Nhung Nguoi To^i Ca?m Phu.c


Những người tôi cảm phục.

Ðinh vân Dần

Hồi năm 1956, khi mới ở trường ra, tôi về làm việc tại Nha Hàng không Dân Sự. Chân ướt chân ráo, tôi còn ngỡ ngàng, tập tểnh dấn thân vào cuộc đời công chức.

Tôi có tính hay ngước mắt nhìn lên, để tìm những người gương mẫu mà mình có thể học hỏi, hay noi theo, trên một phương diện nào đó. Tôi không giao du nhiều nên số người tôi cảm phục chỉ thu hẹp trong giới kỹ thuật. Thật ra tôi cũng không quen biết nhiều về họ mà chỉ đứng nhìn từ xa. Có khi nếu được gần gụi hơn, thần tượng có thể không như mình tưởng tượng. Các bà vợ của những đấng tài hoa có mấy khi trông thấy cái tài hoa của chồng mình đâu, mà chỉ nhìn thấy những cái lẩm cẩm của ông ấy..

Người mà tôi cảm phục đầu tiên là ông Vũ Văn Thái (nay đã mất). Ông tốt nghiệp kỹ sư (trường Centrale thì phải), lúc đó đang làm tổng giám đốc nha Ngân Sách và Ngoại Viện (NSNV). Một lý do làm tôi để ý tới ông là ngay từ thời đó (1957-1958), tổng nha NSNV đã có một dàn máy điện toán, được đặt trong một phòng lớn có điều hòa không khí, trông như một phòng thí nghiệm khoa học của một nước tân tiến.

Hôm tôi đến thăm, có anh Mai Ðồng Nghiệp (là em của anh Mai Ðồng Hưng ở nha mình) đón tiếp và trổ tài bằng cách cho một tập cards vào máy sorter; khi máy chạy, cards đập vào nhau làm thành một bản nhạc. Hồi đó tôi lác mắt, vì máy điện toán hãy còn trong thời kỳ phôi thai, thế mà nha NSNV dưới sự hướng dẫn của ô. Thái đã xử dụng được công cụ đó. Ðể làm gì, ngoài việc đánh bản nhạc, tôi tự hỏi, vì lúc đó chắc máy chỉ có bộ nhớ độ vài chục K? Tiếc anh Nghiệp nay cũng đã ra người thiên cổ, thành ra tôi không được biết công dụng của máy đó ra sao? Theo chỗ tôi tra cứu, thì mãi tới năm 1964 hãng IBM mới cho ra lò máy IBM system 360, là loại máy đa dụng (general purpose mainframe computer) đầu tiên. Những loại máy trước chỉ dùng đuợc vào một mục đích đặc biệt nào đó. Vậy thì năm 57-58 máy này làm được những gì?

Dầu sao thì Ô. Thái đã có cái nhìn xa và óc tiến bộ để canh tân guồng máy hành chánh VN, hồi đó còn lệ thuộc vào máy đánh chữ, đánh máy 3 bản, một bản chính và hai bản pelure phụ “để giữ hồ sơ”, và tiến lắm là in ronéo! Thử tưởng tượng nếu nha NSNV được điều khiển bởi một ông đốc phủ sứ thì ngân sách còn làm bằng tay đến năm nào?

Hồi đó những kỹ sư đàn anh trong đó có ô. Thái đã sáng lập ra Hội “Kỹ Sư và Kỹ Thuật Gia VN”. Một số người muốn lập hội này theo kiểu syndicat của Pháp, như CFTC (Confederation des cadres) để bênh vực quyền lợi của kỹ thuật gia. Ô. Thái đả phá ý kiến đó. Ông cho rằng hội nên có mục đích góp vào công cuộc xây dựng nước nhà bằng kỹ thuật, mà đừng đi vào vết xe đổ của nghiệp đoàn, như những nghiệp đoàn bên Pháp chỉ nhìn không xa hơn quyền lợi trước mắt của mình. Ngay cả Y-Sĩ Ðoàn, ông cũng cho là đoàn thể “lạc hậu”. Ô. Thái lúc bắt đầu nói hay bị lắp bắp, như những ông Ăng Lê quý phái hay stutter, nhưng sau khi nóng máy, ăn nói trôi chẩy, có mạch lạc, những viện dẫn tỏ ra người có học, có ý kiến tiến bộ, nghe ông mình cũng vỡ lẽ ra.

Còn nhớ, công chức dưới thời cụ Diệm bắt buộc phải đi học tập Nhân Vị một tuần tại Suối Lồ-ồ. Trong các thuyết trình viên được học viên hoan nghênh vì đề tài hấp dẫn và cách trình bầy mạch lạc, nổi bật ba vị: Giáo sư Vũ Quốc Thúc, và hai vị kỹ sư là ôô. Vũ Văn Thái và Trần Lê Quang.

Ðến đây tôi đã định khái quát hóa cái nhận định là những người được thấm nhuần giáo dục Phú Lãng Sa là những con người “tinh hoa” (lời của Ðào Viên). Nhưng nghĩ lại thì không đúng, nếu suy trường hợp cá nhân tôi, mà cũng suy trường hợp vị Cố Vấn tối cao, cũng là một khoa bảng của Pháp, mà sao nói năng thậm tệ thế, lời nói thì ru ngủ, ý kiến thì bông lông; học viên chỉ ngáp vắn ngáp dài mong chóng hết giờ để chuồn.

Thế mới nhớ câu thơ của Boileau:

      Ce qui se concoit bien s’énonce clairement,
      Et les mots pour le dire arrivent aisément.
      (Ðiều gì ý niệm được rõ rệt thì nói ra cũng rõ ràng,
      Và những tiếng để phát biểu cũng dễ dàng..tới nơi).

Ông cố vấn không phải là người tôi phục.

Người thứ hai mà tôi cảm phục là ông Trần Lê Quang, đã nêu ở trên. Ông là kỹ sư cầu cống, nguyên tổng giám đốc Hoả Xa VN, sau là bộ trưởng Công Chánh. Tôi không không biết nhiều về ông, và cũng ít được trực diện. Nhưng chỉ một lần được nghe ông thuyết trình trước đông đủ nhân viên công chánh về đề tài nước chậm tiến và nước tiền tiến là biết được bản lĩnh của ông.

Ông lập luận là nước chậm tiến khó có thể bắt kịp nước tiền tiến, và hố cách biệt càng ngày càng rộng ra. Ðiều đó thì cũng tầm thường dễ hiểu. Nhưng cách trình bầy mới hấp dẫn: ông đã dùng toán học để chứng minh lập luận của ông!. Và dùng cả hàm số hình mũ (exponential function)!
Vào khoảng thập niên 50, những kỹ sư chỉ biết về kỹ thuật của mình, còn mù tịt về kinh tế. Và ngay cả kinh tế gia cũng chưa biết kinh toán học (econometrics) là gì.

Thế mà trong một buổi thuyết trình hạn hẹp trong phạm vi bộ Công Chánh, ông như đã khai sáng, và thu hút sự chú ý của cử tọa phần lớn là kỹ sư.

Chuyện này đã xẩy ra trên bốn chục năm rồi, mà mỗi lần tôi đọc một bài có dính dáng tới kinh toán học là tôi lại nhớ tới người khai hóa cho tôi.

Người thứ ba mà tôi mến phục không ai xa lạ: chính là ông Phạm Hữu Vĩnh, người anh cả của ngành HKDS. Được biết ông tốt nghiệp kỹ sư công chánh khoá đầu tiên năm 1944, và lại đứng đầu trong khóa 8 người, trong đó có cả ông Tạ Huyến, giám đốc Căn Cứ Hàng Không. Từ ngày ra trường ông chỉ làm việc trong Nam, và chắc là một công chức gương mẫu, vì trong có 11 năm ông đã leo được lên đến hàng giám đốc nha.

Có thể nói ông không là một trí thức khoa bảng, là vì thời đó ít có phương tiện và cơ hội tiến thân hơn những thời sau. Nếu có cơ hội chắc ông cũng đi rất xa, với sức cần mẫn của ông. Ðọc trong cuốn kỷ yếu trường Cao Ðẳng Công Chánh có một đoạn trong bài hồi ký do ông Nguyễn Hữu Tuân viết như sau:

“Hè 1944, có 60 người thi Math. Géné. Chỉ có 12 người đậu: anh Khắc đậu số 1... Ba năm liền ở lớp cán sự, anh Khắc đều đứng đầu lớp, ấy thế mà lên lớp kỹ sư, anh Khắc cũng không tranh được chức thủ khoa với gạo cụ Phạm Hữu Vĩnh đã nhất nhiều môn...”

Ông Vĩnh có kể cho tôi nghe lúc vừa có nghị định bổ làm giám đốc HKDS, ông đã được cử ngay đi họp hội nghị về hàng không, trong khi ông không biết một tí gì về vấn đề bàn luận cả. Ông đã thức mấy đêm để “gạo” và đến lúc vào bàn hội nghị ông cũng nói trơn chu như một chuyên viên lâu đời.

Tôi phục ông Vĩnh không phải vì trí thông minh, mà vì tài quản lý (managerial skill) và tính điềm đạm của ông. Ông không bao giờ nói nặng với nhân viên, và lúc nào cũng tươi cười, cũng nhìn thấy khía cạnh tốt của mọi sự việc. Ông là một cựu hướng đạo nên vẫn giữ cái tinh thần hướng đạo trong việc làm. Ông đã dậy cho tôi và bao nhiêu anh em ở Pháp về cách hành văn hành chánh, thưa gửi ra sao tùy theo người đọc. Tôi còn nhớ đưa bản thảo các thư từ hay tờ trình vào cho ông đọc trước khi đánh máy. Ông không chê bai, nhưng lấy bút ra sửa bản thảo, kết quả là bản văn có mạch lạc hơn và dùng chữ đúng hơn nhiều, và nhất là không để cho người đọc phật ý thì công việc mới trôi chẩy được. Ông Vĩnh là một ông thầy tốt đã chỉ bảo bao điều hay cho tôi...

Trên đây là những đàn anh mà tôi quý phục.

Tôi còn mến phục một người nữa, đồng lứa tuổi, và là bạn vong niên từ hồi còn cùng học trường ENAC ở Orly. Tôi không nêu tên anh ta ở đây, để các bạn suy đoán xem là ai. Khi mới gập “tên” này, tôi đã để ý tới ngay, vì anh ta có nhiều điểm mà tôi ưa thích: tính tình hòa nhã, kín đáo không khoe khoang, biết mười nói một, thành thực đối với bè bạn..

Trong công việc làm anh đưa ra nhiều ý kiến mới, như việc phải mã hóa (codify) những văn kiện hàng không, để dễ bề tìm kiếm và lưu trữ. Tôi rời nha HKDS khá sớm nên không biết dự kiến của anh đã hoàn thành tới mức độ nào.

Theo dõi những bài của anh em KSV đăng trên HKDS1975, tôi cũng thấy anh em quý trọng vị chỉ huy này, những lúc khó khăn nhất anh đều bay tới những phi trường ngoại vi để uý lạo và giải quyết tại chỗ những vấn đề nan giải.

Riêng đối với tôi, có một kỷ niệm nho nhỏ tỏ ra con người tốt đối với bạn bè. Chúng tôi cùng ở trong cư xá TSN. Anh chăn chỉ hạt bột tối tối chỉ chăm đọc sách không đi chơi đâu. Tôi lúc còn trẻ ham mê đi nhảy, mà đi công xa đậu ở những trà lâu tửu quán thì không được. Anh vừa mua một chiếc VW beetle mới tinh. Bấn quá tôi hỏi mượn xe anh để đi chơi, thế mà anh cũng không ngần ngại giao ngay chìa khóa “của quý” cho mượn. May mà không bị đâm hay mất cắp, chứ không thì lấy gì mà đền!

Những điều trên chỉ nói lên tư cách của một người bạn tốt, một cấp chỉ huy có lương tâm, không có gì đáng phục cả.

Từ ngày có trang nhà của HKDS tôi mới giật mình khi đọc những bài ký tên dưới bút hiệu Ðào Viên. Những bài tỏ ra con người “tinh hoa”, viết cũng như tư cách xử sự, đứng đắn, thâm thúy, nói có sách mách có chứng. Thật là như con sâu thoát sác trở thành con bướm muôn mầu ... Và vì đó mà tôi vừa mến vừa phục.

Nhân nói đến những người đáng phục, tôi cũng bái phục một số anh em đã có sáng kiến lập ra diễn đàn HKDS trên mạng lưới. Nhờ nó mà tôi gập lại những bạn cũ, va xem được những hình ảnh cũ như CCR, trung tâm tu huấn HK., cùng theo rõi (một cách im lặng) những bàn luận của anh em. Thật ra trong các hội đoàn đã lập ra những nhịp cầu liên lạc, ít hội đã lên lưới, và lại càng ít hội có những đề tài phong phú để bàn interactively.

Bái phục, bái bái phục.


Tháng 8, năm 2002