Ðỗ Văn Giáp
Vào những thập niên cuối thế kỷ 20, Tân Gia Ba được coi như một trong bốn con Rồng Á Châu, Tân Gia Ba, Hong Kong, Ðài Loan và Ðại Hàn nhờ ở sự phát triển kinh tế vượt bực của các nước này.
Trước 1975, nhân dịp đi công vụ, tôi có dịp thăm viếng Tân Gia Ba, Hongkong, Thái Lan và Phi Luật Tân. Thời đó Tân Gia Ba so sánh với Saigon của ta, sự cách biệt về mặt kinh tế không có bao nhiêu (dĩ nhiên về mặt an ninh thì họ hơn Saigon vì ở Tân Gia Ba không có chiến tranh). Khoảng giữa thập niên ’50, tôi cũng có dịp sống ở Ðài Loan và so sánh mức sống của người dân Ðài Loan thời đó với đời sống của người dân Việt Nam ở thành thị cũng như ở đồng quê cũng không có sự cách biệt nhiều.
Tôi còn nhớ thời trước 1975, có nhiều người muốn đi Tân Gia Ba vì cũng như Hong Kong, Tân Gia Ba là một hải cảng miễn thuế, lại gần Saigon hơn Hong Kong. Ngoại trừ hàng miễn thuế thì Tân Gia Ba còn có cái lợi là tiệm ăn phần lớn là đồ ăn Tàu, ngoài đồ ăn Tàu thì Tân Gia Ba còn có các món ăn Ấn, Hồi (Pakistan), Mã Lai, Thái Lan v.v… Hồi đó vật giá tiêu thụ tại Tân Gia Ba cũng tương đương với vật giá tại Việt Nam nhưng những đồ dùng, dụng cụ, máy móc như máy hình, máy thâu thanh, đồng hồ vân vân thì rẻ hơn nhiều vì được miễn thuế.
Sau 1975, tôi có vài lần đi Tân Gia Ba, Hong Kong, Thái Lan và có cơ hội quan sát đời sống, suy nghĩ và so sánh về sự phát triển của Tân Gia Ba và các nước này. Ðể so sánh Tân Gia Ba qua hai thời điểm nói trên (trước và sau 1975), tôi phải công nhận là Tân Gia Ba đã tiến vượt bực, nhất là so với Việt Nam ở thời điểm thứ nhì.
Tuy nhiên, sự phát triển của Tân Gia Ba sau 1975 không thể lấy mốc Việt Nam để so sánh nữa vì Việt Nam đã thụt lùi trong hai thập niên, sa lầy trong guồng máy kinh tế xã hội chủ nghĩa, lấy căn bản Nhân Dân Làm Chủ nhưng Ðảng Quản Lý, đảng quản lý hầu bao và dạ dầy nhân dân. Vậy thì so sánh với nước nào trong vùng được. Khỏi nhìn xa, chỉ cần nhìn vào các nước nào lân cận trong vùng mà “Nhân Dân” không có cái hân hạnh được “Làm Chủ”. Thí dụ như Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân và Thái Lan.
Muốn so sánh tình trạng phát tiển của các nuớc này, tôi lấy tài liệu GNI(a) (Gross National Income) năm 2001 của World Bank (http://www.worldbank.org) World Development Indicators database, World Bank, April 2003 để so sánh:
Rõ ràng là Tân Gia Ba đã tiến vựơt bực so với các nước láng giềng.
Giờ ta thử mang Tân Gia Ba ra so sánh với các con rồng Á Châu khác là HongKong, Ðài Loan(d) và Nam Hàn, để tìm hiểu thêm:
(d) World Bank không cho tài liệu về Ðài Loan (vì áp lực của Trung Cộng chăng?).
(e) Thay thế bằng tài liệu của World Desk Reference ấn bản năm 2002 (www.dk.com/world-desk-reference).
Nhìn các con số trên đây, ta có thể đặt câu hỏi, tại sao cũng là những con rồng Á Châu mà Tân Gia Ba và Hong Kong có chỉ số cao gần gấp đôi Ðài Loan và gấp hơn hai lần Nam Hàn?
Phải chăng Tân Gia Ba và Hong Kong là hai nơi cựu thuộc địa của Anh? Nếu phải vậy thì Ấn Ðộ hay Miến Ðiện, cũng là cựu thuộc địa của Anh, cũng phải có mức sống cao chứ (Ấn Ðộ : AM = US$460 và PPP = US$2820, về phần Miến Ðiện : không hiểu sao trong tài liệu của World Bank không ghi, theo World Desk Reference = US$1500).
Phải chăng hai nơi này người Trung Hoa chiếm đa số? Nếu vậy thì tại sao con rồng Ðài Loan lại có chỉ số khoảng 53% của Hong Kong và khoảng 62% của Tân Gia Ba? (tôi không muốn đem Trung Cộng ra so sánh vì nưóc này cũng được Nhà nước Quản lý giống như Việt Nam. Theo tài liệu của World Bank thì chỉ số của Trung Cộng là : AM = US$890 và PPP = US$3950).
Vậy thì phải có lý do gì khác giúp cho Tân Gia Ba có được sự phồn thịnh như ngày nay.
Nhiều nhà quan sát, bình luận cho là Tân Gia Ba có được như ngày nay là nhờ tài lãnh đạo của ông Lý Quang Diệu, thủ tướng của Tân Gia Ba trong hơn 30 năm, từ 1959 đến 1990. Không ai có thể phủ nhận sự kiện này.
Tuy nhiên, thử nhìn thêm sang một vài khía cạnh khác trong điều kiện tương đối để dễ bề so sánh. Hãy tìm xem giữa Tân Gia Ba và Hong Kong có những điều kiện gì tương quan so với Ðài Loan và Nam Hàn.
Qua bảng so sánh trên đây, ta thấy:
Dựa theo các dữ kiện trên, ta có thể tạm rút ra một vài kết luận như sau:
Ðể chứng minh cho các nhận xét trên đây, chúng ta hãy nhìn vào bảng kê một số nưóc có các điều kiện tương đương để dễ bề so sánh hơn:
Dĩ nhiên cũng có một số nước lớn, đông dân mà cũng có mức lợi tức cao như Hoa Kỳ, Nhật Bản. Mặt khác một số nưóc đất hẹp, dân ít mà cũng có lợi tức thấp như Djibouti, hoặc một số nước ở hải đảo. Hơn nữa, một số nước nằm ở một vùng đất cằn cỗi, nghèo nàn, không có nguồn lợi tức thiên nhiên, thì dù có được quản trị giỏi cũng khó mà có thể nâng cao được mức sống của người dân như tại một số nước ở lục địa Phi Châu. Trái lại, ở một số quốc gia khác, dù đất đai cằn cỗi nhưng lại có nguồn lợi tức thiên nhiên phong phú như vài nước vùng Trung Ðông với những mỏ dầu hoả thì đôi khi người dân chẳng phải làm gì mà cũng có được lợi tức cao. Ðó chỉ là những trường hợp đặc biệt, ngoại lệ.
Bên cạnh những đặc điểm thuận lợi trên, dĩ nhiên như trên đã nói, Tân Gia Ba cũng đã nhờ:
- Quản trị khéo léo, cứng rắn - độc tài (một nền độc tài được đa số dân chấp nhận để mang lại lợi ích cho quốc gia xã hội chứ không mang lại tài lợi cho cá nhân) của nhà lãnh đạo Lý Quang Diệu (liên tục cai trị Tân Gia Ba hơn 30 năm, từ 1959-1990).
- Chúng ta đang sống ở một nước mà quyền tự do được tôn trọng tuyệt đối, đôi khi cũng phải công nhận là quyền tự do đã bị lạm dụng. Do đó, là người Á đông, thường chấp nhận một sự tự do hạn chế để bảo vệ trật tự chung. Ðó là lý do thuận lợi để Tân Gia Ba có thể áp dụng một chính thể dân chủ hạn chế, đặt ưu tiên trật tự xã hội làm căn bản.
- Chế độ xã hội ở Tân Gia Ba cũng không quá nặng nề như ở Hoa Kỳ hay một số lớn nước Âu Châu. Người dân sống theo truyền thống Á Ðông, đặt nặng vấn đề gia đình hơn xã hội. Người dân tự lo lấy, hoặc gia đình trợ giúp nhau khi gặp khó khăn, hơn là dựa vào chính phủ. Do đó tại Tân Gia Ba đã không có những tệ nạn như vấn đề lạm phát về “oen phe”. Mặc dầu đã có một lợi tức cao nhưng đa số dân Tân Gia Ba vẫn sống trong những chung cư giản dị, khiêm tốn.
- Tân Gia Ba có đa số dân là người Trung Hoa (76%, Mã lai 15%, Ấn 6%) Phần lớn họ là những phần tử chống đối nhà Thanh bỏ nước sang lập nghiệp từ những thế kỷ 17-19. Những di dân thường là những thành phần có đầu óc tiên phong, mở đường khai phá. Hơn nữa, người Trung Hoa thường có đầu óc thương mại cao, dễ dàng cho việc phát triển.
Cổ nhân thường nói 3 điều kiện để góp phần cho việc thành công lớn, đó là thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Theo các điều thuận lợi trên, rõ ràng là Tân Gia Ba đã có được địa lợi, nhân hoà. Vậy thì đâu là thiên thời, điều kiện để đưa Tân Gia Ba đến chỗ thành công vượt bực như ta đã thấy.
Hãy xét về địa thế của Tân Gia Ba, một hòn đảo nhỏ, nằm ở tận cùng phía đông nam của Mã Lai, nối liền với bán đảo Mã Lai bằng một con đường nhân tạo, đắp qua eo biển Johore. Năm 1959 là một trong 14 tiểu bang của Mã Lai được Anh quốc trả độc lập nằm trong khối Liên Hiệp Anh. Năm 1965 vì tình trạng căng thẳng với Mã Lai (đa số dân Mã Lai), Tân Gia Ba (đa số là người Trung Hoa), đã tách ra khỏi Liên Bang Mã Lai để trở thành một nước riêng.
Có thể nói nhờ “được” Anh quốc đô hộ, tạo ra một điều kiện riêng rẽ với Mã Lai, rồi được trả độc lập đúng lúc đã tạo thành điều kiện thiên thời để Tân Gia Ba tách ra thành một nước riêng biệt.
Khi đã hội đủ 3 yếu tố trên, cộng thêm với việc Tân Gia Ba nằm trên một vị trí thương mại và chiến lược ưu thế, có một nhân lực toàn thể là dân đô thị, chấp nhận, hy sinh, sự thành công trong việc phát triển đưa đến hàng đầu trên thế giới là lẽ đương nhiên.
Nhân bàn về sự kiện Tân Gia Ba tách ra khỏi Mã Lai để trở thành một nước riêng, ta thử suy luận những điều kiện thích hợp tương ứng với Chợ Lớn của Việt Nam.
Mang so sánh với Tân Gia Ba, Chợ Lớn kể như đã có được cái thế nhân hoà, và thiên thời. Thử tưởng tượng nếu Chợ Lớn có được một vị trí địa dư thuận lợi tương đương với Tân Gia Ba thì có thể Việt Nam đã có một nước láng giềng tên là Chợ Lớn rồi.
|