BAO DUNG VÀ CỞI
MỞ
Buổi chiều hôm ấy là ngày 4
tháng 8, năm 1991, tại một nhà thờ nhỏ, vùng
Vogelnzang, gần thủ đô Amsterdam nước Ḥa Lan, cha
A.M.A. Sammy, một tu sĩ công giáo thuộc gịng tu Jesuites,
giảng đạo cho một bầy con chiêên, khoảng ba
chục người, vừa đàn ông vừa đàn bà.
Họ ngồi khoanh châân trong tư thế bán già hay kiết
già trêên những bồ đoàn trước mặt cha Sammy,
lúc ấy trong bộ trang phục đại lễ, đang
đứng sau một cái bàn dài trải khăn trắng,
trêên đó đă để sẵn một cái b́nh
nước nho rượu thánh và một cáùái đĩa bánh
ngọt làm bánh thánh. Cha chấm dứt buổi lễ
bằng cââu : "Nhâân danh đức Chúa Cha, đức Chúa
Con và đức Chúa Thánh thần..." và tất cả
mọi người cùng nói: "Amen".
Ngày
hôm ấy, ngoài bài giảng một đoạn trích trong Thánh
Kinh, cha Sammy c̣n cho một thời pháp b́nh giảng một
cââu chuyện nổi tiếng của nhà Thiền. Cha Sammy
kể: Ngàøi Huệ Khả, sau khi được tổ
Bồ đề Đạt Ma nhận làm đệ tử mà
ḷng vẫn c̣n thao thức tại sao tâm ḿnh vẫn không được
yên trong lúc ngồi thiền. Một hôm đến
trước Tổ, ngài bạch: "Bạch Ḥa
Thượng, tâm con chẳng an, xin Ḥa Thượng dạy
cho phép an tâm". Tổ Đạt Ma nh́n thẳng vào mắt
Huệ Khả mà bảo : "Đem tâm ra ta an cho". Ngài
sửng sốt quay lại t́m tâm th́ không thấy, bèn
bạch Tổ: "Con t́m tâm không được".
Tổ bảo: "Ta đă an tâm cho ngươi
rồi". Ngay đấy, ngài Huệ Khả biết được
đường vào cửa Thiền(1).
Sammy
không phải là một tu sĩơ công giáo thông thường
như nhiều tu sĩơ công giáo khác. Tất nhiên ông
trước hết đă phải là một nhà tu thấm
nhuần giáo lư của Chúa Ky Tô sau nhiều năm tu tập
tại các tu viện kín của gịng Jesuites, nổi tiếng
có nhiều vị đạo hạnh cao và thông kim bác
cổ. Nhưng ông cũng đă đến với Phật
Giáo với một tấm ḷng cởi mở, ngưỡng
mộ chân thật của một người đă
hiểu rơ tinh thần bác ái Thiên Chúa. Ông đă từng
học Thiền với Thiền Sư Koun Yamada, thuộc
truyền thống Tào Động ở Nhật Bản. Trở
về châu Âu, ông tiếp tục phục vụ cho Giáo
Hội công giáo, nhưng cũng mở những lớp
dậy Thiền cho những ai muốn học. Trong
những dịp như trên, ông cũng giảng giải
những triết lư cao siêu của Thiền Môn Đại
Thừa. Những triết lư này, mới chỉ cách đây
ba bốn trăm năm, cũng những tu sĩ công giáo
Jesuites như ông là các nhà truyền giáo Francis Xavier (1506-1552 được
phong thánh năm 1662), Matteo Ricci (1552-1610), Ippolito Desideri, coi
như là lời lẽ của Ma Quỷ.
Thời
gian là ngày 10 tháng 4 năm 1999. Không gian là ngôi thánh đường
công giáo có tiếng Saint Francis Xavier, nằm ngay tại trung
tâm Manhattan thành phố Nữu Ước, mang tên
người tu sĩ Jesuite đă được phong thánh
nói trên. Cha Scott Brendan thong thả bước xuống
bục, từ từ đi đến chỗ ngồi
của ḿnh sát tường ngôi chánh điện nhà thờ,
sau khi đă giảng song bài giảng Taste and See , của
James Moore, Jr.. Biết đến lượt ḿnh,
người phụ giáo của cha Brendan đứng
giậy, bước ra trước bục, cất
tiếng hát bài thánh ca Taste and see the goodness of the Lord.
Tiếng hát vang lên trong ngôi thánh đường. Hai họ
tham dự lễ cưới ngồi đông đủ phía
dưới, cũng như cô dâu chú rể và bốn cô
cậu phù dâu phù rể ngồi phía trên, chăm chú nghe
lời ca cao vút như để cảm nhận thêm lời
giảng của cha Scott Brendan.
Vừa
khi chấm dứt bài hát, và người phụ giáo thong
thả bước về chỗ ngồi của ḿnh, th́
một bà cụ già Việt Nam, đầu chít khăn nhung,
ḿnh mặc một áo choàng mầu khói hương khoác ngoài
lễ phục may bằng gấm đỏ, quần đen,
chân đi hài đỏ, chậm chạp đứng lên, ra
khỏi chỗ ngồi, lọ mọ tiến về phía ban
thờ, với sự giúp đỡ của một
người đàn bà trung niên. Hai người đó là bà và
d́ của cô dâu, từ California lên Nữu Ước tham
dự đám cưới cháu gái. Tất cả mọi người
trong giáo đường đều nín thở nh́n theo
một bà cụ già 90 tuổi lê từng bước trên đôi
chân run rẩy, bước lên mấy bực, để
tiến đến một ban thờ Phật đă được
xắp đặt sẵn, với một b́nh hoa ngh́n vẻ
rạng rỡ, cặp nến lung linh, hương trầm
nghi ngút.. Một bức tượng Phật ngồi trên toà
sen, bằng gỗ mun, cao lớn, được đặt
ngay giữa ban thờ, làm tăng vẻ trang nghiêm của
buổi lễ. Thời gian như ngưng lại,
nhường bước cho một kiếp nhân sinh đang
chậm chạp ra khỏi cuộc đời.
Lên
đến nơi, bà cụ quay lại nói với cử
tọa bằng một giọng tuy yếu nhưng rất
rơng rạc. Đại ư cụ nói là hôm nay là ngày cưới
của hai cháu, bà muốn tụng một phẩm kinh
Cầu An Phật Giáo và chúc cho hai cháu thật nhiều
hạnh phúc. Người đàn bà đi theo dịch lại
sang Anh Ngữ cho cử tọa mà phần lớn là
người Hoa KÏỳ. Sau ba hồi chuông thánh thót, bà cụ
bắt đầu tụng niệm. Khởi đầu là
bài Dâng Hương, rồi đến bài Tán Phật, bài
Đảnh Lễ. Tiếng mơ đều đặn, thỉnh
thoảng có chen lẫn tiếng chuông thánh thót, vang lên trong
ngôi Thánh Đường im lắng. Gia đ́nh nhà gái ngồi
dưới cũng tụng nhịp nhàng theo tiếng mơ gơ đều
đặn. Khi sang đến bài Chú Đại Bi và bài Bát Nhă Ba
La Mật Đa Tâm Kinh th́ nhịp tụng kinh nhanh hẳn lên,
tiếng mơ vang lên hơn, như dục dă chúng sinh hăy mau mau
nh́n sâu vào Tâm Phật có sẵn trong mỗi người,
rũ sạch mọi dục vọng, ra khỏi màn Vô Minh, để
sớm quay về bờ Giác. Phẩm kinh Cầu An được
tụng song trong khoảng mươi mười lăm
phút, và bà cụ 90 tuổi lại lọ mọ trở về
chỗ ngồi. Lễ cưới lại được
tiếp tục với cha Brendan lên gïiảng bản kinh The
Beatitudes trong sách Matthew.
Đây
là một đám cưới được tổ chức
theo nghi lễ Thiên Chúa giáo trong một nhà thờ Công giáo,
chen lẫn với truyền thống Phật giáo cho một
đôi uyên ương mà Tân lang là một tín đồ Công
giáo thuần thành và Tân Giai nhân là một Phật tử chính
thống (2).
Cũng
như A.M.A Sammy, cha Scott Brendan không phải là một tu
sĩ Công Giáo thông thường. Cha có thể đă là
một người Thiên Chúa Giáo đă đạt đến
cốt tủy của Thánh Linh Thiên Chúa (the Holy Spirit) của
tôn giáo này để trở thành một Truly Happy Christian
như Thầy Thích Nhất Hạnh đă nói trong cuốn
Living Buddha, Living Christ (3) để rồi có thể cảm
thông được tinh thần Phật giáo trong một
Phật tử như cô dâu người Việt.
Dưới
đây là một đoạn trích khác trong cuốn Living
Buddha, Living Christ của Thầy: Năm trước
(tức là năm 1994, thầy Nhất Hạnh viết sách
này năm 1995), tôi gặp một tu sĩ công giáo tại
Florence (Y¨ đại lợi). Ông ta ngỏ ư muốn học
hỏi thêm về Phật giáo. Tôi có nói với ông ta hăy chia
sẻ với tôi điều ông ta hiểu biết về
Thánh Linh và được ông ta trả lời: "Thánh Linh
là năng lượng mà Thiên Chúa đă gửi cho chúng
ta". Câu trả lời này đă làm cho tôi rất sung
sướng v́ nó đă xác nhận điều tôi hiểu là
con đường tốt nhất để đi đến
Chúa Ba Ngôi (the Trinity) là qua cửa Thánh Linh... Đối với
tôi, sự Tỉnh Thức (trong đạ¾o Phật)
cũng tương tự như Thánh Linh. Cả hai đều
có thể làm cho con người hết khổ đau
...Đến với hiểu biết và t́nh thương, là làm
cho hết khổ đau... Thánh Linh đă xuống với
Chúa Jesus như con bồ câu trắng, tràn ngập ḷng Ngài và
Ngài là hiện thân của Thánh Linh. Ngài để tay vào đâu
là khổ đau tan biến. Với Thánh Linh, khả năng
chữa lành mọi khổ đau của Ngài đă làm
chuyển đổi ḷng người ...Tôi có bảo
người tu sĩ đó rằng tất cả chúng ta ai
cũng có cái nhâân Thánh Linh đó trong mỗi chúng ta. Cái nhân
ấy là khả năng làm bớt khổ đau, làm
chuyển đổi, là ḷng yêu thương mọi
người. Khi chúng ta đạt tới được
cái nhân đó là chúng ta đạt tới được đức
Chúa Cha và đức Chúa Con rồi.
Thầy
Nhất Hạnh cũng không phải là một nhà tu hành
Phật Giáo thông thường. Người đă đến
với Thiên Chúa giáo với một tinh thần hiểu
biết sâu xa, một ḷng từ bi hỉ xả rộng
lớn của một Thiền sư đă đạt
tới một cảnh giác cao siêu của Phật Đạo để
không c̣n phân biệt đối đăi . Thầy đă
viết: Khi chúng ta đă đạt tới được
cái Tâm cao cả nhất trong chúng ta, th́ chúng ta cũng đă
trở thành Phật, tâm hồn chan ḥa Tinh Thần Thiên Chúa,
và chúng ta trở nên bao dung vô cùng, cởi mở vô cùng,
với một hiểu biết sâu xa vô cùng.
Những
nhà tu hành trên đang làm một công việc, trong một kích
thước rất hạn hẹp - do đó kết quả
rất khiêm tốn - mà tất cả mọi người
trong chúng ta đều mong mỏi: t́m hiểu và chân thành kính
trọng những giá trị của tôn giáo bạn để
đi đến sự ḥa đồng tôn giáo. Tôn giáo,
nếu quả đă là nguyên nhân của những đối
nghịch, nhiều khi đẫm máu, giữa các đoàn
thể, các dân tộc trong gịng lịch sử nhân loại,
th́ cũng đă từng là những động lực phát
triển nâng cao giá trị con người để tạo
ra những nền văn minh rực rỡ của loài
người. Con người, sau bao nhiêu thế kỷ áp
bức nhau, tàn sát nhau nhân danh tôn giáo, đă trở nên khôn
ngoan hơn để thấy rằng không thể nhân danh
bất cứ ai để áp đặt ḷng tin của ḿnh
lên kẻ khác được và các tôn giáo phải chung
sống với nhau trong ḥa b́nh.
Nếu
nh́n sâu vào vấn đề, ta có thể thấy rằng có
hai loại nguyên nhâân đă gây ra những mâu thuẫn đối
nghịch giữa các tôn giáo. Loại nguyên nhân thứ
nhất là do tính chất đa dạng của các tôn giáo
của loài người. Tôn giáo khác nhau, có những tín lư khác
nhau, từ đó những tập tục khác nhau, đưa
đến những hệ thống giá trị, văn hóa
khác nhau. Loại nguyên nhân thứ hai phức tạp hơn
v́ có liên quan tới những khía cạnh chính trị, kinh
tế, và những khía cạnh khác, được nẩy
sinh ra khi tôn giáo được h́nh thành như một cơ
cấu có tổ chức, và sinh hoạt trong một môi
trường chính trị, kinh tế, xă hội.
Để
giải quyết những mââu thuẫn giữa các tôn giáo v́
loại nguyên nhân thứ nhất, điều phải làm là
mở ḷng bao dung mà đón nhận khác biệt. Hăy nh́n
những khác biệt với tinh thần vô phân biệt trí :
khác biệt bởi v́ đó là một khác biệt, không đồng
ư, không bài bác, đơn giản và dễ dàng như vậy.
Nếu không nh́n thấy cái hay cái đẹp để
thưởng thức, để ngưỡng mộ hay ca
tụng th́ cũng không nên cố t́nh t́m ra những cái
dở cái xấu để chê bai, để rè bỉu hay
nói xấu.
Nếu
ta nh́n rộng răi hơn, xa hơn ra khỏi cái cộng đồng
bé nhỏ của người Việt di cư - mà trong đó
mâu thuẫn tôn giáo vẫn c̣n âm ỉ, tàn dư của
một định mệnh lịch sử khi người
Pháp áp đặt ách thống trị cả gần 100 năm
lên dân ta và hơn 20 năm nội chiến tàn khốc -
người ta đă thấy nhiều khích lệ. Mọi
người vẫn c̣n nhớ những cố gắng
của Ngài Dalai Lama qua những cuộc tiếp súc với
các vị lănh đạo tôn giáo thế giới tại Rome
(Y¨), Lourdes (Pháp), tại Jerusalem (Do Thái) và Thổ Nhĩ
Kỳ. H́nh ảnh một vị giáo chủ đơn
giản khiêm cung nhưng oai nghi đầy ḷng Từ Bi Bác
A¨i đă làm cả thế giới ngưỡng mộ và đă
khiến họ nh́n Phật Giáo với một nhăn quan khác hẳn
thế kỷ trước. Tư tưởng bao dung
của thầy Nhất Hạnh trong cuốn Living Buddha,
Living Christ đă được giới Thiên Chúa Tin Lành
rất tán thưởng (4). Thomas Merton, một giáo sĩ
Cơ đốc La Mă, người Hoa Kỳ, tu ḍng khổ
hạnh Trappist, rất nổi tiếng như là
người đă đem tư tưởng Thiền môn vào
giới Thiên Chúa giáo Hoa Kỳ, đă tích cực hoạt động
để đem hai tôn giáo (Thiên Chúa giáo và Phật giáo)
lại gần nhau, nói chuyện với nhau. Thomas Merton đă
đi sang A¨ Châu, gặp các vị lănh đạo Phật
giáo như các ngài Walpola Rahula (Tiểu Thừa) Chogyam Trumpa,
Chatral Rinpoche, Dalai Lama, D.T. Suzuki để làm công việc
trên. Ảnh hưởng của Thomas Merton sau khi ông chết
(Bangkok, 1968) đă đưa đến một cuộc
họp, mệnh danh Monastic Interreligious Dialog do ḍng Cơ
Đốc Benedictine tổ chức năm 1996 tại tu viện
Gethsemani (Kentucky), nơi T. Merton đă tu ngày trước.
Cuộc gặp gỡ quy tụ trên 200 vị thuộc các
tôn giáo, môn pháái khác nhau Công giáo La Mă, Phật giáo Tây Tạng,
Thiền tông, Tịnh độ tông, Phật giáo Nguyên
Thủy, từ ngoại quốc tói cũng như ngay
từ Hoa Kỳ (như các vị Joseph Golstein, Sharon Salzberg,
Judith Simmer-Brown, Norman Fisher...) đă đánh dấu một
không khí cởi mở mới và một thay đổi
lớn lao trong suy tưởng của mọi người.
Trong
những cuộc gặp gỡ trao đổi một cách
chân thành kinh nghiệm tín lư, giữa những người
Thiên Chúa giáo chân chính và người Phật tử thực
sự, không ai thấy ḷng tin sâu xa của ḿnh bị thương
tổn hay mất mát, ngược lại có phần tăng
trưởng đằng khác. Robert E. Kennedy, giáo sĩ Jesuit,
giáo sư Thần học, sang Nhật học Thiền
từ 1970, đă minh chứng trong cuốn Zen Spirit, Christian
Spirit: The Place of Zen in Christian Life Phật giáo và Thiên chúa giáo
có thể soi sáng cho nhau thế nào. Sylvia Boorstein, tiến
sĩ Tâm Lư học, người Do Thái, học Thiền Minh
Sát, dạy Thiền cho người Do Thái, đă tin
tưởng ở Do Thái giáo hơn, khi cùng là một
Phật tử ("I am a prayerful Jew because I am a Buddhist")
(5)
Đối
với những nguyên nhân loại thứ hai gây nên những đối
nghịch tôn giáo, có tính cách cơ chế (institutional),
vượt quá tầm tay cá nhân th́ sự giải quyết
khó khăn hơn rất nhiều. Những nhà lănh đạo
tôn giáo cũng chỉ là một cơ phận - dù có là cơ
phận quyết định đi chăng nữa - của
một tổ chức, một cơ chế với rất
nhiều quan hệ chằng chịt, bị ảnh
hưởng bởi, hay chính cũng gây ra, những biến động
chính trị, kinh tế không lường trước được.
Các tôn giáo một khi đă được h́nh thành như
một cơ chế, sẽ không c̣n là một tôn giáo
thuần khiết nữa. Những thông số chính trị,
kinh tế, những súc động v́ lẽ sống
quốc gia, dân tộc, ṇi giống, mầu da, những
ngược đăi áp bức trong quá khứ, như được
ghi trong những trang sử nặng nghiệp báo loài
người, đă đan vào da thịt của các cơ
chế tôn giáo, khiến cho việc tháo gỡ các đối
nghịch trở nên khó khăn phức tạp vô cùng. Thời
đại của Thánh Chiến, của phong trào Thực dân
t́m Thuộc địa đi đôi với chính sách
cưỡng bách tôn giáo với chiêu bài khai hóa văn minh đă
không c̣n nữa. Thế nhưng, âm hưởng của
những áp bức, chèn ép bất công trong quá khứ vẫn
c̣n, những jihah chính trị đầy mùi tôn giáo, những
phiên ṭa xử kẻ phản đạo, vẫn tiếp
diễn xẩy ra tại Trung Đông, Phi Luật Tân, Nam
Dương Quần đảo, và Bắc Phi. Mối
hận thù triền miên giữa người Palestine và dân Do
Thái, bên ngoài là một vấn đề chính trị nhưng
trong ḷng người dân hẳn phải có những mâu
thuẫn tôn giáo ghim sâu vào đă từ cả ngàn năm
trước.
Những
bậc thiện tri thức của thế giới sẽ
phải t́m ra lời giải cho bài toán rắc rối này.
Một ư kiến đưa ra là phải tổ chức xă
hội trong đó có sự tách biệt rơ rệt giữa các
cơ chế chính quyền và các tổ chức tôn giáo.
Hỗn hợp chính trị/tôn giáo không phải là một điều
tốt. Thế tục hóa các cơ chế quốc gia,
như được áp dụng tại một số
quốc gia tân tiến trong đó có nhiều truyền
thống tôn giáo song hành, có thể gíúp nhiều trong việc
tránh những rắc rối v́ bất đồng tín lư.
Tất nhiên đây, chỉ là một phần của bài toán.
Người ta, nhất là các bậc lănh đạo tôn giáo,
c̣n phải làm thêm nhiều nữa.
Nếu
người ta tin vào sự khôn ngoan sáng suốt sẵn có
của loài người th́ một ngày nào đó, không xa, khi
mà tinh thần bao dung tôn giáo, bàng bạc trong đạo
Phật, khi mà tư tưởng vượt biên giới tín
ngưỡng của các ngài Dalai Lama, Thích Nhất Hạnh,
Thomas Merton, A.M.A Sammy, Scott Brendan và nhiều vị khác, được
thấm nhuần vào con người của những thế
hệ sau, th́ không những các mâu thuẫn tôn giáo cơ
thể tránh được mà các vết thương gây ra
v́ bất đồng tín lư cũng sẽ được hàn
gắn./.
Đào
Viên - (Tháng 3, năm 2001)
(1)
The Awakening of the West - Stephen Batchlor 1994
(2)
Tiếng Hải Triều trong Giáo Đường Im
Lắng - Hoa Sen số 38 (10/99)
(3)
When you are a truly happy Christian, you are also a Buddhist; and
vice versa. Living Buddha, Living Christ - T. Nhất Hạnh 1995
(4)
Christian Century số 113, Oct 1996 - Book Review- Leo D.
Lefebure
(5)
Thats Funny, You Dont Look Buddhist - Sylvia Boorstein 1995