CHẨN TẾ và
BẠT ĐỘ
CHẨN
TẾ
Y nghiă của việc cúng thí thực cô hồn:
Nghĩa của hai chữ thí thực là
bố thí thức ăn, về quan niệm ăn của
Phật Giáo như sau:
a. Đoạn thực:
thức ăn cứng, có thể chia thành phần như
cơm, cháo, rau, canh, thịt, cá v.v. & các thức vật
có hương vị làm xúc cảm tâm thức.
Tóm lại là những thức ăn thông thường
mà các chúng sanh trong cỏi Trời, Người và súc
vật thường ăn, ăn bằng miệng và tiêu hóa
được.
b. Xúc thực:
Ăn với thức quan hay biết mùi vị, tức là cách
ăn của Quỷ, Thần thọ hưỡng hương
vị mà thôi.
c. Tư thực:
ăn với sự kiện thần giao tư tưởng,
là phép ăn của bậc Thiên trên cỏi sắc
giới, ăn với phương thức thuyền
duyệt tức là không chủ về vật phẩm ăn
mà chỉ thọ hưỡng hơi hương, luôn luôn
xem việc ăn là đạo vị, thanh tịnh.
d. Thức thực:
ăn qua sự giao cảm của thức thứ 8, phép
ăn nầy bậc Thánh, Phàm có khác nhau, bậc Thánh hưỡng
thụ một cách hồn nhiên không phân biệt, c̣n
bậc phàm phân biệt là ngon, dở; do chỗ phân
biệt mà có tham muốn rồi khởi lên tư tưởng
tham ăn đến bị vào ṿng sinh tử, luân hồi.
V́ vậy mà khi ḿnh
ăn th́ bậc Thánh cũng thọ hưỡng cho đến
các loài ngạ quỷ, súc sanh đều thọ dụng.
Do đó mà các bậc tu hành, khi ăn trước
hết phải cúng dường lên Phật, lên Tổ
rồi làm phép Thí thực cho khắp thập loại chúng
sanh, cô hồn, hai chữ cô hồn là nói chung tất
cả những hương hồn bơ vơ, cô độc,
không nơi nương tựa, không nơi thờ cúng, không
ai ghi nhớ. . . Nhưng theo kinh sách th́ gọi là Thí
Thực Ngạ quỷ tức là ban phát thức ăn cho các
loài quỷ đói, do đó những hương hồn bơ
vơ, không nơi nương tựa cũng trở thành
ngạ quỷ. Vậy thí
thực cô hồn cũng là Thí thực Ngạ quỷ.
Cúng thí thực cô hồn là một khoa
nghi cứu độ cho các oan hồn uổng tử, không
nơi nương tựa đă có tự ngàn xưa. Phát
xuất từ hồi Phật c̣n tại thế. Trong kinh
Phật thuyết Diệm Khẩu Ngạ quỷ Đà la ni có
ghi lại: Một hôm ngài A Nan đang tịnh tu, có một
con quỷ mặt mày quái dị đến nói với ngài
trong ba ngày nữa ngài sẽ chết. Ngài đem chuyện
ấy bạch lại với đức Phật. Phật
dạy khắp trong ba cơi đều có các loài ngạ
quỷ cần cứu độ. Phật c̣n dạy cho ngài
A Nan những chú nguyện cần thiết và bảo
lấy gạo nấu cơm cháo để cúng thí. Từ
đó về sau mỗi lần thọ trai, các đệ
tử của Phật thường sớt lại phần
ăn để bố thí chúng sanh và ngạ quỷ. Măi
về sau, việc cúng thí được chư Tổ
sắp xếp theo thứ lớp: Cúng Phật, Cúng Tổ,
thí thực ngạ quỷ cô hồn trước khi chư
Tăng thọ trai. Tại chùa, cúng thí thực như là
một phần hành tŕ thiết yếu hằng ngày sau công
phu chiều. Ở Việt nam, ngày trước cứ
mỗi lần trong nhà có lễ: quan, hôn, tang , tế đều
có cúng thí thực. Đơn giản một mâm lễ
nhỏ, một nồi cháo trắng gọi là cúng cháo, hay
thông thường gọi là cúng Mông sơn thí thực.
Nguyện nhân đời nhà Tống, Cam lồ Pháp sư
lập một trai đàn cúng thí thực trên đỉnh Mông
sơn thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, phần
khoa nghi dựa theo kinh chú Phật thuyết và lời
cầu nguyện tóm tắc như sau:
1/ Tŕnh bày tất
cả do tâm tạo, qua kệ Hoa Nghiêm: Nhược nhơn
dục liễu tri, Tam thế nhất thiết Phật,
Ứng quán pháp giới tánh, Nhất thiết do tâm
tạo.
2/ Nguyện xa ĺa
cảnh ác thú bằng cách tập trung tư tưởng phá
tan mọi phiền năo, sám hối tội lỗi, giải
sạch oan khiên qua chú: Phá địa ngục chơn ngôn,
Phổ triệu thỉnh chơn ngôn, Giải oan kết chơn
ngôn.
3/ Cung thỉnh : Mười
phương Tam bảo, Thích Ca, Quán Âm, Địa Tạng, và
A Nan Đà giáng lâm tác chứng.
4/ Hướng dẫn chúng
san
h quy y Tam bảo: Quy y
Phật lưỡng túc tôn, Quy y Pháp ly dục tôn, Quy y Tăng
chúng trung tôn.
5/ Sám hối: Nhất
thiết Phật tử, Hữu t́nh, Cô hồn giai sám
hối. Nói chung cả người cúng lẫn kẻ
thọ (cô hồn) phải thành tâm sám hối mới có
lợi lạc. Kẻ cúng không bị đọa lạc, người
hưởng (cô hồn) mới thọ dụng được
pháp vị.
6/ Phát đại
nguyện: Chúng sanh thệ nguyện độ, Phiền năo
thệ nguyện đoạn, Pháp môn thệ nguyện
học, Phật đạo thệ nguyện thành. Chính người
có phát tâm mới có giao cảm giữa người
cứu độ và người cầu độ, mới
gặt hái được kết quả lợi lạc.
7/ Diệt tội:Thành tâm
sám hối, phát đại nguyện, hành giả tụng các
thần chú diệt tội mới có linh cảm: Diệt
định nghiệp chơn ngôn của ngài Địa
Tạng .
Diệt bất định
nghiệp chơn ngôn của ngài Quán Âm.
8/ Tuyên thuyết định
giới: thần chú khai yết hầu chơn ngôn và tam
muội da giới chơn ngôn. Để cho chúng sanh diệt
trừ chướng ngại, mở rộng yết hầu,
thọ hưởng pháp thực; thọ xong , giữ
giới để thoát khỏi phiền năo.
9/ Biến thức ăn
thành pháp vị: Biến thực chơn ngôn, Cam lồ
thủy chơn ngôn, Nhất tự thủy chơn ngôn,
Nhủ hải chơn ngôn; khiến cho chúng sanh thọ hưởng
được sung măn.
10/ Niệm Phật: Để
cho hành giả và chúng sanh tạo duyên lành gây chủng
tử Phật.
11/ Kết nguyện:
Thần chú gia tŕ tịnh pháp thực, tất cả
Phật tử, hữu t́nh, cô hồn đă no đủ, xă
hết tham dục mau thoát cảnh u đồ vào tịnh
độ. Tŕ chú:”vô giá thực chơn ngôn” phá tang
sự ngăn ngại thánh phàm, tăng tục, b́nh đẳng
thọ hưởng cam lồ vị.
12/ Hồi hướng:
Cầu cho tất cả chúng sanh an lành văng sanh cực
lạc.
Khoa này có ba điểm
cốt lơi: Tâm thành, kinh chú, thân khẩu y thanh tịnh.
Cách lập bàn cúng Thí
thực:
Thông thường là phải có 2 (hai) bàn:
một bàn cao và một thấp hơn (gọi là bàn thượng
và bàn hạ) :
_ Bàn thượng:
Tôn trí tượng Phật, hay tượng Bồ Tát,
nhưng thông thường là tượng ngài Tiêu Diện
Đại Sĩ ( hóa thân của ngài Quán Thế Âm), lư hương,
đèn, hoa, quả, ly nước trong.
_ Bàn hạ (bàn đồ ăn) cũng trang trí:
lư hương, đèn, bông, trái, ly nước trong, ly
đề pha nước trà, một b́nh trà cúng. Phía sau dăy đồ thờ là một mâm cơm
cúng gồm đủ đồ ăn như cúng linh, ngoài
ra c̣n có một nồi cháo thật lơng ( cháo thánh),
một dĩa lớn hoặc một khay gồm: muối
hột, gạo, đường thẻ. . . đây là
thành phần chính yếu, nếu có thêm các thứ khác như
: bắp, khoai lang, củ ḿ, bánh tráng, trái cây v.v. . . càng
nhiều càng tốt.
*Nếu có điều
kiện và khả năng th́ lập thêm một bàn nữa
phía trước bàn đồ ăn.
Bàn nầy cao hơn bàn đồ ăn, nhưng
thấp hơn bàn Tiêu Diện một chút.
Trên bàn nầy tôn trí tượng ngài Địa
Tạng, lư hương, đèn, bông, trái như các bàn
khác.
Tóm lại, hai bàn thượng
là bàn Phật, Bồ Tát nên trang trí đơn giản,
trang nghiêm và không để đồ ăn.
Lưu ư:
a) Bàn thí thực luôn luôn
lập ngoài nhà, trước cửa chính, nh́n vào bàn
Phật trong nhà, tín chủ lạy hướng từ trong
nhà lạy ra, cách thức lạy như lạy linh.
Thí thực được cúng tại tư gia sau khi
có lễ cầu an, cầu siêu hoàn măn.
b) Bàn thí thực Cô
hồn không được lập gần cây thạch
lựu, hoặc cây đào v́ Quỷ sợ loại cây
nầy.
c) Trước bàn thí
thực phải dành một khoảng trống; ít nhất là
bằng một chiếc chiếu để quí vị
Quỷ Thần, Cô hồn có chỗ lễ bái chư
Phật và thọ thực không bị chướng
ngại. Khi hương đă thắp lên rồi th́
không nên đi qua, lại trong vùng nầy, mà chỉ nên
đi hai bên. Chủ
lễ Cư sĩ nên đứng sau chiếu dành cho các
vị Quỷ Thần và Cô hồn.
Nếu trai đàn chẫn tế, lược khoa th́
khoảng trống nầy ở trước bàn Giác Hoa, và
nên dùng loại dải vải vàng để làm ranh
giới khu vực nầy.
2- Thực phẩm cúng:
Nếu có cúng rau; nên cúng rau chín như rau luộc
hoặc nấu canh, không được cúng rau sống.
Cháo thánh phải nấu thật lỏng (nhiều nước,
nhưng ít gạo). Không nên
lấy cơm rồi cho nước vào để làm cháo.
3- Ban Nghi lễ và người tham dự:
a) Trong suốt thời gian cung hành nghi lễ,
tất cả mọi người không được ăn
hay uống bất cứ món ǵ.
Ngoại trừ thời gian nghỉ ngơi đă
được qui định trong nghi thức.
b) Phải hành lễ theo đúng thứ tự
mà nghi thức đă qui định, không được
đảo lộn như : thỉnh Cô hồn trước
rồi thỉnh chư Phật và Bồ Tát sau.
Tuy nhiên được phép thay đổi các bài
thỉnh, nhưng nội dung vẫn không khác.
c) Vị phụ trách hương đăng
phải cắm hương sau mỗi lần thỉnh vào
đúng lư hương của chư Bồ Tát hay Cô
hồn như lời cung thỉnh.
d) Nếu có Điệp văn nên tuyên đọc
sau diên trà thứ nh́.
Trên đây là những
điều rất căn bản, tầm thường.
Nhưng chính v́ sự tầm thường đó mà
chúng ta hay phạm phải và xem nhẹ; trong khi chính ḿnh
đang làm công việc đó và là người chịu hoàn
toàn trách nhiệm về mọi hậu quả.
Do đó chúng tôi viết lên những ḍng chữ
nầy với một ước nguyện duy nhất là:
mong quí vị Cư sĩ đang có trách nhiệm nghi
lễ để duy tŕ mạch đạo và bảo
tồn một phần truyền thống văn hóa của
dân tộc hăy lưu tâm, hầu ứng phú hửu hiệu
trong mọi hoàn cảnh.
Cao hơn cả là chẩn tế cô hồn,
chú trọng đến siêu độ cho các âm linh oan
hồn uổng tử, bất đắc kỳ tử,
bất định nghiệp, chiến sĩ trận vong không
nơi nương tựa. Không những thí thực mà c̣n
một ḷng mong cứu độ cho chư vị thoát
khỏi cảnh khổ nghiệp ác của cơi ngạ
quỷ cô hồn. Một khoa nghi nhiều lợi lạc
nhất nhưng rất khó thực hiện, v́ phải
đ̣i hỏi tinh thông cả hai mặt, kinh điển và
mật điển. Mật điển của khoa Du Già là
Tam Mật đồng tu: Thân kiết ấn, Khẩu tŕ chú,
Ư quán tưởng. Ấn là Pháp thân, Chú là Báo thân, Kinh văn
là Hóa thân. Thành tâm cầu nguyện thập phương
Tam bảo gia hộ, tam nghiệp thanh tịnh, phát khởi
tam tâm: từ bi, hỷ xă, b́nh đẳng độ thoát
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh tam đồ
khổ năo, chúng sanh đồng sanh an dưỡng. Có
thể nói đây là một pháp hành tŕ mà âm cảnh và dương
gian đồng lợi lạc.
Phần nghi lễ thường do một số
thầy thuần thục khoa nghi Du già ngồi đàn
Cung trần pháp đàn
chẩn tế :
Đàn tràng tiếng Phạn là Mạn đà la, có nghĩa
là một chỗ ngồi, một cuộc đất,
lại c̣n có nghĩa là Luân viên cụ túc. Tức là
lập một cái đàn bằng đất cao, vuông
hoặc tṛn đặt chư tôn lên đó mà cúng tế.
Trên đàn tập trung đầy đủ chư tôn, chư
đức, tạo thành một đại Pháp môn, một
bánh xe tṛn trặn, lại c̣n có nghĩa nơi tụ
hội của thánh hiền, muôn đức đều quay
về. Vậy cung trần pháp đàn chẩn tế là bày
biện, sắp xếp vị trí hành lễ chẩn tế
tṛn đầy trang nghiêm theo khoa nghi. Thứ tự từ
trong ra như sau:
1/ Bàn Phật: Cung
thỉnh tượng Phật Thích Ca.
2/ Bàn kinh: Kinh sách,
chuông mơ, pháp khí.
3/ Tham lễ Giác Hoàng:
Chủ sám vào bạch Phật, đội nón Tỳ Lư
Nón Tỳ Lư: tỳ Lư là tên gọi tắc
của Tỳ Lư Giá Na tên chung của Pháp thân Phật
tức là đức Đại Nhật Như Lai của
Mật giáo. Vị Tăng thủ tọa đội nón
Tỳ Lư đứng làm đức Phật Tỳ Lư
Giá Na (Đại Nhật Như Lai) tụng kinh thí thực
trong lễ Vu Lan. Do đó nón này các gia tŕ sư đội
trong các lễ trai đàn chẩn tế, bạt độ
và tang lễ của Phật giáo Việt nam
4/ Màn Sư tử toà:
Sư tử tọa là chỗ ngồi của Phật.
Phật là bậc oai
đức hơn tất cả chúng sanh. Cũng như sư
tử dơng mănh hơn tất cả các thú. Chớ
chẳng phải là Phật ngồi trên ḿnh con sư
tử. Cho nên dù Phật ngồi bất cứ ở đâu,
dù trên ghế, ḥn đá, gốc cây hay mặt đất...
th́ những chỗ đó đều gọi là sư
tử ṭa. Vậy bức màn sư tử ṭa là bức màn
có h́nh con sư tử được vẽ rất oai nghiêm,
dơng mănh treo sau lưng vị gia tŕ sư, tượng trưng
chỗ ngồi của Phật.
5/ Bảo tọa:
Chỗ ngồi của gia tŕ sư, khi ngồi vào đây là
đại diện chư Phật v́ chúng sanh, đặc
biệt là cô hồn mà tuyên dương chánh pháp. Theo khoa
nghi trước khi vị chủ sám vào chỗ ngồi
phải cung hành một nghi thức mật pháp rất nghiêm
trang. Sau khi cung thỉnh ngũ phương Phật xong,
vị chủ sám đến trước bàn Giác Hoa. Vị
tả kim đài 1 đứng vào vị trí ở bàn kim
đài, hai tay nâng thủ lư cung thỉnh sám chủ
đăng bảo tọa để thuyết giới cho cô
hồn. Vị chủ sám đáp lời và xin phép chư
Phật cho đăng bảo tọa. Vị tả kim đài
1 ra lệnh cử chuông trống Bát Nhă để cung nghênh
bằng động tác vổ thủ xích, chuông trống Bát
Nhă cử hành, sám chủ quay về trái thượng
bảo tọa. Kinh sư vào vị trí bàn kim đài.
6/ Màn song khai: Trước
bảo tọa là bức màn phân làm đôi, được
đóng lại hoặc mở ra tùy theo quy định trong
khoa nghi.
7/ Bàn kim đài:
Kinh sư ngồi hai bên tả hữu, mỗi bên ba hay
bốn người. Thứ tự tính từ trong ra ngoài. Có
đội nón Tỳ Lư hay không và xử dụng pháp khí
(tan hay đẩu) tùy theo địa phương.
8/ Bàn giác hoa: Giác
Hoa Định Tự Tại Vương Như lai, một
đức Phật ở cơi Ta bà, hồi đời quá
khứ cách nay không biết bao nhiêu kiếp. Ngài có
tuổi thọ bốn trăm ngàn vạn ức a tăng
kỳ kiếp. Về đời tượng pháp của
đức Phật ấy có mọt cô gái Bà la môn, nhân
mẹ vừa khuất, đến chiêm lễ tượng
Phật Giác Hoa Định Tữ Tại Vương tại chùa
cầu cho biết hồn mẹ ở chốn nào, ngài
liền khiến thần thức của cô gaí ấy đến
cơi địa ngục. Nơi đây quỷ vương cho
biết nhờ phước đức cúng Phật và
bố thí của thánh nữ, hồn bà được thoát
cảnh địa ngục mà lên cảnh tiên. Cô gái
ấy tức là tiền thân của Địa Tạng Bồ
Tát.
Bên ngoài có các bàn ngũ
phương:
Ngũ phương
Phật là một hệ thống phối trí chư
Phật, chư Bồ Tát, chư Hộ
pháp hết sức thâm diệu của Phật giáo
Mật tông; và là sự phối hợp giữa ngũ phương,
ngũ trí, ngũ Phật, ngũ bộ và ngũ hành trong
Thai tạng Mạn đà la và Kim Cang Giới Mạn đà
la. Do đó đàn tràng ngũ phương cũng
được lập hai cách khác nhau:
a/ Lập theo trung khoa Du
Già:
1/ Trung ương:
Tỳ Lô Giá Na (Đại
Nhật Như Lai) Hiển thân sắc màu vàng, đối
diện bàn Giác Hoa.
2/ Phương Đông: A Súc
Phật (Bất Động Như Lai) Hiển sắc màu xanh,
trở mặt vào bàn trung ương.
3/ Phương Tây:
Phật A Di Đà. Hiển sắc màu trắng, trở mặt
vào bàn trung ương.
4/ Phươmg Nam:
Bảo sanh Phật. Hiển sắc màu đỏ, trở
mặt vào bàn trung ương.
5/ Phương Bắc:
Bất Không Thành Tựu Phật. Hiển sắc màu đen,
trở mặt vào bàn trung ương.
b/ Lập theo Kim Cang
Giới Mạn Đà La:
1/ Trung ương:Tỳ
Lô Giá Na Phật- Phật bộ.
Pháp giới thể tánh
trí, thân sắc màu trắng.
2/ Phương Đông: A Súc
Phật- Kim Cang bộ.
Đại viên cảnh trí,
thân sắc màu xanh hoặc màu lam.
3/ Phương Tây: A Di
Đà Phật- Liên Hoa bộ. Diệu quan sát trí, thân sắc
màu đỏ.
4/ Phương Nam:
Bảo Sanh Phật- Bảo bộ.
B́nh đẳng tánh trí,
thân sắc màu vàng.
5/ Phương Bắc:
Bất Không Thành Tựu Phật- Yết Ma bộ.Thành
sở tác trí, thân sắc màu lục
Sở dĩ có sự khác biệt về thân sắc
của ngũ phương Phật là do nhiều nguyên nhân
như: Truyền bá đến các nước Phật giáo
bằng nhiều đường khác nhau, ảnh hưởng
truyền thống văn hóa của mỗi quốc gia dân
tộc, tiến tŕnh kết cấu và phát triễn Mạn
Đà La.v.v...Ngoài ra ấn tướng của chư Phật
trong ngũ phương cũng có khác nhau theo sự phát
triễn không ngừng của triết học Mạn Đà
La. Nhưng đây chỉ là những dị biệt nhỏ
về h́nh thức, c̣n nội dung và mục đích tu
chứng hoàn toàn không có ǵ thay đổi
Phía sau Ngũ phương Phật là:
1/ Bàn Địa Tạng
(đồng hướng và cao như bàn Trung ương)
2/ Bàn hộc thực
(thấp hơn, để đồ cúng)
3/ Bàn Tiêu Diện
(cao hơn bàn Địa Tạng)
Ngũ phương, Địa Tạng và Tiêu Diện là
bảy vị Phật độ cô hồn nhập đàn
tràng thọ hưởng pháp lạc. Thường tại
chùa hay tư gia có thờ Phật, chỉ lập đàn tràng
từ màn Sư tử ṭa đến bàn Tiêu Diện trên
rạp tiền chế.
Nếu không đủ sứ chẩn tế th́ cúng lược
khoa: phần kinh chú nhẹ hơn, phần đàn tràng
khỏi lập ngũ phương.
BẠT ĐỘ
Giải
oan Bạt độ có nghĩa là cỡi bỏ oan khiên trói
buộc, nhổ sạch phiền năo đưa hương
linh qua sông mê về bến giác.Lễ giải oan Bạt
độ mang một tính cách vô cùng quan trọng là ta luôn
nghĩ đến những oanhồn uổng tử,
những bất đắc kỳ tử trong thân thuộc
gịng họ đang chơi vơi nơi cảnh ngạ
quỷ cô hồn chưa được siêu thoát mong
được hoá giải cứu độ.
Trong
hành lễ, Sám chủ xử dụng ấn chú và cây Tích
trượng trong h́nh thức giải oan:( Triệu
thỉnh, Phá địa ngục, Giải tội khiên, Sám
hối, Quy y ).
Cây
Tích trượng c̣n có tên là Thanh trượng, Minh
trượng, Trí trượng hay Đức trượng.
Hiển
giáo dùng làm gậy khi đi khất thực và đuổi
trùng thú. Theo Tích trượng kinh: -Tích trượng của
Phật Ca Diếp có hai gọng và 12 ṿng tượng
trưng cho hai đế (chơn đế và tục
đế) và thập nhị nhân duyên.
-Tích
trượng của Phật Thích Ca có 4 gọng và 12 ṿng
tượng trưng cho tứ đế và thập nhị
nhân duyên
Mật
giáo th́ cho đó là cây Thập Pháp Giới do 5 đại
tạo thành, là h́nh Tam Muội Da của đức Địa
Tạng có 6 ṿng tượng trưng lục độ, trên đầu
gậy có 5 bánh xe tượng trưng Bảo tháp. H́nh
thức dẫn độ hương linh qua cầu từ
bến mê về bờ giác, bẽ gảy chiếc cầu
giữa đôi đường mê giác, ân cần nhắc
nhở chư hương linh đoạn tuyệt với
quá khứ xấu xa, chuyên tâm tu hành thánh đạo:”
Đoạn nhất thiết ác, tu nhất thiết thiện,
độ nhất thiết chúng sanh”.
Hơn
nữa, trong kinh Pháp Cú, Phật cũng đă dạy:”Tâm
dẫn đầu, tâm làm chủ các trạng thái tâm lư và hành
vi”.Nếu con người hành động hay nói năng
với một tâm ác xấu th́ khổ năo sẽ lê
bước theo sau người ấy như bánh xe lần
theo dấu chân của con ḅ kéo xe. Ngược lại
nếu con người hành động bằng tâm thiện
lành th́ hạnh phúc sẽ đuổi theo người
ấy như bóng không rời h́nh”
Với
tâm thiện lành từ đây chắc hẳn âm linh thoát
khỏi cảnh khổ phiêu bồng, chúng ta cũng không c̣n
dây dưa với nghiệp cảm ấy nữa.
Ngoài ra
chúng ta c̣n có những cách bạt độ khác thuần túy
như: quy y linh, vớt vong, thuyết linh.v.v...
Next