LỄ BÁI
Trong nghi lễ Phật giáo Việt Nam thuộc phái Ðại thừa
(Bắc Tông) có nhiều khía cạnh tổ chức:
lễ
nhạc (âm thanh êm ái), lễ tụng (giọng Thiền, giọng ai), lễ khí (nhạc
cụ, pháp khí), lễ phục (y, mão), lễ đường (nơi hành lễ), lễ nghi
(bày biện, tác phong), lễ bái (lạy); Trong phạm vi lễ bái xin được
trình bày như sau:
I . Ý NGHĨA VÀ LỢI ÍCH CỦA LỄ BÁI
A/ Tổng quát: Lạy Phật
tức là bày tỏ lòng tôn kính và ngưỡng mộ của mình đối với bậc
Giác Ngộ. Ngoài ra còn có khả năng tiêu diệt lòng tự cao, tự đại
ngã mạn của mình, và rạp mình trước một tin tưởng tuyệt đối để biểu
lộ sự chí thành, chí kính với đức Phật, tức là với chính mình vậy.
Lạy Phật có 4 cách:
1/ Lạy nép thân mình sát đất
(ngũ thề đầu địa): cách lạy nầy làlàm tiêu diệt tâm kiêu mạn của
mình và biểu lộ lòng tôn kính đối với đức Phật. Ngũ thể là 5 bộ
phận trong con người: 2 tay, 2 chân và đầu. Khi lạy thì 5 bộ phận nầy
phải từ từ gieo xuống chạm sát mặt đất. Khi lạy theo cách nầy phải
phát nguyện lớn như trong kinh Hoa Nghiêm Tùy Sớ Diễn Nghĩa đã dạy như
sau:
-Khi
gối phải con quỳ xuống đất, nguyện cho chúng sanh theo đường chánh
giác.
-Khi
gối trái con quỳ xuống đất, nguyện cho ngoại đạo bỏ hết tà kiến
theo về chánh đạo.
-Khi
tay phải con chống xuống đất, nguyện được vững chắc như Phật ngồi
tòa Kim Cương, hiện điềm lành chứng đạo Bồ Ðề.
-Khi
tay trái con chống xuống đất, nguyện các chúng sanh khó điều phục xa
lìa ngoại đạo, dùng tứ nhiếp pháp (bố thí, nói năng êm dịu, làm
việc lợi ích, đồng tâm, đồng sức cùng sống thân mật với nhau) mà
đưa nhau gần vào chánh đạo.
-Khi
đầu con sát đất, nguyện cùng chúng sanh bỏ tâm kiêu mạn, thành tựu
đạo Vô Thượng Bồ Ðề.
2/ Lạy úp mặt vào tay (đầu
diện tiếp túc quy mạng lễ): tức là lạy ôm chân Phật, tỏ lòng
thành kính vô cùng, xem như đang ôm lấy chân Phật.
a/ Chính trí tương ứng: (Lạy phải
đúng nghi thức, với tấm lòng hết sức chơn thành).
Khi
lạy thân mình nghiêm chỉnh, ăn mặc đàng hoàng, tâm tưởng , ý suy với
mục đích duy nhất: lạy Phật, nhất trí tiến tu, không cầu, không
chứng. Lạy như vậy là chánh pháp cùng chí hướng tương quan với nhau
nên gọi là chính trí tương ứng. Trái lại, thường vấp phải các lỗi
như sau.
b/ Khinh mạn tương ứng: Khi lạy
Phật thân không nghiêm chỉnh, ý không thanh tịnh, tâm tán loạn, chỉ
lạy như cái máy, miệng khấn vái lung tung, cầu xin loạn xạ. Thân,
tâm, ý đều khởi lên những động tác bất kính, khinh mạn nên gọi là
khinh mạn tương ứng.
c/ Tạp giác tương ứng: Khởi đầu
ăn mặc chỉnh tề, tâm ý thanh tịnh, nhưng vì giác quan thâu nhiễm cảnh
trần phức tạp (mắt nhìn người nọ, liếc kẻ kia), dấy lên những tâm
tưởng e thẹn, ngần ngại nên phát xuất ra động tác lạy Phật ngượng
nghịu, sượng sùng, miễn cưỡng nên gọi là tạp giác tương ứng.
3/ Lạy dập trán xuống đất 3
lần (tam khấu đầu): Ðó là cách lạy thông thường, xem như "nhất tâm
đảnh lễ", 3 lần dập trán xuống đất là biểu hiện lòng thành khẩn
và sự cung kính đối với Tam Bảo.
4/ Lạy đứng: Trong kinh Ðại Phương Quãng Bảo Kháp có
chép rằng: "Bậc Thanh Văn tên là Trí Ðăng hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi
rằêng: Lạy Phật phải lạy như thế nào?- Ðáp: Nếu thấy kinh, sách
phải coi như thấy Phật, thân phải nghiêm chỉnh, không nghiêng, không
vẹo, không lay, không động. Tâm phải vắng lặng không khởi lên một
mảy may phiền não. Dù đứng mà lạy nhưng với sự thành kính, tịch tĩnh
như thế chính là lạy Phật." Như vậïy chúng ta đứng nghiêm chỉnh, khởi
lên ý niệm tôn kính tự tâm, khiến tâm tĩnh lặng hướng về đức Phật
cũng không kém phần lợi lạc.
Trong kinh Nghiệp Báo Sai Biệt có phân tích đến lợi
ích của sự lạy Phật như sau: "Lạy Phật một lạy thì từ đầu gối trở
lên đến đầu đều có ngôi Chuyển Luân Thánh Vương hiển hiện phò trì
và cũng có được 10 thứ công đức như sau:
1-Tự mình có được sắc thân tươi đẹp nhiệm mầu
2-Lời mình nói ra ai nấy đều tin.
3-Ðối với mọi người dù ác độc, mình không sợ hãi.
4-Chư Phật thời thường gia hộ phò trì.
5-Tự mình có đầy đủ oai nghi, được mọi người kính
mến.
6-Mọi người thảy đều muốn làm quen giúp đở.
7-Chư Thiên đều yêu kính.
8-Ðầy đủ các điều phúc đức, hưởng mọi thanh nhàn.
9-Khi chết nhận định được vãng sanh.
10-Tự mình chứng quả vắng lặng Niết Bàn.
B/ Phân tích việc lạy Phật về SỰ và LÝ.
Theo kinh điển có 7 loại lạy Phật, 3 loại thuộc về
SỰ và 4 loại thuộc về LÝ
a/ Ba (3) loại thuộc về SỰ là:
1-lạy Phật mà còn tính cách ngã mạn: Người theo đạo
Phật vào lạy Phật nhưng chưa chịu nén lòng, đè khí (đê tâm, hạ khí),
mà còn giữ tính tự cao, tự đại cố hữu, hoặc vì bất đắc dĩ, phép
lịch sự mà phải lạy, e ngại, bỡ ngỡ, tuy có ý cung kính nhưng cũng
chỉ nhất thời, lạy không đúng cách, chấ`p tay hoặc chân đứng không
đúng phép, ý nghĩ lung tung, van xin khấn vái loạn xạ, tưởng như vậy
là Phật thương Phậtđộ. Nhưng kinh Hoa Nghiêm, thiên Khổng Mục, Phật
dạy: "kẻ lạy như vậy là chưa dẹp được lòng ngạo mạn, tội nhiều
phúc ít". Do đó người cư sĩ Phật tử khi lạy Phật phải đem hết tâm
trí, phải không còn một chút mảy may lòng ngã mạn, dồn hết tâm trí
vào việc lạy Phật mới mong có lợi lạc.
2-Lạy theo người xướng họa: Ðó là lạy Phật vì bị
thúc đẩy bởi người khác hay một động năng bên ngoài, lạy không theo
nghi thức, không có oai nghi, tâm không tịnh, ý không tập trung, lạy
với tính cách khoe khoang, hoặc thấy người lạy thì mình lạy theo, nghe
người xướng thì mình lạy còn tâm tư thì nghĩ tận đâu đâu, không có
một chút gì là để ý tới việc đang lạy Phật cả. Lạy như vậy là để
cho có việc, cho xong việc và hành động không hợp nghi thức nên công
đức tự sút giảm rất nhiều.
3-Lạy với thân tâm cung kính: Tức là tự mình lạy
Phật hay nghe người chủ lễ xướng, thì tự tâm mình khởi ngay ý niệm
tưởng tới đức Phật, tất cả thân tâm đều biểu hiện hình tướng trang
nghiêm hết sức cung kính. Lúc nầy 6 căn thanh tịnh, 6 thức quy về một
niệâm là tinh tấn, lạy với tất cả tấm lòng thành kính vô biên. Như
vậy là toàn thân kính lạy, nhứt tâm quy mạng, công đức nhờ đó mà
phát sinh.
b/ Bốn (4) loại thuộc về LÝ: (căn cứ vào sự suy
luận nguyên nhân)
1-Phát hiện trí thanh tịnh mà lạy: Là tâm trí mình
thông suốt mọi cảnh giới, tâm cảnh tương ứng, lạy đức Phật mà chính
là lạy điểm "trí năng thanh tịnh" của mình. Như vậy là Phật pháp và
thân tâm của mình dung thông, xem tâm với Phật là một. Tâm trí thanh
tịnh tất nhiên có Phật trong chính mình vậy.
2-Lạy ngôi Tam Bảo là lạy khắp Pháp giới: Khi đã
hiểu được thân tâm mình cùng với vạn pháp là một không xa lìa nhau,
thì chúng sanh với Phật cũng bình đẳng như nhau. Trong kinh dạy: "Nhất
thân phục hiện sát trần thân. Nhất nhất biến lễ sát trần
Phật".Nghĩa là thân của ta cũng sẽ hiện ra vô số thân trong cõi
trần hoàn. Riêng một thân ta lạy Phật, thì tất cả các thân khác
cũng lạy Phật. Như vậy là ta lạy Phật tức là lạy khắp Pháp giới
nên gọi là "Biến Lễ" là lạy khắp thảy 10 phương Pháp giới, 10 phương
chư Phật.
3-Lạy với sự quán tưởng chân chánh: Lạy Phật tức
là lạy mình, lạy khắp Pháp giới. Như vậy lạy có nghĩa là biểu lộ ra
hành động mà quán tưởng đến chư Phật tức là liên hợp được thân
tâm, mình với Phật và chúng sanh như nhau, cùng ảnh hiện do sức quán
tưởng. Do đó lạy mà quán tưởng sẽ gặt hái được vô lượng công đức.
4-Lạy Phật mà xem như lạy khắp chúng sanh không phân
biệt. Lạy như vậy gọi là lạy với thực tướng bình đẳng, 3 cách lạy
Phật (thuộc Lý) nêu trên có hành động có suy nghĩ nhưng còn có phân
biệt: Mình, Phật và Chúng sanh. Ðến cách thứ tư nầy: lạy với thực tướng
bình đẳng tức là trong việc lạy không còn sự phân biệt là Mình,
Phật, Chúng sanh nữa. Phàm Thánh tất cả chỉ là một bản thể Chơn Như,
cho nên dù Thể hay Dụng cũng không phân biệt. Do đó ngài Văn Thù
mới dạy: "Năng lễ, sở lễ tánh không tịch" nghĩa là người lạy, người
được lạy, cả hai đều không, mà chỉ có một sự vắng lặng là đáng
quý mà thôi.
Tóm lại Lạy Phật phân ra bảy loại, theo Sự và Ly để
chỉ rỏ trên bước đường tu tập phải trải qua từng giai đoạn để tự
huân tập lấy bản thân, hầu đạt đến khi thuần thục: lạy với thực
tướng bình đẳng là lạy Phật. Cho nên người cư sĩ Phật tử trên bước
đường tu học, cần phải tìm hiểu rỏ ràng mới mong đạt được kết quả
trong pháp môn Lạy Phật.
C/ Ðộng tác lạy Phật
1/ Ðứng: Hai gót chân chạm khít lại với nhau,hai đầu
bàn chân xòe ra khoảng 60 dộ.
2/ Chấp tay: Hai bàn tay chụm lại, các ngón tay khít
lại với nhau, tầm mắt nhìn xuống thấy đầu lỗ mũi và đầu ngón tay
vô danh là vừa đúng.
3/ Ðầu ngay thẳng, mắt ngước nhìn lên, hai cánh tay
khép sát vào nách, hai bàn tay chụm lại.
4/ Bắt đầu lạy: Hai tay chấp nguyên, từ từ đưa lên
theo với tầm mắt nhìn theo Tôn Tượng, rồi từ từ hạ hai tay xuống,
cúi đầu chuẩn bị hạ năm phần cơ thể xuống, khi gần đến sát đất, hai
bàn tay xòe ra, lòng bàn tay úp xuống mặt đất làm thành hai cây
chống đỡ toàn thân, hai gối hơi dãn ra và quỳ sát đất, như vậy là
đã ở trong một tư thế cúi sấp người và tùy theo cách lạy mà thay
đổi tay:
a-Nếu là
đầu diện tiếp túc: Thì hai tay lật ngữa chồng lên nhau, bàn tay phải
đặt lên trên bàn tay trái rồi cúi đầu úp mặt vào lòng bàn tay.
b-Nếu là
ngũ thể đầu địa: Thì hai tay vẫn chống tức là lòng bàn tay úp xuống
đất, và cúi đầu, trán sát xuống đất là được.
c-Nếu là
tam khấu đầu: Thì hai tay cũng ở tư thế chống và đầu cúi xuống đất 3
lần.
5/ Khi lạy xong: Ðầu ngẫng lên từ từ, nếu là ở tư
thế đầu diện tiếp túc thì hai tay phải lật úp lại trở về thế
chống, dùng sức đẩy nhẹ thân mình lên và đứng thẳng dậy thật
nghiêm chỉnh rồi lại tiếp tục.
6/Tư thế lạy đứng: Lạy đứng là cách giản dị nhất,
nhưng rất dễ bị mất tính cách trang nghiêm, do đó chúng ta cần phải
chú ý. Trước khi lạy, đứng thật ngay thẳng, chấp tay đúng theo các
yếu tố ghi trên, yên lặng trong một phút để tập trung tưởng và phát
nguyện lạy Phật. Xong tay từ từ đưa lên, trong khi đó đầu hơi cúi
xuống và gập thân mình lại.
Số lạy trong đạo Phật thường là: -Biểu lộ quy kính
Tam Bảo: 3 lạy.
-Biểu lộ báo đáp Tứ Ân : 4 lạy.
-Biểu lộ quy kính Tam Bảo và cha
mẹ: 5 lạy.
Sau khi lạy xong, vái 3 vái và cúi đầu thấp xuống để
tỏ sự nép mình cung kính.
Khi lạy tuyệt đối không được nhìn ngang, nhìn dọc hoặc
dấy lên những động tác thiếu trang nghiêm hoặc hỏi han nói chuyện
với người khác làm cho mình vàngười đều phân tâm mất phần công
đức.
Tóm lại, việc lạy Phật là một điều rất quan trọng
đối với người cư sĩ Phật tử trong tiến trình tu học, chúng ta phải
luôn luôn huân tập để tiến đến chỗ Sự, Lý viên dung. Hằng ngày
lạy Phật với một dạ chí thành, chí kính, nhất tâm, nhất trí. Lạy một
lạy mà:- lạy cả mười phương -lạy với thực tướng bình đẳng. Ðược như
vậy mới phát huy mạch đạo và tăng thêm phần công đức tu tập.
(Trích trong Thực Hành Phật Giáo của cư sĩ Khánh
Vân)
II . CÁCH LẠY PHẬT
Hồi Phật còn tại thế, khi người ta lễ bái thì quỳ
mọp, đầu chí chân Phật. Ấy là đảnh
lễ. Hoặc người ta đi quanh Phật ba vòng,
theo tay mặt. Ấy là hửu
nhiễu tam táp. Còn như lễ
Phật tại chùa tháp, tức lạy tượng cốt Phật, thì thân đỉnh lễ, miệng
xưng danh hiệu Phật, tâm tưởng có Phật trước mặt mình.
BÁI
拜: (Tạp ngữ). Khi lễ Phật thì nên theo qui tắc mà Phật giáo đã chế
định, vì cách thức lễ Phật khác với cách thức lễ bái của thế gian.
Nay tường thuật cách thức lễ
Phật như sau:
1-
Chắp hai bàn tay, đặt trước ngực, đứng trước tọa cụ (chiếu
ngồi).
2-
Ðưa bàn tay phải xuống đặt giữa tọa cu.ï
3- Bàn tay trái
đặt ở mép trái của toạ cụ phiá trước (đây là một động tác)
4- Bàn tay phải từ
trong giữa đi ra mép bên phải của tọa cụ (đây là một nửa động tác
) mà theo cách thức lễ bái của thế gian gọi làhai động tác rưỡi ),
hai bàn để cách nhau khoảng 6 tấc).
5- Ðầu đặt
lên tọa cụ ở giữa khoảng hai bàn
tay.
6- Hai bàn tay thu
vào và ngữa lòng bàn tay lên, lúc nầy dùng hai bàn tay đặt lên
chân Phật, cho nên gọi là Ðầu diện lễ túc (đầu và mặt lễ
chân).
7- Nắm hai bàn tay
lại, lật lên, nhưng vẫn giữ nguyên vị trí trên tọa cụ.
8- Ðầu cất lên
khỏi tọa cụ.
9- Kéo bàn tay
phải vào giữa tọa cụ.
10- Ðưa bàn tay trái khỏi tọa cụ và đặt trên ngực
như dáng chắp tay.
11- Dùng bàn tay phải tỳ xuống để lấy sức đứng dậy
(đồng thời, hai đầu gối cũng rời khỏi tọa cụ) và chắp lại với bàn
tay trái, đặt trước ngực.
Ðến đây là một lạy, và ít nhất là phải lạy ba
lạy. Nếu lạy nhiều thì cứ tính số
3 gấp lên, như 6 lạy, 9 lạy, 12 lạy v.v..
Lạy xong, còn thêm một lạy nữa mà người đời gọi là
vái
chào, và nhà Phật gọi là Vấn tấn (thăm hỏi). Khi lạy xong, hai tay vẫn chắp trước
ngực rồi từ từ đưa hai tay xuống (lúc này cả người đều cúi xuống)
quá đầu gối khoảng một tấc, dùng bàn tay phải đặt bên trong bàn tay
trái làm thành nắm tay, rối đưa lên ngang lông mày (lúc nầy người
đã đứng thẳng), lại duỗi bàn tay thẳng ra, đặt trước ngực, lòng bàn
tay ngữa lên, hai ngón tay cái giao nhau, đây tức là thủ ấn của đức
Di Ðà. Lạy Phật như thế đến đây là xong.
(Trích
Từ Ðiển Phật Học Hán Việt)
III . Cách thức lạy Phật và Quán tưởng của
Trung Quốc
( Trích trong cuốn Lễ Phật dự y học =
Lạy Phật và Y học )
Cách chấp tay:
1- Hai cánh tay cần phải buông lõng, ngay thẳng, mềm
dẽo, nhẹ nhàng, không lấy sức chuyển gân.
2- Hai bàn tay ép sát với nhau,
nếu như tay trái khít thì tay phải lõng, hoặc ngược lại.
3- Hai tay chấp lại để trước
ngực, cánh tay trên không được kẹp sát nách (để máu huyết dễõ lưu
thông)
*
Hai ngón tay cái để ngang trước huyệt Ðản trung (Chiên trung), huyệt
này nằm ngay chính giữa trung tâm trên đường thẳng ngang hai vú.
4-Hai mắt nhìn thẳng vào hai đầu
bàn tay, tự mình kiểm soát lại xem thử chấp tay đàng hoàng chưa hay
còn loạn tâm, chấp tay cũng không phải là dễ, năm ngón tay khi tâm
mình đang tán loạn thì hai ngón tay út thường bị hở ra, không dễ khép
chặt được. Nên dùng tâm quán chiếu, nâng cao giác tánh, thì năm
ngón tay mới khít nhau được.
Cách lạy:
Phật
nghĩa là Giác Ngộ. Lạy Phật là mở mang giác tánh của chính mình chứ
không phải tôn sùng một cách mù quáng và cũng chẳng phải là một
động tác để quán tánh. Nếu không hiểu rõ thì sẽ bị thói quen của
các động tác có sẳn trong con người lôi kéo đi đường khác.
Lạy Phật cần yếu làbồi đắp
khả năng " hồi quang phản chiếu ", làm khơi dậy giác tánh có sẳn
trong thói quen trước đây trở nên hữu dụng, chứ không phải là một
loại vận động. Vì vậy nên luôn luôn quán chiếu vào mỗi động tác.
Trong lúc lạy Phật phải chú ý không được nhắm mắt lại, mà từ lúc
bắt đầu đến lúc kết thúc phải thu nhiếp nhãn thần, quán chiếu tự
thân,, quán tự tại. Thị lực tập trung ngay đường chính giữa mắt. Nên
hiểu rằng tại sao mình phải làm đúng đắn trong mỗi động tác. Bởi vì
trên cao có đức Phật đang nhìn chúng ta. Không thể nào mà không biết
điều nầy được. Lạy mà mê, không lạy mà giác là vậy đó. Nên thu
nhiếp lục căn, không thể để tản mạn lung tung được.
1/ Ðứng thẳng như
cây thông, mà thư giãn : buông lõng.
Hai bàn chân mở ra thành chữ V,
hai ngón cái cách nhau khoảng 26cm và hai gót cách nhau khoảng 7cm
(trước 8 tấc Tàu và sau 2 tấc Tàu), hai bàn chân đứng thẳng như cây
thông, sức nặng chia đều trên hai gót chân, hít sâu vào toàn thân
thư giãn hoàn toàn, các ngón chân cũng buông lõng, đầu như cái
chuông treo, ngay thẳng linh hoạt, tai ngay giữa vai. Ót sát với cổ
áo, xương cổ và xương ngực thẳng đối nhau. Lấy trung điểm của gót
chân, cột xương sống
và đỉnh đầu là một đường thẳng đứng. Khớp xương quai hàm dưới để tự
nhiên, không nghiếân
răng hay cắn chặt răng. Lưỡi, quai hàm, yết hầu đều buông lõng mềm
mại. Ðầu lưỡi cuốn để lên trên vòm hàm trên, lưỡi uống cong lên
như đang ngậm một cục tròn không khí. Như vậy, tuyến nước bọt mới
thông thương tốt, trong lỗ mũi và yết hầu đường khí lưu thông cũng
thoải mái. Thư giãn thì khí mạch lưu thông, đỉnh đầu được mát dễõ giữ
gìn chánh niệm, không mê, không loạn.
2/ Chấp tay : (để nhiếp tâm)
Hai bàn tay chấp lại với nhau
để trước ngực, vai và cánh tay thư giãn, góc ngón cái ngay trước
huyệt Ðản trung ( Chiên trung ) không quá sát ngực, cách khoảng I tấc
tây. Tự mình kiểm soát lấy, năm ngón tay khít lại với nhau ngay thẳng
hướng lên phía trên. Riêng ngón út rất khó khít lại với ngón đeo
nhẫn, nên hãy chú tâm để ý. Nếu tâm chưa tập trung được thì ngón
tay út sẽ hở ra. Tay tuy phải giữ ngay ngắn, nhưng đừng gồng cứng, nếu tay trái ép thì
tay phải buông lõng, hay ngược lại. Hít sâu vào vai buông lõng, dưới
nách để hở, không khép cùi chỏ sát vào. Giữ ngay thẳng buông xả,
hít vào thật đầy đủ không khí, thâu nhiếp nhãn thần, nhìn ngay chính
giữa đường ranh của hai lòng bàn tay chấp lại, hướng thẳng vào đường
khí ngưng sau mũi.
3/ Cuí đầu ( nhìn lại mình )
Mềm mại cúi đầu cung
kính đảnh lễ, đầu từ từ cúi xuống đến gần ngực, cổ để yên hoàn
toàn không dùng sức. Lúc ban đầu chưa cúi xuống được, đó là vì bấp
thịt cổ, lâu ngày co súc ngắn lại, chỉ cần buông lõng, tập luyện
nhiều lần ( như khi bị ngủ gật, đầu tự nhiên cúi xuống dễ dàng,
hoàn toàn không cần dùng sức trong động tác nầy.) Chỉ cần thư giãn
để kéo dài bắp thịt cổ mà thôi. Nhưng phải thâu nhiếp nhãn thần,
tự nhìn lại mình, lạy Phật là để tu tập ( động trong định ). Trong
động tác, cảnh trước mắt tuy có thay đổi, nhưng đều nằm trong sự
thâu nhiếp cuả nhãn thần, tức là thâu nhiếp lục căn.
4/ Gập thân mình
lại (cột sống cong về hướng sau). Khiêm tốn
Trọng
tâm tại gót chân, đứng vững trên gót chân, ngón chân buông lõng
không chịu lực. Ðầu cúi xuốâng nhìn thẳng đường chính giữa như là nhìn
chính mình vậy. Nếu cần thì nhìn thẳng vào đường giữa hai gót chân
của mình, cũng giống như người đang nằm ngữa mà dùng lực ngồi dậy,
khiến cho ức, bụng, mông, đầu gối đều đồng loạt giật lui khiến cho
cột sống hướng lui sau và ngồi dậy. Bụng và rốn có thể lui một
thước tàu ( khoảng 33cm ), còn cánh tay thì bất động.
5/ Vai thư giãn (
chuẫn bị ngồi xuống ) -buông xả
Vẫn giữ tư thế đầu cúi
xuống và thân gập lại như cũ, hai bàn tay vẫn chấp lại hướng thẳng
xuống giữa hai gót chân, hai vai theo sức kéo tự nhiên chúi xuống.
Ðộng tác nầy sẽ làm tiêu trừ những chướng ngại của bắp thịt vai
thường ngày. Tiếp theo đây hai động tác nhanh và liên tục nhau để chống xuống đất trong nháy mắt
trước khi quỳ xuống là động tác chuyển tiếp. Tuy động tác nầy rất
nhanh khoảng 3 giây đồng hồ, nhưng vẫn giữ được trọng tâm, đồng thời
lấy sức ở đan điền để mở rộng gót chân ra rất quan trọng. Vì thế
không nên bất cẩn mà phải xem xét rõ ràng.
6/ Cong đầu gối ( gập thân lại mà quỳ xuống )- Cung
kính
Vẫn tiếp tục cúi đầu, gập
thân, thòng tay và giữ vững hai ống chân đứng thẳng mà gập đầu gối
lại cho đến khi hai tay đụng đất ( tưởng tượng như phía sau hai bấp
chân có ghế để dựa vào chân ghế mà ngồi xuống ). Mắt vẫn châm
chú nhìn thẳng ngay đường giữa 2 mắt vàrốn, dựa vào đường thẳng nầy
mà ngồi thẳng xuống trên hai gót và tay sẳn sàng chống xuống mặt
đất, nhẹ nhàng hai tay phân ra hai bên đầu gối hai lòng bàn tay lật hướng về phía sau để
chống xuống đất. Người mới tập thì đầu gối có khuynh hướng đâm về
phía trước, nên phải cố gắng tập luyện. Chú ý : Vì trước khi động
tác gập người xuống thì bấp vếâ và đầu gối đã hướng về sau rồi, vì
vậy trong khi xếp đầu gối lại,bắp chân vẫn còn đứng thẳng mà giữ
cho đừng chúi đầu gối về trước.
7/ Quỳ xuống đất ( hết sức cung kính và khiêm
nhường )
Khi đầu các ngón tay đụng đất,
có thể khi hai tay chạm đất, gót chân mới nhón lên để đầu gối quỳ
xuống, động tác nầy rất nhanh. Các khớp xương bàn và ngón chân đều
được kéo giãn ra, các khớp xương của mỗi bàn chân đều được kéo ra,
đều cùng vận động. Chỗ mà các đầu ngón tay đụng đất là phải ngang
với đầu gối khi quỳ xuống. Hai đầu gối hơi mở ra một chút khoảng
5cm, (không nên quá rộng, để khỏi nằm sát xuống đất và làm cho cột
sống giãn ra. Khi đầu gối đã quỳ trên đất, thì tay thư giãn . Hãy
chú ý đến trọng tâm.
8/ Quỳ ngồi trên
bắp chân nhẹ nhàng ( loạn tâm chấm dứt )
Lòng bàn chân hướng lên trên
thành hình chữ V, hai ngón chân cái đụng nhau một cách nhẹ nhàng mà
không đè lên nhau, mông đặt nhẹ nhàng lên hai mặt trong của gót chân, quỳ vữngï ngồi yên, lấy sức
nặng của thân thể đè lên hai gót chân. (Tư thế nầy có khả năng
làm giãn khớp xương mắt cá, kích thích điểm phản xạbạch huyết cầu ).
Lưu ý : Trọng tâm vẫn ở giữa hai gót chân.
9/ Hai tay duổi thẳng tới trước để đón Phật. (Ðể trở
về giác tánh )
Ngồi vững vàng, trọng tâm ở
giữa hai gót chân , toàn thân thư giãn, không ngẫng đầu lên, hai tay
mềm mại, hướng về phía trước ngay chính giữa duỗi thẳng tới như hình
sau ( /\ ) đầu các ngón chấm xuống đất, tay vẫn thư giãn, không
chuyển gân, nhưng hai bắp thịt vai vẫn triễn khai sức kéo về phía
trước. Lúc nầy bụng dưới úp xuống mặt đất, thân thể thư giãn, (sức
tại đan điền.)
10/ Năm vóc gieo sát đất. ( Thức tỉnh )
Luôn giữ trọng tâm, lấy hai
đầu ngón tay giữa làm điểm tựa đè lên mặt đất, hai cùi chỏ bật ra
hai bên, hai đầu cùi chỏ ngang thẳng với hai lỗ tai, hai vai mở rộng,
hai bả vai bằng phẳng, đừng rút vai lại, nách mở rộng, mở rộng
ngực, phổi căng, ngón tay, lòng bàn tay bằng phẳng úp xuống mặt đất
( thể hiện tâm bình đẳng ). Trong lúc mở rộng hai cùi chỏ thì thân
trên hạ sát đất, huyệt ấn đường chạm đất. Không nên chuồi tới phía
trước thái quá, nhưng có thể hạ thấp càng tốt làm cho xương sống
cong lên phía sau, thế nầy làm cho thở sâu, đỉnh đầu, rốn và giữa hai
gót chân nằm trên một đường thẳng.
11/ Lật hai bàn tay ngữa lên đặt trên chân Phật. (
Chuyển phàm thành Thánh )
Trước hết hai bàn tay nhẹ nhàng
nắm lại một nửa, trong lúc lật bàn tay lên ngón tay từ từ bật ra
như một bông sen đang nỡ, như đem hết lòng để cúng dường lên Ðức
Phật. Ðộâng tác nầy biểu thị sự quyết tâm, quyết chí chuyển biến
chính bản thân mình hướng về đức
Phật để tu học. Hai bàn tay hoàn
toàn bằng phẳng, không xiêng xẹo, gồng cứng, mà phải thư giãn mềm
mại như cánh hoa sen. Dùng bàn tay hoa sen nầy đặt lên chân Phật. Hai
tay quá đầu về phía trước khoảng một nắm tay. Hai ngón tay giữa cách
nhau khoảng 1 tấc 2 tây, ngón tay tuy thư giãn nhưng phải ngay thẳng.
12/ Tâm mình cùng
với tâm Phật. ( thông suốt giao hòa )
Trong khi lật tay đón Phật, quán
tưởng Phật đang đứng trên bàn tay bông sen của mình và nhận cái lạy
của mình. Lúc nầy gặp được tâm Phật nở một nụ cười. Ðức Phật
phóng quang rọi xuống chính mình, ánh sáng của đức Phật chiếu xuống
và đi vào đỉnh đầu của mình, đầy
khắp cả thân tâm, toàn thân đều buông lõng, với nụ cười tự nhiên
và hít thở thật sâu.
13/ Trở lại tư thế quỳ. ( Hoan hỷ tín thọ )
Sau khi đón Phật, cũng nắm nửa
bàn tay, nhận lãnh Phật lực, kế đó úp bàn tay lại để sát trên mặt
đất, tượng trưng bình đẳng bố thí, hít vào tự nhiên, cất đầu thẳng
lên trở lại thế quỳ ngồi, hai tay rút vào hai bên đầu gối và đầu
ngón tay ngang với đầu gối. Vì đầu ngẩng
lên nên như một bức tượng gỗ có dây kéo lên ví như đức Phật
đang kéo mình dậy, toàn thân thư giãn hoàn toàn, không dùng lực,
không dựa lưng nên làm cho có sức để ngồi lên.
14/ Bật hai lòng bàn chân ra phía ngoài. ( Hoan hỷ
khởi hành )
Dùng đầu gối làm điểm tựa,
dùng sức chống của hai bàn tay ở hai bên đầu gối phụ thêm. Nhờ sức
kéo khi ngẫng đầu lên, tự nhiên hai mông rời thế ngồi làm cho hai
bàn chân tự đông đang ở hình chữ V đổi thành hình chữ bát ( /\ ). Hai
ngón chân cái bật ra ngoài chạm đất cách nhau khoảng 26cm , hai gót
chân hướng vào trong cách nhau khoảng 6cm. Mục đích động tác nầy để
giữ đúng vị trí và kích thước lúc ban đầu sau khi đứng lên
15/ Ðứng dậy . (
Vững chắc không lùi )
Giống tượng gỗ được kéo lên bằng giây, như được đức
Phật kéo lên từ đỉnh đầu bằng một sợi dây, rất linh hoạt, nhanh nhẹ
đã trở về thế đứng. Khi đứng dậy hoàn toàn không dùng sức, chuyển
gân, cũng chẳng dùng tay chống dậy mà chỉ dùng sức ở đỉnh đầu kéo
lên. Không nên cất mông lên trước, ngẫng đầu lên sau.
Nếu làm như vậy lưng sẽ tiêu hết lực,
và sẽ bị bệnh đau lưng.
Tại sao phải chống tay xuống
đất trước rồi mới quỳ sau? Nếu chúng ta không chống tay xuống đất
trước mà đột nhiên quỳ xuống, thì khớp xương đầu gối có thể bị tổn
thương. Như đã nói ở trước; lạy Phật là những động tác mềm dẽo theo
quy luật, chứ không phải làmột sự khổ nhục, không cần phải làm cho
thân thể thọ thương. Vì thế phải mềm mại chống tay xuống đất trước
để lấy điểm tựa, sau đó bàn chân mới nhón lên để quỳ xuống, trong
sự mềm mại của động tác là để điều phục nhân tâm. Hai tay chống
đất mà quỳ xuống là biểu hiện sự cung kính, khiêm nhường, từ bi hết
mức.
IV . CÁCH THỨC LẠY HƯƠNG LINH.
Lạy Hương Linh là một nghi thức
trong mỹ tục thờ cúng Ông Bà của dân tộc Việt Nam mà những thế hệ
trước đây được học. Ðặc biệt là những người phụ trách nghi lễ gia
tộc, làng xã. Những người nầy thường được gọi là "Học trò lễ". Bộ
sách căn bản thường dùng cho học trò lễ là bộ Ấu Học Quỳnh Lâm,
trong đó có nhiều cuốn và giải thích nhiều phần khác nhau về nghi lễ
cổ truyền của dân tộc. Trong mục "lạy" có hướng dẫn cách lạy hương
linh như sau:
1/ Chấp tay: Trước khi lạy, đứng
nghiêm chỉnh trong vòng tròn chính giữa chiếu. Hai bàn chân trước rộng
sau hẹp hình chữ V, hai bàn tay chấp lại với nhau. Có hai cách chấp
tay:
a-Bàn tay phải nắm lại, bàn tay
trái ôm bọc ngoài bàn tay phải. Ngón cái của bàn tay trái đè chéo
lên ngón cái của bàn tay phải.
b-Các ngón của hai bàn tay đan
lại và ép hai lòng bàn tay lại với nhau, ngón cái của tay trái cũng
đè lên ngón cái của tay phải như trên. Ðể tay ngay chính giữa ngực;
cao ngang trái tim, khoảng cách giữa ngực và bàn tay khoảng một tấc
tây.
2/ Cách lạy:
a-Chân trái bước lên một bước,
chân phải bước theo, đứng ngay ngắn như trước, vái một vái.
b-Cong lưng, gập đầu gối lại,
dùng hai tay chống xuống đất làm điểm tựa.
c-Chân trái làm trụ, chân phải
bỏ lui về sau, quỳ gối ngang với bàn chân trái;
Chân phải làm trụ, chân trái đẩy lui về
sau, quỳ gối ngang bằng như chân phải.(hai gối ngang nhau). Hạ hai cùi
chỏ sát đất làm điểm tựa, hai bàn tay để sắùp hay lật ngữa tuỳ ý,
trán cúi xuống sát đất.
3/ Ðứng dậy: Dùng sức của hai bàn tay (nếu để ngữa
thì lật sấp lại) đẩy toàn thân quỳ thẳng lên, chấp hai tay để trước
ngực như trên. Ðưa chân trái lên phía trước, ở thế quỳ một chân trái,
hai tay vẫn chấp lại tựa trên đầu
gối trái, dùng lực của chân trái và mũi chân phải bật đứng dậy,
rút chân trái nhập vào với chân phải, trở lại tư thế và vị trí lúc
ban đầu.
Lưu
ý: Tay áo lễ rất rộng và dài (chiều dài của hai tay áo bằng chiều
cao của chiếc áo). Trước khi lạy xuống, hai tay đang ở tư thế chấp
tay, khoác ra hai bên nữa vòng tròn về phía dưới, khi tay đưa lên đồng
thời hạ người xuống để tránh đè tay áo. Chân bước lên trước là
tránh đạp vạt áo, để khi đứng dậy người khỏi mất trọng tâm.
Qua phần tham khảo ở trên,
chúng ta có một nhận thức rỏ ràng: xuất xứ, cách thao tác, ý nghĩa
và lợi ích của lễ bái. Ngưỡng mong quý cư sĩ Phật tử thưcï hành,
thực chứng trong việc tu tập, ngõ hầu thăng hoa và trang nghiêm đạo
tràng trên bước đường tu học.
Mỗi môn phái, mỗi quốc gia có
cách lễ bái riêng mang bản sắc dân tộc như Nhật Bản, Tây Tạng . . .
rất đáng tôn quý. Trong phạm vi bài này chúng tôi cũng mong gìn giữ
được bản sắc dân tộc "Phật Giáo Việt Nam"
Trúc
Viên và Tâm Pháp