, tức là tiết giảm được 30 lần/phút. Nếu tính trong một năm th́ sẽ tiết giảm được:

30 lần x 60 x 24 x 365 ngày = 15,768,000 lần. Tập đúng: thân thể tráng kiện, da mặt hồng hào, sáng láng, mắt sáng, tinh thần thoải mái dễ chịu.

Tập sai: Nồng độ CO2 trong máu quá cao, gây ra các triệu chứng dễ nhức đỉnh đầu và vùng gáy. Tim bị hồi hộp, ăn không tiêu... gặp trường hợp này, xả trong một tuần lễ sẽ khỏi (xem cách XẢ ở phần Thụ Công - đoạn chót bài 4).

2. Phương pháp thở bụng 3 thời: công thức 3-3-3 hoặc 4-4-4. Nghĩa là Nạp Khí trong 3 giây. Sau đó dồn khí xuống Đan Điền (tức huyệt Khí Hải - cách lỗ rốn khoảng từ 3 tới 4 cm), ngưng tụ khí tại đó trong 3 giây, làm cho đan điền căng lên, đồng thời ta nhíu hậu môn và đường tiểu tiện lại. Sau đó, buông lỏng tất cả và từ từ Xả Khí ra trong 3 giây, cho không khí ra hết, xả xong lại tiếp tục Nạp Khí, thở cho ṿng kế tiếp, liên tục không ngừng. Sự ngưng tụ khí tại Đan Điền này rất quan trọng sẽ giải thích sau.

3. Phương pháp thở bụng 4 thời: công thức 3-3-3-3 về sau khi thở đă quen có thể áp dụng công thức 4-4-4-4 hoặc cao hơn nữa (nhưng đừng cố quá sẽ có hại!). Nạp trong 3 giây, ngưng tụ tại Đan Điền trong 3 giây, nhíu hậu môn và đường tiểu tiện lại, như nói ở đoạn trên. Sau đó buông lỏng tất cả, Xả (tức thở ra nhẹ, đều, êm trong 3 giây cho hết không khí). Khi bụng đă xẹp hết hơi, ta Bế Khí, tức là ngưng thở hoàn toàn, để bụng trống rỗng trong 3 giây... rồi lại tiếp tục Nạp Khí cho ṿng kế tiếp.

Ghi chú: Việc thở phải điều ḥa, liên tục, nhịp nhàng và bao giờ cũng phải Êm - Nhẹ - Đều - Dài. Thở hấp tấp, vội vàng, cốt cho đủ số là hoàn toàn vô ích!

Nên khai thác triệt để hơi thở trong ngày: nếu ta chỉ tập thở trong những buổi chính thức theo đúng nghi thức, th́ nhiều lắm, mỗi ngày, ta cũng chỉ tập được hai buổi (mỗi buổi khoảng nửa giờ mà thôi) và tất nhiên kết quả chỉ có giới hạn. Nhưng theo lối thở phổ thông tŕnh bày ở trên, ta có thể thở bất cứ lúc nào, bất cứ tại đâu, tại văn pḥng, trong xưởng, trong pḥng khách, tại nơi đang làm việc v.v... Ta khai thác được rất nhiều dịp thở trong ngày mà những người xung quanh không hay biết, theo kiểu "tích tiểu thành đại", lâu dần thành thói quen. Càng thở nhiều càng thấy thoải mái dễ chịu không bị mệt mỏi, căng thẳng, chán nản, mất tinh thần... Tất nhiên không nên thở lúc ăn no, uống say hoặc lúc làm việc nặng.

II. Thở Ngực (c̣n gọi là thở nghịch):

Đây là phương pháp thở phổ thông trong các môn thể thao, điền kinh của Tây phương.

1. Phương Pháp:

Khi Nạp Khí, ta dồn không khí lên ngực trên, bụng sẽ thót lại. Lúc Xả Khí, ngực sẽ xẹp xuống, bụng hơi ph́nh ra. Phép thở nghịch tốt cho Phế Nang Thượng, làm cho ngực nở nang, nhưng không hữu dụng cho phương pháp tập KHÍ CÔNG.

2. Lư giải theo Y-học Tây phương:

Khi ta tập các cơ bắp như tập tay, tập chân, tập cổ, tập ngực v.v... ta thường dùng các dụng cụ như tạ, dây kéo, para fix, parallel, hoặc hít đất, nhẩy xổm, bơi lội v.v... Nhưng nếu ta muốn tập các bộ phận bên trong như Tim, Gan, T́, Phế, Thận (ngũ tạng) hoặc Dạ Dầy, Mật, Bàng Quan, Tam Tiêu, Ruột Non, Ruột Già (lục phủ)... nhất là các Kinh Mạch và Thần Kinh, th́ chúng ta tập ra sao?

Người xưa dạy ta tập bằng cách Thở Khí Công: khi ta Nạp không khí vào phần Hạ Phế (phổi dưới) - nói là thở Bụng, nhưng thực tế, không bao giờ không khí có thể vào thẳng bụng được. Không khí vào phần Phổi dưới, nó sẽ nở ra, đẩy Cơ Hoành và Cơ Bụng xuống, làm cho Lục Phủ Ngũ Tạng bị ép nhẹ xuống. Khi ta Xả Khí, Cơ Hoành và Cơ Bụng lại nâng Lục Phủ Ngũ Tạng lên. Như vậy, toàn bộ các cơ quan trong người ta cứ liên tục bị nhồi lên, ép xuống một cách nhẹ nhàng, nhu nhuyễn, như vậy các bộ phận bên trong của ta đă được "thoa bóp bằng hơi một cách vô cùng êm ái". Nói cách khác, Lục Phủ Ngũ Tạng của ta đă được tập luyện bằng những đệm hơi rất vi tế. Một khi các bộ phận trong người đă được tập có phương pháp như thế th́ tất nhiên chúng sẽ trở nên linh hoạt, không bị u trệ và hoạt động tốt hơn, do đó Kinh Mạch của ta sẽ vận hành đều ḥa hơn. Mặt khác, v́ phải tập trung tinh thần, không suy nghĩ vẩn vơ, điều này sẽ giúp cho Thần Kinh của chúng ta vững vàng, Tâm không bị giao động, âm dương được quân b́nh.

Tập như thế, tức là Tập Bên Trong - Công Phu Tập Luyện Bên Trong- Tức là Tập Nội Công vậy.

Ghi chú: Nếu chịu khó tập Thở Nội Công liên tục đều dặn, sau 3 tháng sẽ có kết quả cụ thể: người khỏe mạnh, năng động, vui tươi, giảm lượng đường trong máu, giảm cholesterol, giảm huyết áp (nếu có), ăn uống, tiêu hóa tốt, sinh lư mạnh và có thể chữa khỏi những chứng bệnh thông thường...

 

Khí Công Bài Ba - Luyện Khí

 
VS Trần Huy Phong

 

Lời mở đầu: Khí công có nhiều Nhà, nhiều Phái. Tại Trung Quốc hiện có tới 3000 trung tâm đang học tập và nghiên cứu Khí Công và ít nhất cũng có 18 Viện Đại Học đang dùng các phương pháp Khoa Học để nghiên cứu Khí Công. Đại học Bắc Kinh, Thanh Hoa, Giao Đại... đă dùng máy phát tia hồng ngoại đo được sự biến đổi nhiệt độ khi vơ sư phát công. Các nhà bác học dùng máy quang phổ tử ngoại đo độ kiềm của DNA và RNA, khi có tác động của KHÍ CÔNG, đều thay đổi đến mức làm thay vật mẫu.

Trong công nghiệp cần áp xuất hàng trăm Atmosphere và ở nhiệt độ 300 độ C để hỗn hợp hydro với carbon, nhưng khi có tác động của Khí Công th́ phản ứng có thể xảy ra ở điều kiện 01 Atmosphere và 13 độ C. Tại đại học Đài Bắc, Giáo sư Lư Tự Sầm, Chủ Nhiệm Khoa Học Điện Cơ đă dùng khoa học nghiên cứu được những thành tựu cụ thể về môn Khí Công như có khả năng chữa được một số bệnh cho người khác, ngay cả từ xa và ngược lại, vơ sư cũng có thể dùng sát khí để giết hại đối thủ từ xa...

 


Khí Công của Vovinam-Việt Vơ Đạo, tổng hợp kinh nghiệm của nhiều Trường Phái khác nhau, nhưng có những nét đặc thù riêng, mục đích để luyện Tâm + Thân theo nguyên lư Cương Nhu Phối Triển. Chủ yếu luyện Khí Công để Dưỡng sinh, bảo kiện, tăng cường thể lực để tự chữa một số bệnh cho chính bản thân và nếu khá hơn, có thể phát công để trị bệnh cho người khác. Đặc biệt là có khả năng tập trung sức mạnh của Tâm Thân, áp dụng trong tự vệ và chiến đấu.

Tôi đă dự định viết một cuốn "Nội Công Nhập Môn Việt Vơ Đạo" từ mấy năm trước, nhưng không may tôi bị lâm trọng bệnh, nên chưa thực hiện được. Do yêu cầu của một số môn sinh, đề nghị tôi viết tiếp một vài bài nữa sau bài "Khái Lược Về Khí Công" đăng trong tập san Việt Vơ Đạo - Trở Về Nguồn xuất bản năm 1993. Mặc dù đang tiếp tục điều trị bệnh tại Pháp (đợt 3), tôi cũng cố gắng đáp ứng lời yêu cầu của các bạn.

1. Môi Trường Tập:
Môi trường tập rất quan trọng, để tránh những tác động của khung cảnh từ bên ngoài có thể tác động không tốt vào cơ thể.

Không gian: Yên tĩnh - Sạch sẽ - Thoáng mát (đừng để bị ngoại cảnh quấy rầy, nhất là những thứ ảnh hưởng tới Ngũ Quan và cần nơi an toàn...) Không nên ngồi tập chỗ có gió lùa. Khi trời giông băo, sấm sét, mưa to, điện trường xung quanh biến động quá nhanh. Nên ngồi tập trên một tấm chiếu hay một tấm mền mỏng.

Thời gian: Người xưa chia thời gian theo giờ sinh thái rất phức tạp, ngày nay ít ai theo được. Tốt nhất là nên tập vào lúc b́nh minh, hoặc vào những giờ rảnh rỗi, không bị công việc chi phối là được.
 

  • Không nên luyện công trong lúc ăn no, uống say, chỉ tập khi bụng đă nhẹ (sau bữa ăn khoảng 2 giờ).
  • Không tập khi đau yếu, hoặc khi làm việc quá mệt mỏi.
  • Không giao hợp trước và sau buổi tập.
  • Uống một ly nước đun sôi để nguội trước và sau buổi tập.

2. Chuẩn bị tư tưởng:
Trước khi tập thở Nội Công, điều quan trọng trước hết là phải chuẩn bị Ư Niệm và Tư Tưởng: hăy buông bỏ tất cả... không c̣n h́nh ảnh nào vương vấn trong tâm ta nữa, không lo lắng, ưu tư, yêu ghét ǵ nữa... cuộc đời dù có ghê gớm đến đâu, ta cũng nên "vứt bỏ ra ngoài trong chốt lát, để Tâm được thực sự an b́nh, thư thái (điều Tâm).

3. Tư thế mẫu:
Hướng ngồi nên theo hướng Nam Bắc (quay mặt về hướng Bắc cho hợp với Địa từ, nhưng cũng không cần quan trọng hóa). Ngồi kiết già hay bán già đều được cả, miễn sao thấy thoải mái. Áp dụng các nguyên tắc sau:

  • Lưng thẳng, cổ thẳng, đầu ngay ngắn, cằm hơi thu lại.
     
  • Bụng lỏng, hai vai và hai tay buông lỏng, toàn thân thư giăn (điều thân) cho hai mạch Nhâm Đốc và 12 kinh thông.
     
  • Miệng ngậm để giữ Khí, lưỡi cong đặt trên ṿm ếch để thông giữa hai mạch Nhâm Đốc, nếu có nước miếng th́ nuốt đi.
     
  • Hai ḷng bàn tay để ngửa, chồng lên nhau, đặt ở vị trí bụng dưới. Con Trai tay trái chồng lên trên, con Gái tay phải chồng lên trên.
     
  • Mắt nhắm để định thần, tư tưởng tập trung dùng Ư dẫn Khí, v́ vậy phải thuộc vị trí của các đại huyệt (coi bảng hướng dẫn).
     
  • Đầu tiên hơi thở phải tự nhiên, đều đặn (điều Tức).
     
  • Nhập Tĩnh: Tập trung tinh thần, ta nhẩm đọc bài Kệ, trong ư:

      Lưng thẳng, vai mềm, bụng lỏng ra,
      Gát phăng ư nghĩ khỏi đầu ta,
      Điều hơi, vận khí theo phương pháp,
      Óc cố, tâm yên, tiến rất xa.

(Óc cố có nghĩa là đầu óc chỉ tập trung cố định vào một điểm như hơi thở chẳng hạn).

Nếu Tâm vẫn chưa thực sự yên tĩnh, ta nhẩm đọc bài Kệ sau đây:

      Chẳng mừng giận, cũng không yêu ghét,
      Chẳng thương xót, cũng không lo buồn,
      Đă không ham muốn, có chi sợ hăi,
      Để ḷng thanh thản, an nhiên tự tại.

4. Luyện Công:
Khi Tâm hồn đă thực sự đi vào yên tĩnh và thoải mái, ta bắt đầu luyện Công theo phương pháp 3 thời hoặc 4 thời, nhưng theo các nguyên tắc sau đây: 3-6-3.

  • Mượn hơi thở không khí bằng mũi, thở Nhẹ - Êm - Dài, nhưng thực tế dùng ư thở bằng toàn thân.
     
  • Tất nhiên vẫn thở như bài luyện thở Nội Công số 2, nhưng không quan tâm nhiều đến hơi thở (bằng khí trời) như trước mà thở gần như vô thức. Nhưng điểm chủ yếu là Thở Bằng Ư, thở bằng tất cả các huyệt đạo, bắt đầu thở từ huyệt Bách hội (đỉnh đầu), thở bằng tất cả các huyệt cao trên đầu, thở bằng lỗ tai, thở bằng các huyệt Dũng Tuyền (giữa gan bàn chân), bằng các huyệt Lao Cung (giữa gan bàn tay), thở bằng tất cả những lỗ chân lông, dưới hạ bàn, từ hậu môn, bộ phận sinh dục, từ huyệt Hội Âm, Trường Cường và các huyệt đạo khác... ta hấp thụ được Địa Khí v.v.. nghĩa là toàn thân đều thở. Thở như thế, có nghĩa là toàn bộ cơ thể ta đă được hấp thụ được nhiều Tinh Khí của trời đất, của Vũ Trụ, của các tia alfa, các tia điện từ của trái đất và các hành tinh khác...

Ta dồn tất cả các khí "Âm Dương" của trời đất ấy, tích tụ vào Đan Điền, nén thành một trái cầu ngũ sắc, to như một quả cam. Ta vận hành cho trái cầu này quay tṛn trong Đan Điền, theo chiều quay của kim đồng hồ và ngược lại. Trái cầu này sẽ phát ánh sáng, soi sáng Lục Phủ Ngũ Tạng của ta, rồi soi sáng khắp các Kinh Mạch và cơ thể ta, có thể đó chỉ là do ta tưởng tượng ra mà cũng có thể là thật. Ánh sáng đó mỗi lúc một sáng, soi toả khắp cơ quan trong người. Hiện tượng này có thể chỉ là ư niệm, nhưng cũng có thể là sự thật. Người Tây phương sẽ khó có thể cảm nhận được hiện tượng này.

Trái cầu ấy chính là Khí Hậu Thiên của Trời Đất, kết hợp với Khí Tiên Thiên vốn đă sẵn có trong cơ thể ta để tăng cường, phối hợp, làm thành Chân Khí, mà Chân Khí là cái gốc của sự sống, nó lưu hành, cung ứng cho các Kinh Mạch và Nội Tạng của ta. Trái cầu "Chân Khí" đó, sau khi cung ứng cho các nội tạng và Kinh Mạch, nó sẽ mờ dần và nhỏ dần, chỉ c̣n là một điểm sáng... Nhưng sau đó ta lại tiếp tục thở, tiếp tục Nạp... trái cầu lại càng lớn và sáng trở lại... và cứ thế tiếp tục măi cho đến hết buổi tập. Trung b́nh, mỗi buổi tập ít nhất cũng phải kéo dài trong 30 phút, ta sẽ tiếp thụ được thêm Chân Khí.

 

Khí Công Bài Bốn - Luyện Ṿng Tiểu Chu Thiên

 
VS Trần Huy Phong

 

Ghi chú: Ṿng Tiểu Chu Thiên (c̣n gọi là Ṿng Nhâm Đốc Mạch) xưa kia được coi như một phương pháp Khí Công bí truyền v́ Luyện Ṿng Tiểu Chu Thiên duy tŕ sự quân b́nh Âm Dương. Khí luôn vận hành theo ṿng khép kín, không bao giờ ngừng, tầm mức tác dụng rất cao vào toàn bộ Kinh Mạch và chức năng của Phủ Tạng.

Hướng đi của hai mạch Nhâm Đốc:

  • Mạch Nhâm thuộc Âm (thuộc phía trước thân ngực, bụng của ta).
  • Mạch Đốc thuộc Dương (thuộc phía sau lưng, chạy qua đỉnh đầu của ta).

Theo luật Âm giáng (đi xuống), Dương thăng (đi lên) th́:

  • Mạch Nhâm sẽ đi từ huyệt Thừa Tương (huyệt nằm ở giữa cằm, cách môi dưới độ 1cm), đi xuống theo đường giữa bụng, xuống đến huyệt Hội Âm (huyệt Hội Âm nằm ở chính giữa bộ phận sinh dục và hậu môn).
  • Mạch Đốc sẽ đi ngược lên, đi từ huyệt Trường Cường (huyệt này nằm ở điểm chót của đốt cột sống cuối cùng, ngay đầu hậu môn), chạy ngược lên, qua đỉnh đầu, xuống tới huyệt Ngân Giao (là huyệt nằm ở chính giữa ṿm miệng, thường gọi là hàm ếch).

V́ vậy, trong tập luyện ṿng Tiểu Chu Thiên, cũng như luyện các phương pháp Khí Công khác, lưỡi luôn phải uốn cong, đặt lên nóc hàm ếch, tại vùng huyệt Ngân Giao, nhằm khép kín ṿng Âm Dương, để Khí không bị phân tán.

Nhập Tĩnh: Ngồi bán già hay kiết già, hoặc ngồi trên ghế, từ huyệt Bách hội (đỉnh đầu) qua sống lưng, xuống huyệt Hội Âm đều nằm trên một trục thẳng.

I. Luyện Nhâm Mạch và Đốc Mạch riêng (áp dụng phương pháp thở hai thời)

1. Luyện Nhâm Mạch:

  • Thở vào: từ từ dẫn Khí theo Mạch Nhâm, đi từ huyệt Thừa Tương xuống huyệt Hội Âm.
  • Thở ra:từ từ dẫn Khí theo Mạch Nhâm, đi từ huyệt Hội Âm đi ngược lên huyệt Thừa Tương.

2. Luyện Mạch Đốc:
 

  • Thở vào: dẫn Khí từ huyệt Trường Cường, ngược lên theo cột sống, qua đỉnh đầu, tới huyệt Ngân Giao (ṿm miệng)
     
  • Thở ra: dẫn Khí từ huyệt Nhân Trung (huyệt này nằm giữa vùng môi trên, ngay giữa sống mũi), lên đỉnh đầu, xuống gáy, chạy dọc theo cột sống, xuống huyệt Trường Cường.

II. Luyện ṿng Nhâm Đốc chung: thông suốt hai mạch mà không cảm thấy vướng víu, do đó cần tập trung Ư để Khí có thể chạy dễ dàng.
a. Phương pháp thứ nhất: Luyện ṿng Tiểu Chu Thiên theo hai hơi thở (mỗi hơi hai thời).
 

.. Hơi thở thứ nhất:

  • Thở vào: dẫn Khí từ huyệt Thừa Tương, xuống tới huyệt Khí Hải, hay Đan Điền.
  • Thở ra: dẫn Khí từ huyệt Khí Hải xuống Hội Âm rồi theo Đốc Mạch lên huyệt Trường Cường, đồng thời co thắt hậu môn để đẩy Khí lên.
     

.. Hơi thở thứ hai:

  • Thở vào: dẫn Khí từ huyệt Trường Cường cho tới huyệt Đại Chùy (huyệt này nằm dưới các đốt xương cổ, nhưng ngay ở đốt xương sống đầu tiên, khi ta cúi đầu xuống, ở phần giáp xương cổ và lưng có một cục xương nhô cao, sát bên dưới đốt xương đó là huyệt Đại Chùy).
  • Thở ra: dẫn Khí từ huyệt Đại Chùy cho tới huyệt Nhân Trung.

b. Phương pháp thứ hai: Luyện nguyên ṿng Tiểu Chu Thiên bằng một chu kỳ thở

  • Thở vào: tưởng tượng Khí nhập vào huyệt Thừa tương, dẫn xuống qua huyệt Khí Hải, tới Hội Âm (trong 5 giây)
  • Thở ra: Co thắt hậu môn, đẩy Khí từ huyệt Hội Âm, ngược theo cột sống, chạy lên đỉnh đầu (huyệt Bách Hội), rồi tới huyệt Nhân Trung (trong 5 giây).

Cứ thế tiếp tục không ngừng nghỉ cho đến hết buổi tập. Đến khi kết thúc buổi tập, lúc thở ra, ta sẽ dẫn Khí xuống thẳng Đan Điền.

c. Phương pháp thứ ba: Luyện hai ṿng Tiểu Chu Thiên bằng một chu kỳ thở:

  • Thở vào: dẫn Khí đi từ huyệt Thừa Tương, chạy suốt hai mạch Nhâm Đốc đến huyệt Nhân Trung.
  • Thở ra: cũng dẫn Khí chạy suốt hai mạch Nhâm Đốc, nhưng ở ṿng cuối, dẫn Khí chạy thẳng xuống Đan Điền.

d. Phương pháp thứ tư:Luyện nhiều ṿng Tiểu Chu Thiên bằng một chu kỳ thở ba thời:

  • Tạm ngưng thở: dẫn Khí chạy lướt qua ṿng Nhâm Đốc mạch.
  • Thở vào: tụ Khí đầy ở huyệt Thừa Tương.
  • Ngưng thở: Tập trung ư, dẫn Khí chạy theo đường Nhâm Đốc mạch từ 3 đến 4 lần nhanh. Ở ṿng cuối cùng dẫn Khí xuống Đan Điền.
  • Thở ra: tưởng tượng Khí tỏa ra khắp vùng bụng dưới.

e. Phương pháp thứ năm:Vận Khí chạy ngược ṿng Nhâm Đốc Mạch. Sau khi đă tập thành thục, ta có thể:

1. Vận Khí chạy ngược với đường đi tự nhiên trên ṿng Nhâm Đốc:

  • Thở vào: Vận Khí từ huyệt Hội Âm ngược lên đường giữa bụng, lên huyệt Thừa Tương (luyện Nhâm Mạch).
  • Thở ra: vận Khí từ huyệt Thừa Tương, lên mặt, qua đỉnh đầu, chạy dọc xương sống xuống Hội Âm, về Đan Điền.

2. Vận Khí chạy ngược xuôi, qua lại, tới lui trên suốt ṿng Nhâm Đốc:
Có khi, chỉ cần dùng lưỡi, để lên ṿm miệng (hàm ếch), hơi thở tự nhiên b́nh thường, tự động ṿng Nhâm Đốc vận hành chạy liên tục không ngừng nghỉ. Tất nhiên phải đạt tới giai đoạn nhuần nhuyền lắm th́ mới có thành tựu như vậy được.

Ghi chú: những huyệt khó vượt qua trên mạch Đốc

  • Huyệt Trường Cường (nằm ở đốt xương cùng của cột sống), từ Hội Âm lên Trường Cường phải qua hậu môn, là một đường cong... v́ thế, ta phải co thắt hậu môn để giúp đẩy Khí lên.

     

  • Huyệt Mệnh Môn (nằm trong khối thận, khoảng chính giữa trục Đan Điền và cột xương sống.) Khi dẫn Khí qua Mệnh Môn, ta chỉ cần tập trung Ư, cho chạy chậm lại một chút là có thể vượt qua dễ dàng.

     

  • Huyệt Năo Hộ (nằm trên vùng gáy, dưới Bách Hội, ngang với huyệt Ấn Đường ở phía trước), v́ Khí phải vượt qua đường hơm, ṿng cung của gáy nên khó đi, nhưng nếu ta tập trung Ư, cho chạy chậm lại một chút th́ Khí sẽ vượt qua dễ dàng.

     

  • Người mới tập ṿng Tiểu Chu Thiên, lúc đầu chưa thấy cảm giác ǵ. Nhưng sau thời gian tập quen, ta tập trung được Tâm Ư, dẫn Khí đi đúng hướng, không bị phân tán, lúc đó ta sẽ thấy một luồng chân Khí chạy thành ṿng cung trên suốt ṿng Nhâm Đốc.

Tầm quan trọng của ṿng Nhâm Đốc: luyện ṿng Nhâm Đốc là sự giao ḥa giữa Tiên Thiên (mạch Đốc vốn là di sản của cha mẹ), và Hậu Thiên (mạch Nhâm được tiếp thụ từ đời sống bên ngoài).

Luyện Tiểu Chu Thiên làm thanh khiết và quân b́nh Âm Dương, tránh được sự rối loạn chức năng của Phủ Tạng. Luyện ṿng Tiểu Chu Thiên là bước đầu tác động vào Tinh - Khí - Thần, tiến tới bài tập để "Tinh biến thành Khí, Khí biến thành Thần".

 

 

Khí Công Bài Năm - Luyện Tinh - Khí - Thần và Nội Lực

 
VS Trần Huy Phong

 

A. Tinh - Khí - Thần
Tinh, Khí, Thần là tam Bảo của con người, không có chúng th́ chúng ta không thể tồn tại được. Tinh - Khí - Thần cũng đều có Tiên Thiên và Hậu Thiên, do đó đều có thể luyện tập để trở nên tăng tiến, sung măn.

Tinh Tiên Thiên: (c̣n gọi là Nguyên Khí) là tinh chất cốt lơi của con người, vốn là do Âm Dương của cha mẹ truyền lại, v́ vậy, Tinh là nguồn mạch của sự sống, nó duy tŕ tính chất di truyền của gene DNA.

Tinh Hậu Thiên: (c̣n có tên gọi là Thiên Địa Khí và Thủy Cốc Khí) có chức năng duy tŕ và bù đắp cho sự tiêu hao của Tinh Tiên Thiên, do ta hấp thụ từ trời đất (tiết thực, dinh dưỡng, thu nạp trong những môi trường sống nói chung).

Phân biệt như vậy cho có nguồn gốc, thực ra Tinh Tiên Thiên hay Tinh Hậu Thiên cùng giao ḥa làm một và ta gọi chung là Tinh Khí.

Sách Hoàng Đế Nội Kinh cho rằng Tinh tích tụ tại Thận, điều này cũng không sai v́ Thận nên hiểu là cơ quan bao hàm cả cơ quan sinh dục, trong đó có tinh hoàn và buồng trứng. Hai Khí giao ḥa với nhau, bổ túc cho nhau để tạo thành một dạng chung gọi là Chân Khí, hàng ngày luân lưu trong các kinh mạch và Lục Phủ Ngũ Tạng của ta.

Chân Khí lại chia thành:
 

  • Vinh Khí: luân lưu trong các Kinh Mạch và Tạng Phủ với chức năng điều ḥa và tăng cường cho sức mạnh của Kinh Mạch và Nội Tạng. Vinh Khí mạnh hay yếu tùy thuộc rất nhiều và tiết thực, v́ vậy chúng ta phải rất cẩn thận trong việc ăn uống.
     
  • Vệ Khí: không đi theo Kinh Mạch mà lại đi vào da thịt. Vệ Khí khuếch tán mạnh có thể đi vào vùng rỗn của khoang ngực, bụng. Tập thở bằng Cơ Hoành (ở bài 2) có thể làm cho Vệ Khí rất có lợi trong luyện tập vơ thuật, nó giúp cho gân, xương, cơ bắp của ta trở nên vững chắc và bảo vệ thân thể ta chống chọi với những thay đổi của môi trường xung quanh (như trong thiết bố sam).

Thần là chủ đạo của năo. Thần có liên quan mật thiết với Tâm, nên mới nói Tâm tàng Thần. Đan Điền của Thần đóng ở Ấn Đường và phía sau là Bách Hội (đỉnh đầu). Nói tóm lại, Tinh là gốc của sự sống, được nuôi dưỡng hàng ngày bởi Khí sinh sau và chịu ảnh hưởng của Chân Khí và Nguyên Khí. Mục tiêu tối hậu của Khí Công là luyện Tinh thành Khí - Luyện Khí thành Thần (trong dịp khác, tôi sẽ tŕnh bày bài tập này).

Tinh - Khí - Thần xét cho cùng chỉ là một Tinh và Thần chỉ là hai dạng khác nhau của Khí. Tinh là trạng thái gốc, Thần là trạng thái thăng hoa của Khí. Ba trạng thái này có liên hệ mật thiết với nhau và có tác động qua lại rất hài ḥa.

B. Nội Lực:
Nội lực là sức mạnh bên trong cơ thể con người, ai cũng có Nội Lực, chỉ nhiều ít khác nhau mà thôi. Nội lực cũng có hai dạng: bẩm sinh và tự tạo. Rất nhiều người, trời sinh ra đă có sẵn một nội lực phi thường và cũng không ít người, khi ra đời chỉ có một sức mạnh yếu kém, nhưng nhờ bền chí luyện tập đúng phương pháp, cũng trở nên những con người có sức mạnh siêu phàm.

Cái gốc của Nội Lực là Tinh - Khí - Thần, nên muốn luyện Nội Lực th́ ta phải đi từng bước. Trước hết luyện Tinh - Khí - Thần, sau đó phải biết phương pháp luyện tập để thúc đẩy nội lực lên. Điều quan trọng là phải biết huy động và tập trung nội lực vào một mục tiêu để "phá vỡ" hay "bẻ gẫy" những chướng ngại cần thiết, nhất là trong vơ thuật.

Nội lực thường tản mát trong khắp cơ thể ta, nhưng thường thường ta không biết sử dụng chúng vào những mục tiêu mong muốn. Có rất nhiều câu chuyện thực tế được kể lại như sau: có nhiều người khi gặp cơn nguy khốn, họ đă vượt thoát được sự hiểm nghèo như nhẩy qua một hố sâu rộng nhiều mét, vượt qua một bức tường 3 mét, phóng ḿnh lên một cành cây cao khi gặp một con gấu đuổi tấn công, vác được những vật nặng hàng trăm kư khi nhà đang bị cháy, bị trượt chân trên một ṭa nhà cao 33 tầng, phải túm lấy nhau, đu bám trên một bậc cửa sổ và đă được thoát chết v.v... nhưng sau đó họ sẽ không thể nào lập lại quá tŕnh đó được nữa, v́ nội lực của họ đă bị phân tán mỏng, không có "yếu tố kích thích để tập trung vào một điểm hay một vùng" của cơ thể để có thể thực hiện được những mục tiêu mong muốn, tất nhiên, không phải bất cứ ai cũng có thể tập trung được nội lực trong lúc hiểm nguy như thế, v́ thường thường lúc đó họ "mất tinh thần, có khuynh hướng buông xuôi !"

Thường thường những nhà quán quân trong các môn điền kinh hoặc những vơ sĩ chuyên nghiệp, do công phu tập luyện hàng ngày đă quá nhuần nhuyễn, nên họ có khả năng tập trung nội lực để phát huy hết khả năng vào đôi chân hay đôi tay... do đó, họ đạt được những thành tích cao. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng làm được những điều mà họ mong muốn, nhiều khi họ cũng bị "phân tâm, mất tự tin" khiến thành tích của họ bị sút giảm. Chỉ khi nào chúng ta tập được tới tŕnh độ "tâm ư tương thông", tập trung được toàn bộ nội lực vào một điểm, đột khởi xuất chiêu th́ lúc đó ta mới có thể cho rằng "ḿnh đă tự làm chủ được nội lực của ḿnh".

Muốn phát huy được nội lực cao độ để thực hiện những mục tiêu mong muốn, ta phải thực hiện được hai yếu tố sau đây:

  • Luyện nội lực thật sung măn.
  • Tập trung cao độ nội lực vào một bộ phận của cơ thể để đạt mục đích.

1. Luyện Tinh - Khí - Thần để nâng cao nội lực.
Muốn luyện nội lực th́ trước hết phải luyện Tinh - Khí - Thần, v́ đó là cái "thế chân vạc" để nâng cao nội lực. Cũng phải theo đúng quy tŕnh, ngồi bán già hay kiết già, "Khai Công Nhập Tĩnh", thư giăn, an thần, vứt bỏ mọi tạp niệm v.v...

a. Luyện Tinh:

  • Nạp Khí: thở vào từ tất cả các huyệt đạo, tập trung toàn bộ suống vùng bụng dưới (Quan Nguyên - Khí Hải), từ 5 đến 6 giây, tập trung cao độ ư niệm vào vùng này.
  • Vận Khí: ngưng thở để thu hút khí trời đất và vận hành để nén chúng thành một "Khối Tinh Chất", quán tưởng khối đó như một bông hoa sen lớn, thơm và tinh khiết, dùng cơ bụng dưới vận khí cho bông sen đó quay ṿng theo chiều kim đồng hồ, rồi sau đó quay ngược lại, thời gian trong ṿng khoảng 20 giây.
  • Xả Khí: thở ra, buông lơng tất cả cơ bắp, thở ra từ từ, bông sen sẽ tan biến và loan tỏa ra khắp vùng Quan Nguyên, vùng bụng dưới, theo ṿng đôi mạch chạy sang Mệnh Môn, xuống Trường Cường và chạy ngược lên vùng thận du (Bế Thận).
  • Bế Khí: sau đó Bế Khí trong 3 giây để Tinh tan biến vào Phủ Tạng, tích lũy và tàng trữ Tinh trong đó.

b. Luyện Khí: Luyện Khí ở đây cũng có những điểm như luyện Khí ở bài số ba, nhưng có điểm khác biệt là tụ Khí để tăng cường trực tiếp cho Nội Lực.

  • Nạp Khí: qua tất cả các huyệt đạo nạp khí vào trung tâm Đan Điền (Khí Hải) trong ṿng 5 giây.
  • Vận Khí: cắn chặt hai hàm răng, hai nắm tay nắm xiết chặt đến cao độ, cơ bụng dưới căng ra như có một khối đá nặng hàng trăm kư đang đè xuống... Tất cả tư tưởng và ư niệm đặt hết vào bụng dưới, không một chút ǵ có thể làm ta phân tâm trong lúc này... thời gian kéo dài trong 20 giây hoặc hơn (có thể làm cho ta toát mồ hôi).
  • Xả Khí: buông lỏng cơ bắp thở ra từ từ, để Khí lan tỏa ra khắp vùng bụng dưới.
  • Thư Giăn hoàn toàn: tất cả Tâm Thần như chết đi, tất cả mọi cơ bắp như tan ră ra, mềm nhũn ra, dùng hai tay thoa nhẹ vào khắp vùng bụng dưới - thời gian khoảng 10 giây, sau đó lại tiếp tục nạp Khí để làm chu kỳ tiếp theo. Trung b́nh Nam làm 7 ṿng, Nữ làm 9 ṿng. V́ tập theo chu kỳ này rất tổn hao sức, nên nếu muốn tập nhiều th́ phải chia ra làm nhiều buổi trong ngày mà tập.

Chỉ cần tập đều trong 3 tháng, các bạn có thể hít một luồng khí vào bụng dưới, trương cơ bụng lên và cho những môn sinh khoẻ mạnh tha hồ đấm cực mạnh vào bụng mà chẳng sao cả.

c. Luyện Thần:

  • Nạp Khí: Khi đă "Óc cố - Tâm an" xong, từ huyệt Bách Hội, Nhân Trung, Phong Phủ, Năo Hộ, Thái Dương, nói chung là tất cả các huyệt đạo trên đầu... ta quán tưởng, nạp Khí từ khắp không gian thu vào Bách Hội, kết lại ở đó thành một ṿng hào quang - thời gian 10 giây.
  • Vận Khí: tập trung tư tưởng, ư niệm cao độ vào Bách Hội, vận hành cho ṿng "hào quang" đó xoay nhiều ṿng theo chiều kim đồng hồ và sau đó quay ngược lại - thời gian 10 giây.
  • Xả Khí: sau đó, dẫn một nửa Khí chạy theo Nhâm Mạch xuống Hội Âm, từ từ buông lỏng, thư giăn và để cho Khí tự bung ra lan tỏa từ Bách Hội ra khắp không gian, phần kia, lan xuống hạ bàn và đi vào ḷng đất - thời gian 10 giây.
  • Bế Khí: sau đó bế Khí (ngưng thở) trong 5 giây và để cho Bách Hội và tất cả các huyệt đạo trên đầu như ch́m đắm đi, quên hết mọi thứ... và ngay sau đó lại tiếp tục Chu Kỳ kế tiếp. Trung b́nh mỗi buổi tập khoảng 24 chu kỳ.

d. Luyện Nội Lực: Luyện Tinh - Khí -Thần chính là những phương pháp luyện Nội Lực cơ bản, v́ chính chúng là những chất liệu để gia tăng nội lực. Nhưng sau đây có ba phương pháp mà nếu tập luyện đúng cách th́ Nội Lực sẽ gia tăng nhanh chóng: Đó là tập luyện 3 ṿng xoay trên cơ thể.

  • Ṿng xoay thứ nhất là Xoay Cổ.
  • Ṿng xoay thứ hai là Xoay Hai Vai.
  • Ṿng xoay thứ ba là Xoay Ṿng Cột Sống Vùng Thắt Lưng.

Phương pháp

Đứng trung b́nh tấn, tập trung hết Tâm Ư vào nơi tập luyện. Nạp Khí đầy bụng dưới - nín thở (Bế Khí).

1. Quay cổ: cắn chặt hai hàm răng, vận tối đa gân, xương cơ Cổ lên một trương lực thật cao. Từ từ quay cổ sát theo thân người (đầu lúc nào cũng sát xuống xương vai- lưng - ngực), quay nhanh dần, nhanh dần, sau đó quay ngược lại... quay cho đến khi nào hơi thể hết, cần phải thở ra th́ ngưng. Thở sâu 3 hơi, để lấy sức và tiếp tục quay ṿng thứ hai. Trung b́nh nam 7, nữ 9.

2. Quay vai: cắn chặt hai hàm răng, nắm chặt hai tay, vận hết xương, gân ở hai vai và hai tay... quay ṿng tay theo hai vai từ phía sau ra phía trước, mỗi lúc một nhanh dần, sau đó quay ngược lại, cũng nhanh dần. Khi hơi thở đă hết th́ ngưng lại. Tạm ngưng, thở sâu ba hơi để lấy lại sức và tiếp tục quay ṿng thứ hai. Trung b́nh Nam 7, Nữ 9.

3. Xoay Cột Sống (đây là ṿng xoay quan trọng nhất và cũng khó nhất): cắn chặt hai hàm răng, căng cứng phần bụng dưới, hai tay nắm thật chặt, dang rộng ra hai bên, cúi gục người xuống, xoay quanh ṿng bụng, quanh thắt lưng, từ phải sang trái, thân người phải bẻ gập sang các phía, lúc ngửa th́ lưng song song với mặt đất. Lúc nghiêng th́ sườn phải gập hẳn sang một bên, quay nhanh dần, nhanh dần, sau đó quay ngược lại, cũng nhanh dần. Khi hơi thở đă hết th́ ngưng lại. Tạm ngưng, thở sâu ba hơi để lấy lại sức, tiếp tục quay ṿng thứ hai. Trung b́nh: Nam 7, Nữ 9.

Đây là ba ṿng quay quan trọng, trong lúc quay phải vận hết Khí lực trong người, tập trung Tâm Ư cao độ, nên việc luyện tập khá vất vả, nhưng nhờ đó mà Nội Lực sẽ được phát triển sung măn, nhanh chóng.

Những bài tập Khí Công c̣n nhiều. Ngoài Động Công c̣n có Tĩnh Công. Trong chương tŕnh đă được phổ biến (giới hạn) c̣n có bài Khí Công Quyền, thuộc loại "động công", vừa ứng dụng để luyện Khí, vừa ứng dụng trong kỹ thuật chiến đấu. Một chương tŕnh khác là "Nhị Thập Bát Tú," bao gồm 28 tư thế Động Công, luyện tập để dưỡng sinh và tự chữa bệnh cho ḿnh và cho người khác.

Lưu ư: người ta nói "Tập Khí Công rất dễ, ai cũng có thể tập được, chỉ không có duyên với nó mà thôi, nhưng muốn giỏi về Khí Công th́ lại rất khó," theo tôi phần đông không chịu tập đều đặn, hoặc Tâm - Ư bị phân tán v́ công việc (cứ lo ra vớ vẩn), không thể tập trung được, hoặc đời sống hàng ngày buông thả quá, nào hút thuốc, chơi khuya, ăn uống tự do quá độ v.v... Tuy nhiên nếu không thể nào theo đúng đươp pháp độ, th́ cứ chịu khó tập thở đúng (theo bài 2) th́ cùng giúp cho các bạn được rất nhiều trong khoa dưỡng sinh, bảo vệ sức khỏe, đó là cũng là một trong những mục tiêu của Môn phái ta.

 

THU CÔNG


Sau khi đă Nhập Tĩnh để tập luyện, sau giai đoạn kết thúc buổi tập, ta phải Thu Công để trở lại trạng thái b́nh thường. Trước khi Thu Công, phải có ư niệm chuẩn bị Thu Công.

  • Bước đầu tiên là Xả: phải buông lỏng các khớp toàn thân nhăo hết ra, rời rạc ra, mắt mở nh́n ra xa. Từ từ hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng, nhưng chậm hơn, trung b́nh khoảng 20 lần, nhằm thải bớt khí CO2 tích tụ trong máu.
  • Bước hai: dùng song chưởng đẩy nhè nhẹ ra như đẩy một cái hộp (thở ra), xong lại co vào cũng nhè nhẹ như thế (trong 20 lần).
  • Bước ba: thoa hai bàn tay vào nhau cho thật nóng, rồi ấp vào hai mắt, t́m cảm giác có ánh sáng từ ḷng bàn tay truyền vào mắt để tăng thị lực. Rồi dùng hai bàn tay vuốt mặt nhiều lần, rồi vuốt ngược lên đỉnh đầu cho đến khi thấy thoải mái.
  • Bước bốn: duỗi hai chân ra, dùng hai tay thoa bóp và vuốt mắt trên, rồi mắt dưới, rồi tay này vuốt tay kia, theo chiều trong rồi chiều ngoài.
  • Bước năm: dùng lưỡi xoay ṿng trong ṿng miệng nhiều lần, có nước bọt th́ nuốt đi.
  • Bước sáu: hít hơi đầy bụng, xong từ từ cúi gập ḿnh xuống (hai chân duỗi thẳng) thở ra chậm, lúc nâng người lên th́ hít hơi vào (làm khoảng từ 5-7 lần). Chấm dứt Thu Công.

 

Nhu Khí Trong Đời Sống

 
VS. Nguyễn Đ́nh Nam

 

Sinh Hoạt Văn Hóa Và Sinh Hoạt Vật Chất

Sinh hoạt văn hóa và sinh hoạt vật chất cấu thành sinh hoạt xă hội. Là sản phẩm của con người, tất nhiên có ảnh hưởng đến con người. Thông thường mọi người cho rằng sinh hoạt văn hóa -vật chất được nâng cao, con người sẽ lành mạnh, đời sống sẽ tốt đẹp. Thực tế giữa các quốc gia văn minh, tiên tiến với những nước nghèo nàn lạc hậu, đời sống đều diễn ra trong căng thẳng lo âu như nhau. Bần cùng tuy sinh đạo tặc, nhưng phú gia tri thức vẫn đầy những tham vọng riêng tư, mưu mô hiểm độc. Đành rằng, sống đầy đủ tiện nghi, được ăn no mặc đẹp, tri thức con người có điều kiện thuận tiện để được nâng cao; nhưng không thiếu những nhân tài kiệt xuất, các bậc hiền minh cả Đông lẫn Tây đều đă trải qua nhiều tháng năm nghèo nàn cơ cực.

Quá chú trọng đến văn hóa - vật chất để rồi dồn mọi nỗ lực hỉ nhằm đạt đến những bằng cấp thật cao, kiếm thật nhiều tiền hầu thỏa măn tham vọng ích kỷ cá nhân, thế là ta tự đóng khung, tự cô lập. Càng sống cô lập, đóng khung trong cái Ta, th́ càng có va chạm trong quan hệ Ta - Người.

Do chuyển động nên sinh hoạt văn hóa - vật chất có biến động. Càng tự đóng khung để quá lệ thuộc vào nó, con người càng hoảng loạn lo âu khi có biến động. Sự quá lo âu khi thị trường xáo trộn, tâm lư đua đ̣i theo tiện nghi vật chất; sự quá sùng thượng vào các ngôi sao nghệ thuật, thần tượng bóng đá; cay cú hơn thua trong tranh giải thể thao; quá căng thẳng trong thi cử, khó chịu bực ḿnh khi không vừa ư v.v... đều là những hiện tượng vong thân của một tâm thức mất thăng bằng. Sự mất thăng bằng nội tâm sẽ làm xáo trộn cuộc sống của chính ta. Cũng chính thái độ quá quư trọng, quá đề cao văn hóa - vật chất trong sinh hoạt xă hội là nguyên nhân góp phần tạo ra tệ nạn, bất công. Đấy là nguyên nhân sâu xa của mọi vấn nạn trên thế giới.

 

Giá Trị Của Văn Hóa - Vật Chất

Do con người sử dụng trong sinh hoạt xă hội, giá trị của văn hóa - vật chất được xác định. Và chỉ được coi là có giá trị khi nó tạo được ảnh hưởng tốt đẹp cho con người. Con người có làm chủ được ḿnh th́ văn hóa - vật chất mới mang lại an lành cho cuộc sống.

Ngoài việc lo thoả măn nhu cầu văn hóa - vật chất, con người c̣n phải tạo cho ḿnh tính tự chủ cao, để không bị tha hóa, vong thân bởi chính sản phẩm của ḿnh; từ đó văn hóa - vật chất được sử dụng đúng vị trí của nó: phương tiện thể hiện t́nh người.

Mọi vị trí trong sinh hoạt xă hội đều có quan hệ mật thiết với nhau. Người sửa xe không làm công việc của một bác sĩ và ngược lại. Cả hai đều cần cho xă hội và cần lẫn nhau. Chỉ một kiến trúc sư, một kỹ sư không hoàn thành nổi một công tŕnh. Mọi công việc nếu làm với tinh thần trách nhiệm, thực hiện đúng nơi đúng chỗ, đúng khả năng đều có giá trị.

Có công việc phức tạp, có công việc giản đơn, có công việc thuộc trí óc, có việc làm tay chân, nhưng đều hỗ trợ cho nhau, đều cần thiết để h́nh thành khung cảnh sống. Nếu thiếu cái nh́n trên phạm vi tổng thể, để cho rằng công việc này, vị trí này có giá trị hơn công việc kia, vị trí nọ, cùng với cái nh́n tự tôn tự ti sẽ tạo nên sự phân hóa. Từ đó, con người sẽ sống, hành xử theo những tham vọng mù quáng. Sự quá cách biệt, phân chia bao giờ cũng gây xáo trộn trong sinh hoạt xă hội. Tất nhiên mọi vị trí đều có sự khác biệt với giá trị và tầm quan trọng riêng. Có người tốt kẻ xấu, có người tinh tế kẻ thô vụng và nên có cái nh́n b́nh đẳng để tránh quá khích trong quan hệ đối xử.

 

Cách Mạng Tâm Thân

Cảnh sống giàu sang, địa vị cao trọng chưa hẳn đă tạo an vui cho con người nếu nội tâm luôn căng thẳng lo âu v́ sự thành bại của công việc v́ phải mưu tính thủ đoạn để đối phó lẫn nhau, v́ không hóa giải nổi những mâu thuẫn phát sinh trong quan hệ đối xử. Cảnh nghèo khó lại càng bi thảm hơn: vừa khổ v́ thiếu, v́ tự ti lại vừa căng thẳng bấn loại v́ lo âu. Do thiếu khả năng thư giăn thần kinh, điều ḥa nhịp tim nên kẻ nghèo người giàu, người học cao hiểu rộng, kẻ kém trí thức, ai cũng căng thẳng lo âu. Từ đó, con người đă gây thêm xáo trộn phức tạp cho sinh hoạt xă hội vốn đă thường biến động.

Thực tế cho thấy rằng dùng vơ thuật để đưa người vào Đạo là việc khó thực hiện nếu không có phương pháp thích hợp. Vơ và Đạo ngược nhau ở tính chất: Vơ dẫu cương hay nhu vẫn ở phạm vi đối đăi với mục đích hơn thắng, chế phục người. Đạo dù động hay tĩnh luôn thuộc phạm trù bao trùm mọi khuynh hướng đối đăi, mâu thuẫn. Tính Đạo được thể hiện ở một nội tâm vượt thoát, biểu lộ trong nhu ḥa từ tốn ở người đă thắng phục được cái cảm xúc của chính ḿnh. Vơ càng luyện, khí lực càng mạnh khiến con người khó tự làm chủ trước những xung khắc mâu thuẫn trong quan hệ Ta - Người. Đạo càng sâu, sự tự chủ, tự chế càng cao, tạo được ḥa khí: Ta - Người là một. Để từ Vơ có thể bước vào Đạo, song song với sự tăng trưởng khí lực, ta phải dày công rèn luyện khả năng tự kiềm chế, hóa giải sự sung măn của khí lực. Dùng nhu hóa giải sự căng thẳng của thần kinh; xả, nạp khí nhẹ nhàng đúng nhịp sẽ điều ḥa được nhịp tim. Từ đó mới hóa giải được những cảm xúc thất t́nh. Hành động theo cảm xúc bao giờ cũng quá khích và làm mọi việc trở nên phức tạp. Hóa giải cảm xúc là tạo cho ta tính tự chủ. Với sự tự chủ, mọi việc trở nên rơ ràng, đơn giản. Nhờ đó ta sẽ sáng suốt hơn để xét ḿnh, nh́n người; ta sẽ có cái nh́n b́nh đẳng về mọi giá trị trong sinh hoạt xă hội để chọn hướng đi, định vị thế cho phù hợp khả năng, biết sống an vui, hiến ích.

 

Nhu Khí Trong Đời Sống

Tiếp nhân đối cảnh, nếu nẩy sinh cảm xúc, cảm xúc này sẽ ăn sâu vào nội tâm tạo hồi tưởng, để đưa đến ước mơ vọng tưởng. Thấy người đẹp, cảnh đẹp, có cảm xúc, nhớ lại, ao ước được gặp lại, làm quen. Cảm xúc khi hồi tưởng, ước mơ càng mạnh, năo loạn càng nhiều, nhất là khi không được như ư. Khi được như ư lại chóng chán, đôi khi sinh ra thất vọng v́ trong cảm xúc con người dễ tô hồng và cũng dễ bôi đen. Tâm khi không bị cảm xúc làm chao động nữa mới có thể nhập Đạo tính, mới thấy được chân tướng của mọi sự vật. Do vậy, Đạo không thể t́m cầu bên ngoài. Học hiểu qua sách vở, qua các bậc Đạo sư không giúp ta thâm nhập Đạo thể nếu sóng ḷng chưa thắng. Khi lắng được sóng ḷng, Đạo tâm tự hiển bày: ăn cơm, mặc áo, quét nhà, luyện vơ, mọi hành xử ở đời đều mang tính Đạo.

Muốn thâm nhập Đạo phải dày công, phải kiên nhẫn, phải có những bước khởi đầu. Sau những giờ lo toan cho trách nhiệm gia đ́nh xă hội, ngoài giờ tập vơ luyện thân, nên dành một khoảng thời gian nhất định nào đó với phương pháp nhu khí công để lắng sóng ḷng, để loại bỏ tạp niệm cho tâm được trong sáng hầu t́m về cội rễ tâm linh. Ngoài ra, trong quan hệ đối xử nên tập cái nh́n b́nh đẳng trước mọi mâu thuẫn tốt xấu, Ta - Người đều có thể ung dung tự tại, nhu ḥa từ tốn với ngoại cảnh, với tha nhân.

 

Sức Khỏe - Đời Sống - Vơ Thuật

 
VS. Nguyễn Tiến Hóa

 

Người viết bài này, nếu không nhờ có công và khí th́ giờ này đă đang là người điên trong các bệnh viện, hay là kẻ mất trí ngoài xă hội... Một người đàn ông duy nhất sống sót trong chuyến tàu 75 người vượt biển vào cuối năm 1981.

Từ ngàn xưa, khi mà xă hội loài người chưa có một nền văn minh khoa học như hiện nay. Đời sống xă hội thường ngày, không có luật pháp che chở, nên yếu tố Khỏe, Có Kỹ Thuật, Gan Dạ là ba điểm ăn trùm thiên hạ. Và ba yếu tố đó được bao gồm trong vơ thuật. Vậy vơ thuật là ǵ? Vơ thuật là kỹ thuật tấn công, tránh né có tính toán trước, hay theo phản xạ tự nhiên do sự tập luyện lâu ngày mà có. Vơ thuật gồm có đấm đá, quăng quật, chém xỉa... côn, kiếm, đao, quyền v.v...

Cái thuở xa xưa, lúc đó xă hội loài người c̣n sống theo định luật: "Mạnh được yếu thua" th́ sức khỏe và có vơ thuật là những yếu tố để tranh quyền, đoạt vị. Người nghèo tập luyện vơ thuật để được khỏe, và có khả năng tự vệ khi bị ức hiếp. Người giàu tập luyện vơ thuật để bảo vệ của cải, và dùng vơ thuật lấn đất, lấn quyền hầu được giàu hơn... V́ thế không ai bảo ai, không có chính quyền nào cổ vơ, không có phim ảnh, sách báo quảng cáo rầm rộ, hay khuyên dạy người ta tập vơ; nhưng vơ thuật là nhu cầu bức thiết trong đời sống nên người ta đă tự động luyện tập vơ thuật như một khí giới cho sự sống c̣n. Thế nên, vơ thuật trong thời điểm này đă được tập luyện, có thể nói hầu như tuyệt đỉnh... Đọc qua lịch sử từ Âu sang Á, ta thấy các đế quốc ngày xưa đă dùng vơ thuật và chiến thuật để thôn tính các quốc gia khác, thâu gồm thành quốc gia của ḿnh, và đă gọi cái việc đi chiếm đoạt thiên hạ bằng một danh từ mỹ miều, tốt đẹp là đi mở mang bờ cơi...

Vơ thuật tự nó không xấu, không tốt. Tốt xấu là do cách con người xử dụng nó. Tập luyện vơ thuật, để có một sức khỏe dẻo dai, có một thân h́nh cân đối để đẩy lui những bệnh tật thông thường. Tập vơ để có một kỹ thuật tấn công hay tự vệ khi cần thiết. Tập vơ để bênh vực kẻ cô độc, yếu thế. Tập vơ để có khả năng hành hiệp giang hồ, cứu khốn pḥ nguy. Tập vơ để tạo cho ḿnh một kỷ cương trong đời sống, trui rèn nhân cách, làm ngọn đuốc cho những người chung quanh cùng soi chung. Như thế, ta đă đưa vơ thuật lên vị thế vơ đạo. Vơ Đạo là một phần trong văn hóa dân tộc; mà văn hóa dân tộc th́ cần thiết cho cuộc sống như khí trời, như dưỡng chất: cơm ăn, nước uống. Vậy Vơ Đạo cũng là một trong những triết lư giáo dục Nhân Bản hiện nay.

Ngày nay, nền văn minh khoa học đă đưa con người từ chỗ nh́n xa nhất là một cây số thành một vạn cây số. Khoa học đă chế biến được những vơ khí có thể giết cả chục ngàn người trong giây phút. V́ thế, người ta đă nghĩ rằng: vơ thuật không c̣n cần thiết cho đời sống như những thế kỷ trước nữa. Ngày nay, một người yếu đuối nhất cũng có thể hạ một tên khổng lồ bằng cây 38 ly... và gia dĩ c̣n có một vài vơ sư chưa tập luyện tới cao độ đă vội cho rằng: vơ thuật ngày nay chỉ c̣n là công cụ cho các tay tư bản dùng vào thương mại...!!!

Trở lại với lư luận ở trên, ta thấy vơ thuật tự nó không xấu, tốt. Và vơ thuật không phải chỉ đơn thuần là những kỷ thuật tấn công uy hiếp người khác, hay tự vệ mà thôi. Vơ thuật đă được triết lư hóa thành vơ đạo như những ngành học thuật khác; nó trở thành một thứ nghệ thuật như: trà đạo, kiếm đạo, tửu đạo, hoa đạo v.v... mà vơ đạo là một trong các nét văn hóa của dân tộc. Vậy th́ dù trong bất cứ không gian, thời gian nào cũng đều cần cho đời sống con người.

Có người cho rằng: vơ thuật chẳng có liên quan ǵ tới sức khỏe. Muốn có sức khỏe chỉ cần đi tập thể dục, đâu cần phải tập vơ thuật!?... Kể ra th́ cũng đúng thôi... Nhưng họ có biết đâu rằng: khi tập vơ thuật, th́ cũng là tập thể dục. Người tập thể dục dù có sức khỏe thật, song ngày nay cho dù có các loại vũ khí, nhưng mấy người được mang vũ khí? Thế th́ những lúc bất b́nh giữa đường họ lấy ǵ chống đỡ? Ta chưa nói đến cái xă hội văn minh hiện nay, con người sống quay cuồng trong vật chất, trong ích kỷ bon chen. Mặc dù có luật pháp che chở; nhưng những kẻ cuồng tín, những kẻ đang say với men thuốc phiện, họ c̣n biết sợ luật pháp không? Và khi bị các phần tử này tấn công, ta sẽ kêu cứu với ai? Ta có bao giờ tự hỏi: xứ Mỹ này có một hệ thống luật pháp quy mô là thế. Vậy mà nhà nào cũng phải thủ một vài cây súng trong nhà? V́ họ đă nghĩ: "đền được mạ th́ má đă xưng". Và tốt hơn là: "Tiên thủ vi cường". Và một điều khác, ta cứ bỏ qua chuyện bị tấn công bất th́nh ĺnh, mà ta chỉ biết một điều: người tập vơ, khi bất ngờ té nhào, họ đă tự nhào lộn trong phản ứng tự nhiên, c̣n người tập thể dục không thể có được phản ứng này và sẽ bị gẫy tay, gẫy chân, gẫy cổ. Thế th́ việc nào tốt hơn? Vơ thuật hay thể dục...?

Vậy th́ vơ thuật trong thời đại này vẫn c̣n thiết thực và hữu dụng. Hơn nữa, người tập vơ thuật có căn cơ, tập vơ thuật đến cao độ th́ không phải chỉ biết đánh côn, đánh quyền, múa kiếm. Mà phải biết luyện công, luyện khí. Chính việc luyện công, luyện khí sẽ đẩy lui được các bệnh hiểm nghèo như: ung thư, đau tim, phổi... Người luyện công, luyện khí thường ngày th́ các bệnh cao máu, cholesterol, tiểu đường không thể phát tác được... Ngoài ra, việc luyện công, luyện khí, c̣n giúp con người thoát ra được những ám muội thường t́nh: Hỷ, Nộ, Ái, Ố v.v... (Như trường hợp người viết bài này, nếu không nhờ có công và khí th́ giờ này đă đang là người điên trong các bệnh viện, hay là kẻ mất trí ngoài xă hội... Một người đàn ông duy nhất sống sót trong chuyến tàu 75 người vượt biển vào cuối năm 1981).

Để kết thúc phần lập luận nêu trên. Ta hăy quay ngược ḍng thời gian trở về thời Đức Đạt Ma Sư Tổ, tổ sư của môn phái Thiếu Lâm. Đức Đạt Ma Sư Tổ, nguyên là một Đại Đức Phật Giáo người Ân Độ. Ngài vân du qua Trung Hoa cốt để thuyết giảng Phật Pháp. Ngài đă chọn ngọn Thiếu Thất trong dăy núi Thiếu Lâm để tu tŕ và thâu nhận đệ tử, truyền dạy đạo pháp. V́ ngôi chùa nằm sâu trong rừng núi, các đệ tử của Ngài trong lúc nhập định th́ hay bị sơn lam chướng khí làm cho bị bệnh tật thường xuyên. Và thời đó không có thuốc thang như ngày nay. Ngài bèn bắt các đệ tử ngoài việc học Phật pháp, c̣n tập các môn Công, Khí, các đệ tử của Ngài không c̣n bệnh tật như xưa, và việc học Phật pháp c̣n tăng tiến hơn trước rất nhiều.

Một điều khác nữa xảy ra: Vào cái thời xa xưa, việc di chuyển chỉ trông vào đôi chân và nhanh hơn là cưỡi ngựa... Rồi c̣n phải băng rừng lội suối v.v... Và việc đi thuyết giảng Đạo pháp rất là gay go... Trên đường đi thuyết giảng c̣n bị cảnh cướp cạn, cảnh tham ô quan lại hống hách hoành hành. Ngoài những điều do nhân sự tạo nên, dọc đường c̣n có các loài dă thú tấn công các nhà sư để ăn thịt. Để cho việc giảng dạy có kết quả tốt, đức Đạt Ma Sư Tổ c̣n nghiên cứu và truyền dạy cho các đệ tử của Ngài các kỹ thuật tấn công hay tránh né tài t́nh: Đó là vơ thuật Thiếu Lâm... Dùng vơ thuật để bảo vệ và hoằng dương Đạo pháp.

Như thế, Sức Khỏe - Đời Sống - Vơ Thuật xem ra như không có liên quan với nhau. Nhưng thực tế lại rất cần thiết và bổ túc cho nhau. Dù vào thời đại xa xưa, hay ngay trong cuộc sống hiện tại.

 

Luyện Khí Công Pḥng Bệnh - Chữa Bệnh - Giữ Sức Khỏe

 
Huy Vũ

 

Khí công là một phương pháp hô hấp dưỡng khí, khơi thông kinh mạch, điều chỉnh khí huyết trong cơ thể con người để âm dương cân bằng, Tinh-Khí-Thần hợp nhất, phủ tạng điều ḥa, nhờ đó dẫn đến tác dụng pḥng chữa bệnh, tăng sức khỏe, kéo dài tuổi thọ.

Khí công tuy có nhiều phương pháp nhưng cũng không khác biệt lớn, mỗi phương pháp đều có cái hay riêng. Khí công là phương pháp luyện tập đă có từ xưa, nhưng rất cần thiết cho đời sống hiện đại.

Tập khí công cần thư giăn mọi cơ bắp, năo nhập định, điều ḥa hô hấp để khơi thông kinh lạc, Tinh-Khí-Thần hợp nhất, nhờ đó năng lượng hoạt động của Tâm-Trí-Thể được thanh lọc, nâng cao.

Người xưa nhận thức đơn giản, coi "Khí" là hiện tượng tự nhiên: Con người nhờ khí mà sống. "Khí tụ th́ h́nh thành, khí tán th́ h́nh mất. Khí trong cơ thể có h́nh thái biểu hiện phong phú và đa dạng.

  1. Khí cơ bản là "Nguyên khí", c̣n gọi là "Chân khí", tức "Khí Chân Nguyên", trong đó gồm khí trời đất và khí bẩm sinh từ cha mẹ.
  2. Tiếp đến là "Khí Thủy Cốc", c̣n gọi là "Địa khí" (bởi ngũ cốc mọc lên từ đất), là loại khí được chuyển hóa từ các chất dinh dưỡng trong thức ăn.
  3. Sau hết là "Không khí", do phổi hô hấp.

Ba loại "Khí" này cấu tạo nên một loại vật chất tinh vi, có sức hoạt động rất mạnh, chúng lưu thông khắp mọi ngơ ngách trong cơ thể. Vật chất tinh vi, đó là một trong những chất cơ bản để duy tŕ sự sống của con người. Nó được thể hiện bằng các hoạt động sinh lư trong những tổ chức khác nhau như phủ, tạng, Kinh, Lạc... Có bốn h́nh thức hoạt động Thăng - Giáng - Xuất - Nhập, và có những tên gọi khác nhau. ví dụ: Khí của phủ, tạng gồm có Tâm khí, Vị khí, Thận khí... Ngoài ra, c̣n có khí của kinh, lạc như Vinh (Dinh) khí, Vệ khí...

Khí của khí công là tín hiệu của sinh mạng vận chuyển theo hệ thống kinh lạc. Việc rèn luyện khí mà khí công nói tới là sự điều ḥa Tâm, Ư để nguyên khí nơi con người được phát huy trọn vẹn. Loại nguyên khí hoặc chân khí đó có khả năng kháng bệnh tật trong cơ thể, và là năng lực giúp con người thích ứng với môi trường bên ngoài.

Công phu luyện khí được dùng để chỉ thời gian luyện công, chất lượng luyện công, đồng thời c̣n có thể dùng để chỉ phương pháp, tŕnh độ, bản lănh luyện công.

Người khởi luyện khí công phải:

  1. Tuần tự nhi tiến, không hấp tấp, nôn nóng mới mong đạt được kết quả chắc chắn vững vàng.
  2. Phải thật kiên tŕ, nhẫn nại, không đứng núi này trông núi nọ, đang tập phương pháp này chưa thuần đă chuyển sang tập lối khác.
  3. Giữ tâm thân b́nh thản, an định, ngưng mọi tạp niệm. Khi khởi luyện, nét mặt hồn nhiên tươi tắn, nhưng lát sau tự nhiên đi vào im lặng (bởi người luyện công phải giữ cơ thể luôn ở trong một cái "khung" chính xác, đầu thẳng với cột xương sống). Tới khi có "Khí cảm" tự khắc sẽ "đứng trong sự an tĩnh", thậm chí c̣n có cảm giác "phiêu diêu sảng khoái", quên cản hiện tại.
  4. Trong khi tập, có nước bọt ứa ra miệng, không được nhổ, phải nuốt vào bụng, v́ đó là Tân dịch do lưỡi chạm vào hàm trên gây nên. Người luyện khí công thường để "lưỡi dính hàm trên" là vị trí của huyệt "Thiên tŕ". Khi lưỡi đặt vào huyệt đó, trong miệng sẽ tiết ra Tân dịch (nước bọt). Tân dịch đó là dịch tiêu hóa, không những giúp cho việc tiêu hóa tốt, mà c̣n nuôi dưỡng khí huyết khi nuốt nước bọt xuống dưới Đan điền. Bởi vậy, khi luyện khí công chớ bao giờ nhỏ nước bọt đi, phải nuốt vào cho cổ họng khỏi bị khô. Nhổ nước bọt nhiều sẽ tổn khí.

Cần lưu ư: Dưới lưỡi có 4 khiếu: 4 khiếu Thông Tâm khí và 2 khiếu Thông Thận khí, gọi là "Thiệt Tuyền". C̣n các chất khác bài tiết ra khỏi cơ thể như mồ hôi, nước tiểu đều có mùi hôi và mặn, duy có nước bọt là hơi ng̣n ngọt, nuốt vào bụng sẽ có tác dụng "trợ tỳ, khai vị". Điều đó chứng tỏ Tân dịch là rất quư.

Khí công c̣n có một phương pháp tự điều ḥa thân tâm, được nhận thức và sáng tạo qua đời sống. Trong thực tiễn, khí công phấn đấu chống lại già yếu và bệnh tật, Khí công có những chức năng sau:

A. Kiện toàn thân tâm

  • Đầu óc được thư giăn, tỉnh táo, tư duy mẫn tiệp.
  • Thúc đẩy sự tuần hoàn máu, nâng cao chức năng của tim.
  • Điều tiết tâm lư, khiến tinh thần luôn luôn phấn chấn, đầy sức sống.
  • Nâng cao ba năng lực: năng lực thích ứng, năng lực phục hồi, và năng lực miễn dịch.

B. Giải trí

Nhờ có khí công, con người sau những lúc làm việc bận rộn có thể nghỉ ngơi một cách tích cực, thỏa măn cuộc sống tinh thần, tu dưỡng tâm hồn, bồi dưỡng những phẩm chất cao thượng, làm trong sạch t́nh cảm để được sống vô tư, hồn hậu. Như thế, không những phục hồi được nguyên khí mà c̣n là một loại hưởng thụ tinh thần cao cấp, loại hưởng thụ mà người b́nh thường không thể có được.

Vui trong niềm vui đó ta dễ thỏa măn với mọi người, dễ giao lưu chan ḥa t́nh cảm, khiến con người sống cởi mở, gắn bó với quần thể, tâm trí sáng suốt, tâm hồn khoáng đạt, luôn vui tươi, dũng cảm tiến lên phía trước với một cảm giác cực kỳ tốt đẹp. Trạng thái tâm lư đó có thể sinh ḷng tự tin và tự hào, xác lập chính khí, trừ bỏ tà khí và có thể giải tỏa được những căng thẳng thần kinh, mệt mỏi của trí óc, rối loạn tinh thần do làm việc quá tải và các quan hệ xă hội phức tạp gây nên. Đến với khí công, người già được bảo dưỡng, sức khỏe tăng tiến, được sống vui, hưởng trọn một tuổi trời và vẫn phát huy được năng lực của ḿnh để phục vụ xă hội.

C. T́nh cảm xă hội

Khí công có liên quan trực tiếp đến sự ổn định tâm lư xă hội của con người. Cái gọi là "sự cân bằng tâm lư xă hội của con người". Ví dụ: Ai cũng ham sống, nhưng cũng có người v́ quá đau khổ mà muốn quyên sinh. Mọi người đều có t́nh yêu đối với tổ quốc, nhưng trong hoàn cảnh hỗn loạn, chết chóc khiến người chán nản, tỏ ra thờ ơ, lănh đạm. Có người tuyệt vọng v́ bệnh chữa chạy khắp nơi không có kết quả. Có người vi nguyên nhân này nọ sinh ra mất chỗ dựa về tinh thần... Khí công có thể xua tan những đám mây u tối đó trong tâm hồn họ, khiến họ phấn chấn trở lại. Khí công trở thành ngọn đuốc, giơ cao, hiệu triệu mọi người chiến đấu với già, yếu, bệnh.

T́nh cảm ư chí của con người biểu hiện qua thất t́nh: hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, cụ không chỉ là sự phản ánh chủ quan của con người với những kích thích của ngoại cảnh, mà c̣n là những yếu tố quyết định sự sinh tử, tồn vong của con người. Các chuyên gia y học cho rằng: khi nẩy sinh bất cứ một biến đổi nào về t́nh cảm th́ "bộ tư lệnh tối cao" của cơ thể con người là đại năo đều cơ động "điều binh khiển tướng", tiếp đó dẫn đến một loại những biến đổi phức tạp về nhịp tim, nhiệt độ... Cho dù trên gương mặt chỉ "hơi gợn sóng", nhưng thế giới nội tâm đă như "băo táp". Ngay khi chỉ cần nhăn mặt, cau có th́ bên trong cơ thể đă có những tổn thương nghiêm trọng. Bởi bất cứ một việc ǵ gây ra sự phản ứng đều gây tổn thất chứ không phải là tăng cường cho hệ thống miễn dịch.

Khi vui th́ khí ḥa hoăn, nhưng quá vui cũng có thể đưa đến cái chết đột ngột. Có thể nói "t́nh cảm là chiếc gậy chỉ huy cuộc sống". Điều khiển được sự phiền nhiều của thất t́nh là điều hết sức quan trọng đối với những người luyện khí công. Sách thuốc có viết:

  • Giận quá tổn thương Can
  • Vui quá tổn thương Tâm
  • Lo lắng quá tổn thương Tỳ Vị
  • Buồn bă quá tổn thương Phế
  • Kinh sợ quá tổn thương Thận

Thất t́nh thái quá sẽ tổn thương Thân và Tâm, phát sinh bệnh tật. Cách đề pḥng là tăng cường sự tu dưỡng tư tưởng, loại bỏ những suy tư tạp niệm, "vô ngă", không chỉ biết có ḿnh, không quá ư thiết tha, mong mỏi một cái ǵ ngoài tầm tay ḿnh, cứ sống theo quy luật tự nhiên, vui với những ǵ đang có quanh ḿnh th́ tâm hồn sẽ thanh thản, ung dung, tự tại. Tóm lại, bách bệnh đều do khí sinh ra. Bằng việc điều lư khí công một cách thích đáng sẽ chữa trị được mọi bệnh tật và thân, tâm sẽ luôn mạnh khỏe, thư thái.

Về mặt sinh hoạt, người luyện khí công phải biết cách sắp xếp cho tốt. Ăn uống phải điều độ, không ăn quá no, cũng không để quá đói mới ăn, thức ăn đừng để quá nguội lạnh, ăn ít những vị cay, nồng, đắng hay quá mặn. Ngủ nghỉ và làm việc có giờ giấc, không nghiện rượu, thuốc lá, mọi sinh hoạt đều chừng mực, tiết độ.

Thường ngày phải có ư thức sửa đổi, chỉnh đốn tư thế đứng, ngồi, nằm, và dáng đi cho chững chạc. Phải đứng như cây tùng, ngồi như chuông đồng, nằm như cái cung, đi như gió lướt.

 

Ư và Khí

Trong thân người, ư và khí vô h́nh, vô sắc, mắt không thể thấy được. Cần biết: khí chiếm một địa vị cực kỳ quan trọng, khí vận hành khắp cơ thể, có công dụng vừa thúc đẩy huyết vừa dưỡng huyết. Khí do chân hỏa ở mệnh môn chưng cất tinh dinh rồi nuôi lớn lên mà thành. Sự h́nh thành đó gọi là "Thủy hỏa kư tế". Khí được nuôi dưỡng và rèn luyện mà phát huy tiềm lực, gọi là "Nội đan", mà chỗ cất giữ là "Đan điền". Khí có giá trị cao hơn huyết. Khí huyết thường đi chung, nhưng khí là chủ, huyết là phụ, khí là vệ, huyết là doanh. Sự sống của con người hoàn toàn do doanh vệ, nếu có daonh, không vệ ắt không vận hóa được. Nói cách khác, vệ là trọng, doanh là khinh. Huyết thiếu c̣n có thể tạm sống được, chứ khí không đủ th́ nguy cho tính mạng. Cho nên, việc dưỡng khí là rất trọng yếu.

Cần hiểu rơ: Tâm chỉ là chủ của Ư, Ư là dụng của Tâm, Tâm động th́ Ư khởi, Ư sinh th́ Khí tùy (theo). Nói cách khác Tâm - Ư - Khí có mối quan hệ gắn bó tương liên tuần hoàn. Tâm loạn th́ Ư tán, Ư tán th́ Khí phù. Ngược lại, Khí trầm th́ Ư tụ, Ư tụ th́ Tâm định. Cho nên ba thứ đó vận dụng hỗ tương không thể tách rời.

Có hai cách xoay chuyển nội khí trong cơ thể con người. Ư đến nơi nào th́ Khí theo đến đó, bất luận chỗ nào cũng có thể vận hành tới được. Các động tác khai hợp, hô hấp, tiến lui trong Nhu khí công nhằm mục đích luyện tập vận khí ra toàn thân, khiến có thể từ chỗ thể giác, cảm giác, xúc giác mà tiến đến chỗ mẫn tiệp linh lợi như thần. Trong thân người có ba trạng thái khí:

  1. Khí ngốc trệ (ngưng đọng)
  2. Khí phù táo hay bạo khí do cơn giận phát ra, có thể làm chân bị phù, trọng tâm không vững nên vô lực.
  3. Khí thanh b́nh tụ ở đan điền; hễ khí b́nh ắt ḥa, ḥa ắt đạt, đạt ắt thông hành không trở ngại. Cho nên, phải luyện tập để cơ khí thanh b́nh và tiêu trừ khí trệ, bạo.

 

Ḱnh và Lực

Lúc chưa thực tập đối kháng trong giao đấu, ta chưa phân biệt rơ ràng Ḱnh và Lực. Lực xuất từ xương bị giữ lại ở lưng và vai, nên không phát ra hết được. Ḱnh xuất từ gân đi tới tay chân để phát ra. Lực hữu h́nh, c̣n Ḱnh vô h́nh. Lực vuông mà Ḱnh tṛn. Lực trệ rít mà Ḱnh thông suốt. Lực tán ra, Ḱnh tụ lại. Lực trôi nổi, Ḱnh trầm lắng. Lực cùn nhưng Ḱnh bén.

Khi phát Ḱnh tấn công, cần chú ư ba điểm:

  1. Cơ thế, tức ta thuận thế, c̣n địch nghịch thế. Trọng tâm của địch thiên về một bên, thân địch không linh hoạt, khí của địch thượng thăng không trầm xuống được.
  2. Địch đang ở phương hướng nghịch thế, ta nhằm vào đó mà phát Ḱnh.
  3. Phải đúng thời điểm, tức là nhằm vào lúc mà ḱnh của địch vừa dứt, chưa kịp sinh ḱnh mới hoặc địch lui về sau. Ta phải phát ḱnh địch đúng lúc, không sớm không trễ, v́ sớm ắt ḱnh của địch chưa dứt có thể kháng cự lại, trễ ắt địch phát giác mà biến chế được. Ba điểm này không thể thiếu một, ngoài ra c̣n phải chú ư đến cự ly giữa ta và địch: quá xa ḱnh không tới, quá gần ắt ḱnh bị trở ngại. Ḱnh lực và nội khí như ngày và đêm, ngày đến th́ đêm lui.

Có hai cách vận dụng nội khí phát ḱnh:

  1. Từ phía trước ra phía sau. Khí trầm ở Đan điền, từ đó bức xuất mà quá ra tứ chi. Ngày hiện th́ đêm ẩn.
  2. Từ phía sau đi ra phía trước. Khí thấm vào sống lưng và tay, từ đó xuất ra mà quán vào tứ chi.

Xuất ḱnh như ném một đồ vật, muốn ném là ném. Nhất thiết không ngập ngừng hay do dự, nếu có chút chi phân vân th́ không sao phát được. Phải phát ḱnh như phónt mũi tên, vút buông dây, không c̣n chi trong tay cả. Cho nên khi phát ḱnh đánh địch cần phải liễm khí, ngưng thần, mắt nh́n thẳng đối phương, nhất thiết không nh́n xuống, dù trường hợp muốn đề pḥng địch tấn công hạ thể, v́ nh́n xuống là ḱnh đi xuống.

 

Kinh Lạc

Trong cơ thể con người có 12 đường lộ tuyến và đó là những đường liên hệ ngũ tạng, lục phủ, thân ḿnh, tứ chi của con người, đó là đường khí vận hành, và cũng là đường sinh lư cảm ứng trong cơ thể con người gọi chung là 12 kinh.

Thập nhị kinh lạc, tức là 12 kinh, thêm vào mạch Nhâm và mạch Đốc. Hai kinh Nhâm và Đốc ấy, một đường đi phía sau lưng ngay chính giữa cơ thể, c̣n một đường th́ đi ngay chính giữa phía trước.

Kinh lạc có liên quan mật thiết với phủ tạng "Máu sinh khí, khí điều hành máu". Do đó, thông qua sự ban, ấn, chỉ đúng quy luật sẽ làm cho phụ tạng đầy đủ khí huyết, làm cho các cơ quan bị nhiễm bệnh có thể lui bệnh và hồi phục, âm dương cân bằng. Với tứ chi, kinh lạc như cái ổ khóa, ngón tay và ngón chân như cái ch́a. Cho nên mối tương quan giữa chúng như khóa với ch́a vậy. Tay chân có thể điều khiển nội khí thăng giáng, xuất nhập, đạo dẫn thoải mái để chữa bệnh và nâng thể lực. Ngoài ra, người luyện khí thành công có thể tích lũy nội ḱnh, nâng cao công lực "phát phóng ngoại khí" chữa bệnh. Khí vận dụng "nội khí phóng ngoại" để hướng dẫn chữa bệnh cho người khác.

Mối quan hệ giữa các ngón tay với kinh lạc:

  • Ngón cái là điểm Kết của Thủ Thái âm Phế kinh.
  • Ngón trỏ là điểm Khởi của Thủ Dương minh Đại trường kinh.
  • Ngón giữa là điểm Kết của Thủ quyết Âm Tâm bào kinh.
  • Ngón áp út là điểm Khởi của Thủ thiếu Dương Tam tiêu kinh.
  • Ngón út là điểm Kết của Thủ thiếu Âm Tâm kinh và là điểm khởi của Thủ thái dương Tiểu trường kinh.

Cơ thể con người tuy chia thành các phủ, tạng, cửu khiếu, tứ chi... song chúng lại là từng bộ phận của một chỉnh thể, đồng thời một bộ phận lại là một chỉnh thể nhỏ. Tai không chỉ là cơ quan thính giác đơn lẻ mà c̣n liên quan mật thiết với các phủ, tạng, kinh lạc. Khí huyết của 12 kinh mạch, 365 lạc thăng lên mặt rồi đi tới các thông khiếu, dương khí của chúng lên đến mặt tạo nên chức năng Nh́n, biệt khí của chúng tích lại ở tai tạo nên chức năng Nghe. Thận đi vào tai, phế khí hư th́ thiếu khí... sẽ làm tai điếc. Đó là mối quan hệ giữa tai với kinh lạc và phủ tạng.

Về kinh lạc, th́ không thể mổ tử thi con người mà t́m thấy. Nó không trùng với thần kinh hay huyết quản để có thể giải phẫu mà thấy được, nhưng nó tồn tại, đó là một điều không thể nghi ngờ. Một người bị bệnh bao tử, châm huyệt Túc Tam Lư nằm phía dưới đầu gối, bên ngoài ống quyển th́ người bệnh sẽ lành, nhưng nếu xét theo giải phẫu học th́ không t́m thấy một sự liên hệ nào bằng đường thần kinh hay huyết quản giữa huyệt Túc tam lư với Bao tử. Một bệnh nhân khó thở, nếu châm cứu ở xương quay nằm phía ngoài bàn tay th́ thấy dễ thở ngay, xét phương diện giải phẫu th́ ở đầu xương quay có nhánh của thần kinh quay, nhưng dây thần kinh ấy không có quan hệ ǵ đến phổi và khí quản cả.

Kinh lạc là những bí mật trong thân thể con người, các bậc Đông y xưa, trải qua một thời gian dài trị liệu mới t́m ra được. Mặc dù ngày nay khoa giải phẫu chưa t́m được thực chất của kinh lạc, nhưng trên lộ tuyến của những kinh lạc ấy lại phát hiện những cảm ứng có liên thuộc quan hệ với các quan trong nội tạng. Thế nên trên phương diện y học, kích thích những chỗ trên lộ tuyến ấy là trị lành được những bệnh trong nội tạng.

 

Nhu Khí Công Quyền Việt Vơ Đạo

 
Huy Vũ

 

Nền tảng khí công của Vovinam là Nhu Khí Công Quyền. Bởi quyền tượng h́nh, h́nh gợi ư, ư dẫn khí. Khi đi quyền cần phải biết tụ khí và vận khí ở các bộ phận cần thiết trong cơ thể mới mang lại kết quả mong muốn, nếu không chỉ là múa cái h́nh bề ngoài mà thôi.

Phổ thông việc hướng dẫn đi Nhu Khí Công Quyền phân ra hai phần: bên trong là hô hấp (thở ra, hít vào), bên ngoài là quyền thức. Khi đi quyền, xuất thủ th́ hô (thở ra), thu tay th́ hấp (hít vào); thăng th́ hấp, giáng th́ hô; khai th́ hấp, hợp th́ hô; đồng bộ chuyển thân và lúc đi những thức quá độ th́ hít thở ngắn chứ không hô hấp dài; giữa hô và hấp c̣n hàm cái lượng hơi đ́nh chỉ hơi thở (tức ngưng thở). Khi đẩy, ấn tay ra th́ hô, lúc thu tay vào th́ hấp.

Tập Nhu Khí Công Quyền, gân cốt phải mềm mại, các khớp phải linh hoạt chuyển động tay chân, di thân chuyển hướng như nước chảy không thôi, bản lề không mọt. Công pháp này nhằm rèn luyện các khớp xương trong toàn thân hoạt động, làm cho các cơ quan nội tạng cũng hoạt động theo, từng bước nâng cao tính hưng phấn của hệ thần kinh, tạo tính linh hoạt, nhịp nhàng của các khớp xương cốt và dây chằng. Đi Nhu Khí Công Quyền, tiết tấu trầm nhẹ, mạch lạc, tư thế phóng khoáng, thi triển khoảng khoát, đường bệ. Khi luyện động tác nhịp nhàng, phối hợp với hơi thở một cách khoan thai, không cứng nhắc, không uể oải mà phải linh hoạt tự nhiên với hai mắt nh́n thẳng long lanh có thần, khắp châu thân tràn trề sức sống.

Tà khí nhập vào tim phổi thường lưu giữ ở hai nách. Tà khí nhập gan tích tụ ở mạng sườn. Do đó, khi tập cần vươn tay, mở nách, chuyển động khu trừ tà khí ở Tim, Phổi, Gan làm tăng thêm lượng chứa hơi trong phổi, tăng sức dẻo dai cơ ngực, cơ đầu cổ và cơ bụng rèn luyện các khớp ở vai, khuỷu tay, sườn, đồng thời bổ tâm ích tỳ vị, khiến huyết lưu thông tốt, thúc đẩy sự bài tiết và hấp thụ tốt, tránh bệnh tật, hỗ trở và trị liệu chứng viêm phế quản, măn tính...

Y học Đông Phương nhận định: Thận là cái gốc của hậu thiên, lưng là cái nơi chứa quả thận. Cho nên, bất cứ loại quyền thuật hay thể thao nào, cho chí lao động sản xuất, nếu lưng yếu làm việc sẽ yếu kém. Tuy nhiên, phải căn cứ vào t́nh h́nh thể chất của ḿnh mà "Tập tùy sức, vừa phải, tuần tự, tiệm tiếm để giữ sức không bị tổn hại". Sự sống tồn tại nhờ ở vận động, ít hoạt động sẽ giảm bớt quá tŕnh sống. Người khỏe mạnh nhờ thường xuyên vận động, luyện tập; người yếu, mắc bệnh măn tính càng cần thiết hoạt động, luyện tập hơn. Vấn đề là nên hoạt động, luyện tập như thế nào? Phải dựa vào t́nh h́nh cụ thể của bản thân từng người mà lựa chọn phương pháp khí công thích hợp, luyện tập đúng mức, vừa sức sẽ có hiệu quả tốt, tăng cường sức khỏe. Khi người yếu mắc bệnh măn tính mà quá chú trọng nghỉ ngơi, không dám rèn luyện khí công sẽ khiến tinh thần ủy mị, thiếu ḷng tin về khả năng chiến thắng bệnh tật, bị suy sụp tức khắc.

Rèn luyện khí công có tác dụng tốt để chữa trị về nhiều mặt trong cơ thể đặc biệt là đối với hệ thần kinh trung ương. Thần kinh trung ương là bộ tư lệnh của toàn thân, các tế bào thần kinh trung ương có quan hệ mật thiết với các cơ quan nội tạng và cơ bắp trong toàn thân. Chữa trị bằng khí công, người bệnh cần làm những hoạt động thích hợp để khiến cho cơ bắp co giăn và thả lỏng, sẽ điều ḥa các quá tŕnh hưng phấn và ức chế để điều tiết sự hoạt động của các cơ quan nội tạng toàn thân để có khả năng đề kháng, tiêu trừ bệnh tật.

  1. Xây dựng ḷng tự tin và tư tưởng lạc quan yêu đời.
  2. Kiên tŕ và thường nhật luyện tập một cách có hệt thống (không tập bữa đực bữa cái).
  3. Tuần tự và tiệm tiến theo đà thuyên giảm của bệnh tật. Khi bệnh đă lui cần nâng cao lượng hoạt động và luyện tập để tăng cường sức khỏe.
  4. Rèn luyện toàn diện. Mọi cơ bắp, gân cốt đều được vận động, cả trong và ngoài cơ thể cho khí huyết lưu thông, mới đẩy lui được bệt tật.

Đốt sống cổ, sống lưng là những bộ phận sung yếu trong cơ thể, thường xuyên luyện tập động tác xoay lưng, cơ thể khai thông các mạch Đốc, Nhâm, Đới làm linh hoạt cột sống, tăng cường thăng bằng.

Động tác dang rộng cánh tay, mở rộng lồng ngực có thể làm cho cơ tay chân thả lỏng, huyết áp hạ thấp; hít hơi thật sâu rồi thở ra thật hết, nhờ đó tăng lượng hơi ở phổi, tăng cường cơ ngực, cơ bả vai, cơ hai đầu cánh tay dưới, cánh tay trên và cơ bụng. Đồng thời c̣n giảm bớt mỡ dưới da... Eo lưng là chỗ ở của thận. Thận làm chủ lưng, đùi. Tập uốn và xoay eo lưng làm cho eo và đùi vững chắc, khiến gan, thận khỏe mạnh. Động công tiến hành rèn luyện trên cơ sở tĩnh công, chú trọng lấy thế chuyển khí, nhờ đó đạt được "Khí huyết cùng luyện, ḱnh khí cùng luyện, nội ngoại cùng luyện", khiến khí lực tăng gấp đôi, thúc đẩy khí huyết toàn thân điều ḥa, kinh lạc thơi thông, chủ yếu luyện tích lũy và giải phóng năng lượng, tăng cường công năng "ngoại khí nội thu, nội khí phóng ngoại" của đôi tay thao tác, đôi chân di động.

"Nội ḱnh" trong khí công là năng lượng hoạt động trong cơ thể, là cơ sở vật chất của hoạt động sinh mạng, là tiềm lực ẩn náu trong cơ thể con người. Trong quá tŕnh luyện công nhất thiết phải có sự huấn luyện đặc biệt và có tính mấu chốt, đó là sự rèn luyện ban động và án động của 10 ngón tay và 10 ngón chân. Chính chúng là nơi khởi đầu và là chỗ kết thúc của 12 kinh trong cơ thể, sự ban động (các hoạt động của các ngón tay như nắm, gẩy... là ban động) và án động (các ngón chân bấm, ấn... là án động) không những có thể tích lũy và điều tiết giải phóng nội ḱnh mà c̣n là phương pháp hỗ trợ, khiến việc luyện công đạt được kết quả gấp đôi trong cùng một thời gian.

Ban chỉ pháp kiên tŕ luyện tập sẽ có cảm giác có một ḍng hơi ấm từ Mạch Đốc ở sau lưng vận chuyển lên rồi từ Mạch Nhâm vận chuyển xuống ở phía trước, chu chuyển tuần hoàn làm cho Mạch Nhâm, Mạch Đốc lưu thông. Mạch Nhâm là biển của Âm Mạch. Mạch Đốc là nơi tụ hội chung của Dương Mạch. Một khi khơi thông hai mạch đó th́ Bát Mạch Kinh Kỳ trong cơ thể đều thông; qua đó cho thấy sự quan trọng của hai mạch Nhâm, Đốc.

Sự ban động ngón tay và án động ngón chân nhịp nhàng cùng lúc sẽ thúc đẩy sự vận chuyển khí trong các kinh lạc có liên quan, cho nên ban, án, ngón tay, ngón chân đúng quy luật th́ sẽ có thể điều chỉnh trực tiếp về lưu lượng và vận tốc, nhờ đó thúc đẩy được sự vận hành của khí huyết, khơi thông kinh lạc, kích phát và tích trữ nội ḱnh (tiềm năng trong cơ thể). Dẫn đến tác dụng tăng nhanh tiến tŕnh luyện công đạt hiệu quả gấp đôi.

Tĩnh công định tâm để tụ khí. Động công để tán phóng khí. Động tĩnh phối hợp, trong Động có Tĩnh, trong Tĩnh có Động. Tĩnh là cơ sở, Động là thể dụng. Vận khí bằng đi quyền, tay chân ban, án lúc thăng lúc trầm! Dẫn lực bằng hơi, thu phóng tự nhiên. Hữu h́nh vô ảnh, theo khí sinh lực.Vận dụng phát huy thông suốt kinh lạc. Khí thông b́ phu, xuyên thông cốt tủy, xương khớp chơn tru, gân xương cứng khỏe. Ngón tay co bóp, ngón chân bấm ấn, khí thông toàn kinh, lục phủ ngũ tạng. Âm dương cân bằng, thuận nhĩ thính vượng, phù chính trừ tà, đẩy lùi bách bệnh.

Nhu Khí Công Quyền phối hợp giữa Động công và Tĩnh công, hỗ trợ lẫn nhau, nên không thủ ư, lấy chuyển động trong thư giăn để dẫn khí khiến người tập cảm thấy sảng khoái, khoáng hoạt, đi hoài không mệt mỏi.

Chú trọng về Động công, nhưng khi đi xong những bài Nhu Khí Công Quyền. Vovinam vẫn cho môn sinh tĩnh tọa để tập Tĩnh công. Tĩnh tọa theo cách ngồi "kiết già" hay "bán già" hay ngồi thông thường đều được, nhưng phải ngồi ngay ngắn vững vàng (chính thân đoan tọa), đỉnh đầu như treo lên (hư linh đỉnh ḱnh), vai trầm ngực ngậm, toàn thân buông lỏng, đầu lưỡi chạm nhẹ vào giữa ṿm miệng trên, môi răng ngậm nhẹ, mắt lim dim hơi khép. Lưng tay trái đặt vào ḷng bàn tay phải, để sát bụng dưới buông lỏng trên hai đùi, bụng rốn buông nhẹ xuống.

Giềng mối của Tĩnh công là "Tam điểm nhất tuyến" tức là: Điều Thân - Điều Tức - Điều Tâm. Tâm B́nh, Khí Ḥa, Chí Chính, Thể Trực, Tâm phải thanh tịnh, không vọng tưởng lan man, cũng không để tinh thần căng thẳng. Và phải:

  1. Tập trong khung cảnh vắng lặng yên tĩnh, có cảm giác ở huyệt Ấn Đường.
  2. Các khớp xương toàn thân buông lỏng, mềm mại, nhẹ nhàng, tránh cứng đơ, căng thẳng.
  3. Tránh tập lúc quá đói hoặc quá no; nên tập vào giờ Măo (5-6 giờ sáng) và giờ Dậu (gà lên chuồng 5-6 giờ chiều). Nếu nửa đêm không ngủ được, có thể tập vào giờ Tư (12 giờ đêm).

Quan trọng nhất là tâm tư phải thật vắng lặng, không ta không người. Nhất thiết mọi tư lự không chạy ra ngoai (thu thị phản thính - thu cái nh́n nghe ngược lại)

  1. Tai không nghe để Tinh quay về Thận.
  2. Mắt không nh́n để Hồn quay về Can.
  3. Miệng không nói để Thần quay về Tâm.
  4. Mũi không ngửi để Phách quay về Phế.
  5. Ư không nghĩ để Ư quay về Tỳ.

Tinh-Hồn-Thần-Phách-Ư có chỗ quy về Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận th́ là "Phục Kỳ Mện" ắt thiện Tâm nhiên hậu hiện ra.

Tập khí công đạt mức, thành tựu sẽ khơi thông được ba huyệt "Tam Quan", tức các huyệt Vĩ Lư, Hiệp Tích, và Ngọc Chẩm.

Cần Lưu Ư: Nước bọt có rất nhiều tác dụng. Ở trong miệng, trước hết, nước bọt bôi trơn lưỡi và miệng nên tiếng nói phát âm dễ dàng. Nếu miệng lưỡi khô, nói sẽ hụt hơi. Trong nước bọt có chất kháng sinh có thể diệt được vi trùng và làm trung ḥa vi khuẩn h́nh thành ở men răng sau khi ăn. Ngay sau khi thức ăn vào miệng, nước bọt đă bắt đầu tác động đến quá tŕnh dễ tiêu hóa cho bao tử, làm tốt việc phục hồi men răng và giữ vệ sinh cho răng miệng. Do đó, khi tập Tĩnh công cần phải chạm đầu lưỡi vào giữa miệng trên để nước bọt ứa ra giữ hơi cho bền.