TỤNG NIỆM
LAỴ PHẬT
Là Phật tử, nhất là
đứng vào hàng cư sĩ, nếu ta chưa biết
lạy Phật, tụng kinh và niệm Phật là c̣n
thiếu sót bổn phận chuyên chính của ḿnh.
Vẫn
biết rằng: hiểu sâu giáo lư của Phật, hiểu
rơ lư nhân quả, thông đạt mọi ẩn ước
của kinh kệ thời không lễ Phật cũng là
lễ Phật, không tụng king mà chẳng khác đă
thuộc làu kinh. Nhưng , hỏi ai dám tự cho ḿnh là
được như vậy?_Vả, nếu đă tự
cho ḿnh là đầy đủ cả, không cần lễ
Phật tức là đă có một sự ngă mạn, cống
cao. Người đă ngă mạn là khó thâm nhập
được Phật lư, và những sự suy xét chẳng
qua chỉ là lấy ma thuyết tự biện mà thôi.
Trong
các pháp môn lạy Phật, tụng kinh và niệm Phật,
người cư sĩ cần có quan niệm chính xác:
_Lạy
Phật là biểu lộ sự tôn kính đấng Giác
Ngộ và tự ta tĩnh tâm thức giác ngộ sẵn có
của ta, và đồng thời dẹp bớt ḷng kêu
căng, tự đại, cúi ḿnh đi theo chánh đạo.
_Tụng
kinh là đọc những lời vàng mà đấng Giác
Ngộ đă trăi bao kiếp tu tập, di giáo lại cho ta,
dạy bảo cho ta biết cách làm cho tâm thanh thái, diệt
trừ được mọi phiền năo ràng buộc.
_Niệm
Phật là nghĩ nhớ đến đấng Đại Giác
để được theo Ngài, trở về cơi
nước thanh tịnh của ngài, mà cơi nước
ấy đâu phải xa xuôi, chính tự tâm ḿnh, ḿnh niệm
Phật th́ tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh tức là
Cực Lạc.
Khi
đă có được những quan niệm chân xác như
vậy rồi cần phải thực hành để
gặt hái được kết quả của sự:”Phúc
tuệ song tu”tức là trao luyện cả phần làm phúc
làm duyên, huân tu trí tuệ cho thêm sáng suốt, như thế
ta phải cố thực hiện ba quan điểm Văn,
Tư, Tu tức là nghe th́ phải suy ngẫm, suy ngẫm
rồi cố làm theo để có thể thóat bến mê sang
bờ giác ngộ.
Cũng
có người cho rằng mỗi khi tổ chức tụng
niệm ở nhà là rất phiền phức v́ phải
sắm hoa quả, hương nến.v.v...nếu cứ
hàng ngày tụng niệm sắm sửa như thế sẽ
rất tốn kém, chỉ ai giàu có mới theo
được mà thôi, c̣n như người ở trong
mức sống trung lưu hoặc nghèo nàn th́ hoàn cảnh
gia đ́nh không cho phép, nên dù có đạo tâm cũng đành
xao lăng, do đó không tổ chức lễ tụng ở nhà
mà chỉ để ngày Rầm, Mồng một ra chùa
lễ Phật, tự cho thế là quá đủ.
Điều
e ngại trên, xét về thực tế không phải không có
lư, nhưng thực ra chỉ là một ư niệm “trở
đạo”,v́ như ta đă biết: Lễ Phật là
tự tâm, dù không có hương hoa, trà quả, tâm thành
Phật vẫn chứng minh. Nếu biện nhiều
lễ vật mà tâm c̣n e ngại về sự tốn phí,
thảng hoặc trong gia đ́nh có người thấy phí
tổn nhiều mà khởi nên ư niệm không thành, như
vậy th́ lễ vật kia cũng chỉ là thức vật
thừa dư, tâm đă không thành mà mua thức vật
thật nhiều cúng Phật có ích ǵ đâu?
Cho
nên, chỉ một nén hương thơm, toàn gia nhất
hướng kính tin th́ công đức vô cùng, vô lượng.
Tóm
lại, người cư sĩ phải nên chăm lo
lễ tụng ở nhà và nên tổ chức càng giản
dị bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, phải nên lưu ư
những điểm sau đây:
-Chọn
th́ giờ không xúc duyên đối với gia đ́nh.
_Tự
ḿnh thanh tịnh: thân, khẩu, ư nghiệp.
_Bàn
thờ giản dị, chỉ cần thắp lên nén
hương thơm ngát, biểu lộ ḷng thành
_Khi lạy Phật,
tụng kinh phải nên giữ cho được hoàn toàn yên
tĩnh, không nên để con cái, người nhà chạy
đi chạy lại lao xao.
_Cần tập luyện
để laỵ Phật, tụng kinh, niệm Phật cho
đúng phương pháp và cần huấn giáo để toàn
thể mọi người trong nhà cùng có ư niệm tin thành.
NIỆM PHẬT
Niệm
nghĩa là nhớ đến, nghĩ đến,
đọc nhỏ, đọc lẩm nhẩm. Niệm
Phật tức là nghĩ đến, nhớ đến
đức từ phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni hay
bất cứ danh hiệu nào của mười
phương chư Phật, chư Bồ Tát.
Trong
kinh lăng nghiêm, thiên Thế Chí Niệm Phật dạy
rằng:”thập phương Như Lai lân niệm chúng sanh
như mẫu ức tử, nhược tử đào
thệ, tuy ức hà vi. Tử nhược ức mẩu
như mẫu ức thời, mẫu tử lịch sinh
bất tương vi viễn” nghĩa là:chư Phật
mười phương, thương yêu nghĩ nhớ
chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con bỏ chạy,
th́ thương nhớ đâu có ích ǵ? Nhưng nếu con
cũng nhớ mẹ như mẹ nhớ con, mẹ con
thương nhớ lẫn nhau th́ có khi nào lại xa nhau
được
Phật chính là tâm, chúng ta
xa Phật tức tự tâm dễ bị rơi vào vô minh v́
hoàn cảnh tạo nên, nếu chúng ta vứt bỏ
phiền năo, quay đầu để nhớ đến
Phật, tức là trở về với tự tâm, th́ chúng
ta đă gần được Phật.
Niệm Phật có
nhiều cách, và phương pháp hành tŕ của mỗi cách
cũng có khác nhau, trong phạm vi bài nầy chúng ta chỉ
bàn đến pháp môn Luân Quán (c̣n gọi là lần tràng
hạt hay chuỗi hột) mà thôi. Thông thường khi nói
đến niệm Phật là chúng ta nghĩ ngay đến
Lục Tự Di Đà tức là:”Nam Mô A Di Đà Phật” v́ trong kinh
Di Đà đức Giáo Chủ cơi Cực Lạc đă
dạy:”Tŕ một ngày cho đến bảy ngày, ai giữ
được tâm tư trong lặng không hề tán
loạn, khi sắp chết sẽ có đức Phật A Di
Đà cùng các vị Bồ Tát, Thánh chúng hiện đến ngay
trước mặt mà hộ tŕ, khi người đó
chết, nếu tâm không điên đảo th́ liền
được văng sanh sang cơi Cực Lạc của
đức Phật A Di Đà.
Trong
48 nguyện của đức A Di Đà có nói
rằng:”Nhược hữu chúng sanh, dục sanh ngă
quốc, chi tâm tín nhạo, năi chí thập niệm,
nhược bất sanh giă, bất thủ chánh giác”nghĩa
là: nếu có chúng sanh nào muốn sanh sang cơi nước ta,
chí tâm tin tưởng, ưa thích, niệm danh hiệu
của ta đến niệm thứ mười, nếu
không được sanh ở cơi nước ta, ta không thành
Phật.
Tổ
Thảo Đường cũng dạy:”Duy hữu niệm
Phật nhất môn tối vi tiệp kính, tự cổ chí
kim, ngu trí đồng tu, nam nữ cọng xu, vạn vô
nhất thất”,tức là: chỉ có pháp môn niệm
Phật là một pháp môn tiến tới thành Phật nhanh
nhất, từ ngàn xưa cho đến ngày nay, kẻ trí
người ngu đều tu, nam nữ đều có chung
một xu hướng niệm Phật th́ vạn
người không ai chẳng đắc pháp.
Như
vậy, niệm Phật cũng là một pháp môn rất
thông dụng và tiện lợi, phù hợp với mọi
căn cơ, mọi giới, mọi tầng lớp
của Phật tử chúng ta, nếu tinh tấn tu hành th́
cũng dễ dàng đi đến thành đạo. Điều
cốt yếu của niệm Phật là để diệt
trừ phiền năo, mà phiền năo lại do tâm của chính
ḿnh tạo nên từng sát na một, nếu niệm Phật
từ cuốn họng trở ra, nghĩa là miệng
niệm Phật mà tâm th́ cứ suy nghĩ lung tung, chuyện
nầy chuyện nọ.v.v...niệm Phật như vậy
dù niệm một triệu câu cũng như chưa niệm
câu nào. Sở dĩ khi c̣n sơ cơ không có chỗ
nương tựa nên tâm dễ tán loạn do đó phải
có chuông, mơ ḥa nhịp để giữ tâm bớt tán
loạn, lại có thêm chuỗi hột, để qua
một hạt là phát nguyện trừ đi một
phiền năo, và hết một tràng hạt là đă diệt
trừ được khá nhiều phiền năo rồi.
Đại
cương phiền năo có 108
món, do đó tràng hạt thông thường cũng có 108
hột. Chuỗi hột của Phật giáo Việt nam
thường dùng có 3 loại: dài= 108 hột; trung= 54 hột
và ngắn= 18 hột Vậy 108 phiền năo là ǵ?
Phiền
năo là do 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư
nhiễm trước 6 trần của thế gian là:
Sắc, âm thanh, mùi, vị nếm, sự đụng
chạm và sự liên hợp linh ứng với mọi
sự vật. Khi 6 căn nhiễm 6 trần th́ phân biệt
thành ba trạng huống khác nhau là: Tốt - Xấu – Không
tốt, không xấu.
Tất
cả căn, trần và trạng huống luân lưu trong 3
thời: quá khứ, hiện tại, vị lai không bao
giờ ngừng nghỉ.
Chúng
ta có kết quả phiền năo phát sanh theo sơ đồ
sau:
Căn Trần Cảnh
4 - Lưỡi
Vị
Ngon-không
ngon-trung b́nh
5 - Thân
Xúc
Thích-không
thích-b́nh thương
________________________________________________
________________________________________________
.Trong pháp môn luân quán, kinh
lần tràng hạt c̣n chia số 108 thành 108 Tôn vị như
sau:
-5
vị Phật trong Kim Cang giới là: Đại Nhật, A Súc,
Bảo Sinh, Vô Lượng Thọ và Bất Không Thành
Tựu Như Lai.
-4
vị Ba La Mật Bồ Tát là: Kim Cang Ba La Mật, Bảo
Ba La Mật, Pháp Ba La Mật và Nghiệp Ba La Mật
-16
vị Đại Bồ Tát: Di Lặc, Bất Không, Trừ
Ưu, Trừ Ác, Hương Tượng , Đại Tinh
Tấn, Hư Không Tạng, Trí Tràng, Vô Lượng Quang,
Hiền Hộ, Vơng Minh , Nguyệt Quang, Vô Lượng Ư,
Biện Tích, Kim Cang Yạng, Phổ Hiền Bồ Tát.
-12
cúng dường pháp là: Hy Hư , Mạn Đà La, Ca, Vũ,
Hương, Hoa, Đăng, Đồ hương và tứ
nhiếp là: Kim Cang câu, Kim Cang Sách, Kim Cang tỏa, Kim Cang linh.
-16
vị Bồ Tát đời Hiền kiếp (theo hiển
giáo là: Bạt Đà Bà La, Bảo Tích, Tinh Đức, Đế Thiên,
Thủy thiên, Thiện Lực, Đại Ư, Thù Thắng Ư,
Tăng Ư, Thiện Phát Ư, Bất Hư Kiến, Bất
HưuTức, Bất Thiểu Ư, Đạo Sư, Nhật
Tạng và Tŕ Địa Bồ Tát .
-20 Thiên vị là: Đại
Phạm, Đế Thích, Đa Văn, Tŕ Quốc, Tăng
Trưởng, Quăng Mục, Kim Cang Mật Tích, Ma Hê Thủ
La, Tán Chỉ Đại Tướng, Đại Biện Tài,
Đại Công Đức, Vi Đà, Thiên Thần, Kiên Lao Địa
Thần, Bồ Đề Thụ Thần, Quỷ Tử
Mẩu Thần, Mạ Lỵ Chi Thiên, Nhật Cung Thiên
Tử, Nguyệt Cung Thiên Tử, Sa Kiệt La Long
Vương và Diêm La Ma Vương.
-5 vị Đính Luân
Vương là: Bạch Tản Cái Phật Đính, Thắng
Phật Đính, Nhất Tự Tối Thắng Phật Đính,
Hỏa Quang Phật Đính và Xă
Trừ Phật Đính Luân Vương.
-16 vị Chấp Kim Cang
Thần là: Hư Không Vô Cấu Kim Cang, Kim Cang Luân, Kim Cang
Nha, Diệu Trụ Kim Cang, Danh Xưng Kim Cang, Đại
Phận Kim Cang, Kim Cang Lợi, Tịch Nhiên Kim Cang, Đại
Kim Cang, Thanh Kim Cang, Liên Ḥa Kim Cang, Quăng Nhăn Kim Cang, Chấp Diệu
Kim Cang, Kim Cang Kim Cương, Trụ Vô Hư Luận Kim Cang, Hư
Khônh Vô Biên Du Bộ Kim Cang.
-10 Ba La Mật: Bố
thí, Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền
định, Trí huệ, Phương tiện, Nguyện
lực, Trí ba la mật.
-4 Đại: Đất,
Nước, Gió, Lửa.
Ngoài ra, Số 108 c̣n
gọi là 108 kết tập hoặc 108 kết nghiệp
như sau:
88 sử của kiến
hoặc là:
a/ Cỏi Dục giới
có 32 được chia ra:
-10
Khổ đế là: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến,
biên kiến, tà kiến,kiến thủ, giới cấm
thủ
-7
Tập đế là: tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, và
kiến thủ.
-7
Diệt đế là: tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, và
kiến thủ (như Tập đế).
-8
Đạo đế là: tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến,
kiến thủ, và giới cấm thủ.
b/ Cỏi Sắc giới
và Vô sắc giới mỗi cỏi đều có 28 sử,
cọng lại thành 56 là:
-9
Khổ đế là: tham, sân, si, mạn, biên kiến, tà
kiến, kiến thủ, thân kiến, và giới cấm
thủ.
-6
Tập đế là: tham, sân, si, mạn, tà kiến, kiến
thủ.
-6
Diệt đế là: tham, sân, si, mạn, tà kiến,
kiến thủ.
-7
Đạo đế là: tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến,
kiến thủ và giới cấm thủ.
10 sử của Tư
Hoặc (Tiểu Thừa) là:
a/ Cỏi Dục giới
có 4 là: tham, sân, si, mạn.
b/ Cỏi Sắc giới
có 3 là: tham, sân, si.
c/ Cỏi Vô Sắc
giới có 3 là: tham, sân, si.
10 Triền là:
Không hổ, không thẹn,
ganh ghét, keo xẻn, hờn, ham ngủ, ḷng bất an, hôn
trầm, giận dữ, tráo trở.
Trên
đây là ư nghĩa con số 108 của chuổi hột, và
chúng ta chỉ cần nhớ rằng: Niệm Phật là
để diệt trừ phiền năo, chú tâm vào việc
niệm Phật để làm thanh tịnh lục căn, hầu
đi đến chỗ thanh tịnh hoàn toàn để
gặt hái được kết quả của sự tu
hành là đi dần đến chỗ liên niệm không
ngừng nghỉ, được như thế là
người cư sĩ Phật tử chúng ta đă
tiến một bước khá dài trên đoạn
đường tu học của một kiếp
người ngắn ngủi.
TỤNG KINH
I/
Ư nghĩa: Theo Phật học Tự Điển
định nghĩa: Tụng là đọc ra tiếng,
đọc thuộc ḷng hoặc đọc nương theo
bản, đọc cho hiểu, cho nhớ để tu hành,
đọc kinh, đọc kệ, đọc chú để
cầu nguyện cho phần âm và phần dương .
Trong
kinh A Di Đà, Phật dạy:”Nhược hửu thiện nam
tử, thiện nữ nhơn giai vi nhất thiết
chư Phật chi sở hộ niệm giai đắc
bất thối chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề (nếu có người thiện nam hay
thiện nử nghe kinh mà thọ tŕ hoặc nghe danh hiệu
Phật mà niệm th́ người thiện nam, thiện
nử ấy đều được các đức
Phật hộ niệm cho, đều đến
được nơi chánh đẳng, chánh giác không bao
giờ thối chuyển). Như vậy tụng kinh,
niệm Phật chính là phần việc của những
người muốn tu thật sự, dù là cư sĩ
Phật tử tụng kinh, niệm Phật cũng
được công đức như chư Tăng, Ni.
Ngoài
ra trong kinh Nghiệp báo Sai biệt có dạy rằng:”Ai cao
tiếng tụng kinh, lạy Phật được
hưởng mười thứ lợi ích như sau:
1/
Bỏ được sự buồn ngủ.
2/
Các loài Thiên ma nghe thấy đều phải kinh sợ.
3/
Tiếng sẽ trong và vang ra khắp mười
phương.
4/
Ba đường (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh)
đều được thoát khổ.
5/
Các thứ âm thanh bên ngoài khong xen lộn vào được.
6/
Tâm thức không bị tán loạn.
7/
Thân tâm càng thêm dũng mănh, tinh tiến.
8/
Chư Phật nghe tiếng thảy đều hoan hỹ.
9/
Mau tiến tới chánh định.
10/ Nhất định sẽ về nơi
tĩnh lặng hoàn toàn.
Tất
cả mọi khổ năo đều do vọng tâm mà ra, nay
tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật thân tâm dần
dần tĩnh lặng th́ phiền năo tự nhiên bị tiêu
diệt hết.
II/
Phương pháp tụng kinh: Mặc dù tụng có
nghĩa là đọc to lên, nhưng không có nghĩa là
tiếng nói oang oang thô bạo như thét vào tai kẻ khác.
Chúng ta biết rằng mỗi người có một giọng
riêng biệt, khác nhau. Nhưng dù tiếng trong,
đục,thô, thanh, trầm, bỗng, kim, thổ...nếu
chăm chú luyện tập thường xuyên trong việc
tụng kinh th́ tiếng nói sẽ trở thành êm dịu,
dẽ nghe khiến mọi người ưa thích. Phật
dạy:”Nhũng ai tụng kinh, lạy Phật nhiều th́
tiếng vang xa ra khắp mười phương, ai nghe
thấy cũng đều thích thú.”Do đó người
cư sĩ Phật tử chúng ta cần biết
đến cách tụng kinh và cách đánh chuông mơ.
a/
Cách tụng kinh: Tụng kinh có hai cách theo tập tục
của từng địa phương như : Ngồi
thẳng xuống chiếu, hoặc quỳ hay ngồi trên
ghế tuỳ theo sự trang trí bàn kinh cao hay án kinh
thấp. Nếu ngồi trên ghế hay dưới chiếu
đều là y theo phép toạ thiền, chỉ khác nhau
ở chỗ một bên nhập định im lặng,
một bên phải chăm chú vào việc tụng niệm,
ngồi mà tụng th́ thoải mái và thời gian lâu dài, c̣n
quỳ hay đứng chỉ làm những lễ ngắn mà
thôi. Do đó các vị Tổ Sư ngày xưa thường
ngồi mà tụng kinh suốt ngày mới đứng
dậy.
Tụng
kinh cũng giống như người chơi đàn,
tụng to mà cao, gắt tiếng như người gảy
đàn căng dây, tụng nhỏ mà trầm, hoặc rờ
rạc như người gảy đàn chùng dây. Dây đàn
căng th́ mau đứt, người tụng dễ bị
lạc tiếng hoặc mất tiếng, mau mệt. Dây
đàn chùng th́ không thành tiếng, người tụng
cũng như người nghe dễ chán nản và hôn
trầm. Cho nên tụng kinh là phải giữ cho tiếng
vừa phải, không to quá, không nhỏ quá, không cao mà cũng
không thấp, không nhanh, không chậm, được như
vậy mới đúng là:”Hải hội tất dao văn”
tức là khắp chốn đạo tràng ai cũng nghe và
khi nghe ai cũng sanh ḷng ưa thích.
Khi
tụng kinh , người tụng cần phải hiểu
nghĩa, phải suy luận nghĩa kinh, phải biết
ngắt câu, ngắt đoạn, tụng có mạch lạc,
không được mang chũ của câu nầy nhập
sang câu khác, hoặc tụng nhảy hàng, bỏ trang,
hoặc thấy dài quá lại bỏ bớt.v.v... Đúng phép
tụng kinh là “khẩu tụng tâm suy” tức miệng
tụng trí phải suy nghĩ lời kinh, hiểu thấu
đáo nghĩa kinh để đạt được “tâm
khẩu tương ưng” tức là tâm cùng lời ứng
hợp với nhau.
Khi
ngồi, đứng, quỳ để tụng kinh
đều phải tuyệt đối trang nghiêm, không quạt tay, không nói chuyện,
không nh́n qua nh́n lại, không ăn trầu, không nhai kẹo
cao su hay nhổ nước bọt.v.v...nếu cảm
thấy có “trở duyên” như ho quá, chảy nước
miếng, hoặc khô cổ th́ phải nghỉ không nên quá
cố gắng, gượng gạo mà mất sự tôn
nghiêm, trở nên thất kính.
b/
Cách đánh chuông mơ: Chuông mơ là hai loại pháp bảo
để trợ duyên cho việc tụng kinh. Đánh chuông
để điểm câu, để bộc lộ sự
hiểu biết mạch lạc của bài kinh ḿnh đang
tụng. Đánh mơ là để giữ nhịp tụng cho
đều, bộc lộ âm thanh ḥa điệu và tính t́nh
của người tụng.
Cho
nên chuông là biểu hiện đại quan vắng lặng,
trí lự của người tụng nương theo, mơ là
biểu hiện rung động của cảnh giới tâm
thức của người tụng ḥa theo.
Người
đánh chuông phải biết chọn chỗ có âm thanh siêu
thoát, trong quả chuông có chỗ tiếng thô, tiếng thanh,
tiếng gắt, tiếng trầm...phải lựa chỗ
có tiếng hay nhất để đánh, và khi đánh
phải tế nhận, nương tay, đừng mạnh
quá và cũng đừng nhẹ quá, mạnh quá th́ tiếng
gắt chói tai, nhẹ quá th́ không thành tiếng.
Người
đánh mơ là phải t́m huyệt , trong cái mơ có chỗ kêu
nhất và ấm nhất chỗ đó gọi là huyệt,
khác với những chỗ khác kêu tiếng gỗ. Nếu
là mơ ở chùa thường có một chỗ hơi lơm
xuống và láng bóng, chính chỗ nầy là huyệt v́ quư
thầy đă t́m thấy và đánh hoài nên đă bị ṃn và
lơm xuống. Đánh mơ phảỉ đúng với nhịp
tụng kinh, không nên đánh quá mạnh mà cũng
đừng quá nhẹ. Tưởng cũng nên lưu ư khi
cầm dùi mơ, phải cầm bằng năm ngón tay, nhẹ
nhàng không quá chặt, cùi chỏ kẹp sát nách, không thụt
lùi hoặc tới quá mà phải ngang với lưng, khi
đánh chỉ bàn tay cử động qua cườm tay
chứ không được cử động cả cánh
tay, đánh như vậy th́ tiếng mơ được thanh
tao mà thoát tiếng tức là không bị sức cả cánh tay
dằn hảm quá mạnh làm lạc mất tiếng
của mơ.
Tụng
kinh là yếu tố tiến tới hiểu đạo
nhưng cách đánh chuông mơ lại chính là yếu tố quan
trọng trợ duyên và biểu lộ tâm t́nh của
người tụng kinh. Một người đứng
ngoài nghe tụng kinh có thể biết được tánh
t́nh của người đang tụng vui vẽ hay u
sầu, khi ta nghe tiếng mơ không đều, khi gắt
gỏng, khi dồn dập, khi rời rạc; điều
đó chứng tỏ rằng người tụng có
điều ǵ bực tức, chán năn. Có tiếng mơ nghe vui
vẽ, có tiếng mơ nghe buồn thảm, có tiếng mơ nghe
như thúc dục, cũng có tiếng mơ nghe như quyện
lấy tâm hồn; có một âm điệu lâng lâng giải
thoát.
Tóm
lại, tụng kinh, đánh chuông mơ là cả một
nghệ thuật, hết sức nhịp nhàng như hơi
thở điều ḥa của một thân thể và tâm
hồn không bệnh hoạn, khai chuông mơ đúng cách,
chuyển chuông mơ đúng phép, dứt chuông mơ đúng nhịp
là biểu thị tâm cảnh và thức quan ḥa hợp
với nhau, như vậy mới gây được phúc
duyên và đem lại sự an lạc cho chính ḿnh và cho
mọi người, khắp cùng pháp giới nghe kinh mà
được giải thoát.
III/
Tŕ kinh: Trong việc tụng kinh có một điều
gọi là “tŕ tụng” nghĩa là chuyên tâm chỉ tụng
một thứ kinh nào mà tụng thật đúng thời
khóa.
Tỷ
như có vị chỉ chuyên tŕ chú Lăng Nghiêm, có vị
chuyên tŕ kinh A Di Đà, kinh Phổ Môn, kinh Dược Sư hay
Kim Cương.v.v... đó là tùy theo căn hạnh của
ḿnh có duyên với kinh nào th́ nên chuyên tŕ kinh ấy, mà nếu
ta chuyên tŕ được th́
“tŕ tụng” kinh nào cũng đều công đức
như nhau.
Phải
có ư niệm chân xác là: nếu tụng kinh mà chỉ cốt
cho mọi người biết rằng ta đây cũng là
tín đồ Phật giáo, ta
đây cũng là người tu,ta đây cũng biết
tụng kinh, niệm Phật,, mà đối với cách
cư xử, hành động thường ngày không theo
được một ly một tư nào so với đức
hạnh của người cư sĩ th́ sự tụng
kinh ấy hoàn toàn coi như không có công đức ǵ vậy.
Cho
nên người cư sĩ đối trước hoàn
cảnh gia đ́nh phải nên tùy duyên, tùy phương
tiện mà tụng niệm, không cần phải bầy
biện tụng kinh thật dài hàng năm bảy ngày như
Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Lương Hoàng mà chỉ cần tụng
một biến kinh Bát Nhă, niệm Phật lấy một
tràng, để hết tâm trí vào việc tụng niệm
mỗi ngày chừng nửa giờ hay mười lăm
phút cũng được khá nhiều công đức.
C̣n
như muốn biết cần tụng kinh nào cho đúng
với hoàn cảnh th́ thiết tưởng cứ theo
phần ư nghĩa của kinh mà thực dụng tức là
gây được công đức vậy.
Tóm
lại, người cư sĩ phải nên tụng
niệm cho thật thành thuộc, và nên coi việc tụng
kinh niệm Phật là một món ăn cần thiết cho
ḿnh, bởi chư Phật đă dạy: “Phải tự
thắp đuốc mà đi”.Ta thỉnh chư Tăng
về tụng niệm đấy là trượng vào tha
duyên, tha lực. Tu hành cũng như người ta ăn
cơm, chư Tăng cũng như người chỉ
dạy cho ḿnh biết cách cầm đũa, biết cách
gấp món ăn. ḿnh có ăn mới no, cũng như chính
chư Tăng, vị nào có tu mới có chứng. V́ vậy
mà Cư sĩ phải lo việc tự tu, tự chứng
mới là điều kiện thiết yếu tạo
lập “tư lương” cho đời ḿnh vậy.
IV/
Th́ giờ tụng kinh: Người Cư sĩ
thường phải lo toan về sự sinh sống hàng
ngày cho gia đ́nh nên không thể nhất thiết: Lễ
Phật tụng kinh, niệm Phật cả ngày như
chư Tăng được. Dù người rỗi răi
tới đâu cũng c̣n bị hoàn cảnh chi phối. Hoàn
cảnh đây là chỉ vào nơi ḿnh cư ngụ, nếu
là nhà rộng răi theo kiểu biệt thự th́ c̣n có vợ,
có con ràng buộc không thể mỗi lúc làm xúc duyên cho gia
đ́nh; nếu lại ở vào cảnh phố
phường đông đúc, nhà cửa chật hẹp th́
không những xúc duyên đối với vợ con mà c̣n làm
xúc duyên đối với cảm xóm giềng nữa.
Do
vậy, người Cư sĩ cần phải chia
định thời giờ sao cho thuận tiện, chọn
lúc nào rảnh rỗi nhất, vắng lặng nhất mà
không làm phiền ai, đấy là lúc thực hiện
tụng kinh.
Thường
thường ta phải thực hiện việc tụng
kinh vào buổi sáng, khoảng 6 giờ, v́ khi ấy mọi
người đều yên lặng mọi sự mọi vật
đều chưa dao động; đấy chính là lúc
tụng kinh tốt nhất.
Tụng kinh chọn lúc
sáng ngày,
Dương kia chưa
động, âm nầy chưa tan.
Ḷng c̣n khoan chưa hề
ẩm thực,
Khí huyết điều,
thanh, trọc ḥa quân,
An nhiên lắng mọi
cảnh trần,
Tụng kinh đúng lúc, thiện nhân vê tṛn.
Next