Một số sử liệu liên quan tới
biên giới Việt Hoa
Từ Mai
Không người Việt
Nam nào không bàng hoàng, đau xót trước sự việc đất nước mất ít
nhất trên 700 cây số vuông miền biên giới và trên 10 ngàn cây số
vuông hải phận. Quan trọng hơn nữa, những vùng đất và biển bị mất
có tầm chiến lược sinh tử, có ý nghĩa lịch sử thiêng liêng đối với
dân tộc, và với nhiều tài nguyên phong phú. Có cơ duyên tìm được
một số sử liệu đáng lưu ý liên quan tới biên giới Việt Hoa trong
khoảng hơn 200 năm qua, người viết những dòng này xin được trình bày
những tài liệu ấy tới tất cả những ai quan tâm đến quyền lợi cùng
tương lai đất nước.
Chiếc cổng “Trấn-Nam quan” của Trung Hoa
Trong Vân đài
loại ngữ, được sáng tác khoảng năm 1777, nhà bác học Lê Quý
Đôn (1726-1784) ghi lại bài ký “Trùng tu Trấn-Nam quan” của Tuần phủ
Quảng tây Lý Công Phất đời Ung chính nhà Thanh. Theo bài ký này, việc
tu bổ Nam quan là việc của nhiều quan chức nhà Thanh đã chuẩn bị gỗ,
đá từ trước, nhưng người thực sự dùng tiền được thưởng (1800 lạng
bạc) giúp cho việc tu bổ tiến hành là Án sát Quảng tây Cam Nhữ Lai.
Bài ký cho biết: “Cửa quan này từ lâu không được sửøa sang, ngày
càng đổ nát,” và chép lại câu nói của viên Án sát họ Cam: “Các
quan thú trước nghèo cho nên không sửa sang nổi. Nay đã có món tiền
thưởng này, một mình ta xin gánh việc ấy.” Việc tu bổ bắt đầu từ
tháng 2 năm Ung chính thứ ba (Ất Tỵ, 1725), đến mùa Đông năm ấy mới
hoàn tất. Bài ký cũng cho biết: “Cửa quan này tường cao, lầu kín; nơi
khám xét, nơi đóng quân, nơi canh phòng đều đầy đủ, chỉnh tề.” Cam
Nhữ Lai người tỉnh Giang tây, thi đậu Tiến sĩ, làm quan được tiếng
thanh liêm; trước đã làm Tri phủ Thái bình (tỉnh Quảng tây, giáp biên
giới Việt Nam) trước khi thăng Phó sứ đạo Tả giang rồi Án sát Quảng
tây. Các quan chức nhà Thanh cùng tham gia vào việc tu bổ Nam quan có
Tổng đốc Lưỡng Quảng Khổng Dục Tuân, Đề đốc Quảng tây Hàn Lượng
Phụ, và Tổng trấn đạo Tả giang Lương Vĩnh Hi (1).
Theo nhà bác học
Lê Quý Đôn, việc dùng tiền bạc, gỗ đá, và bỏ ra gần một năm để
tu bổ Trấn-Nam quan là việc của nhiều quan chức Trung Hoa đời Thanh,
đáng kể nhất là Án sát Cam Nhữ Lai. Ta có thể tin: chiếc cổng này
của Trung Hoa. Chính vì của họ nên họ đã đặt tên là “cổng để trấn
giữ phương Nam.” Người đổi tên cho Nam quan gần đây (“cổng để hòa mục
với phương Nam”) cũng là một người Trung hoa khác: Mao Trạch Đông.
II.
Cho tới tháng 3-1886, biên giới Việt
Hoa ở đúng vị trí của Nam quan
Tuy Trấn-Nam quan
của Trung Hoa, cho tới tháng 3-1886, khi các Ủy viên của chính phủ
Pháp tới gặp đại diện của Trung Hoa để phân định biên giới theo sự
quy định của Hiệp ước Thiên tân (1885), chiếc cổng này vẫn được coi là
mốc biên giới giữa hai nước Hoa Việt.
Dưới đây là bản chụp lại
một bản đồ chính thức của triều đình nhà Thanh về miền biên giới
Quảng tây – Lạng sơn, được in trong Đại Thanh nhất thống chí (Da
Qing yi tong zhi). Đây là một bộ sách công phu và đồ sộ, hoàn tất
trong đời Càn long nhà Thanh (trị vì 1736-1795), và được in theo lệnh
của chính vua Càn long năm Giáp Thân, 1764. Đại Thanh nhất thống chí
gồm 500 quyển, với bản đồ từng phủ, huyện của Trung Hoa. Trong
bản đồ phủ Thái bình, tỉnh Quảng tây (giáp với Việt Nam), ba quan ải
được đề cập tới là Trấn-Nam quan, Thủy khẩu quan, và Bình nhi ải.
Theo bộ địa dư chính thức của nhà Thanh này, biên giới Hoa Việt chạy
sát ngay trước Trấn-Nam quan cũng như Thủy khẩu quan, và cắt ngang Bình
nhi ải với phần của Trung hoa nhiều hơn (xin xem bản đồ 1). Trong bộ
sách này, bản đồ phủ Thái bình được in ở quyển 365, các tờ 1 và 2.
Đại Thanh nhất
thống chí vẫn
được tàng trữ ở thư viện Bắc kinh cùng một số thư viện quan trọng
của Trung Hoa. Tại Hoa Kỳ, bên cạnh thư viện Quốc hội, bộ sách cũng
được giữ tại thư viện một số Đại học lớn: UC Berkeley, UCLA, Univ. of
Colorado (Boulder), Univ. of Florida (Gainsville), Univ. of Michigan (Ann
Arbor), Univ. of Pittsburg (Pennsylvania)...
Bản đồ kèm theo
bài này được rút ra từ cuốn La Frontière Sino-Annamite (Biên
giới Hoa-Việt) của Gabriel Devéria, do nhà Ernest Leroux xuất bản tại
Paris năm 1886 (năm bắt đầu cắm mốc biên giới). Bản đồ này chỉ khác
bản đồ nguyên thủy của nhà Thanh ở chỗ các địa danh đã được chuyển
từ chữ Hán ra phiên âm theo mẫu tự La tinh, dùng hệ thống phiên âm của
người Pháp cuối thế kỷ 19. Chẳng hạn: Trấn Nam quan = Tchen Nam kouan,
Thủy khẩu quan = Chouei keou kouan, Bình nhi ải = Ping eurl ai.
Chính vì Trấn Nam
quan được coi là ở ngay tại biên giới hai nước (từ cổng trở về bắc:
Trung Hoa, về nam: Việt Nam) nên Đại Nam nhất thống chí của Quốc
sử quán triều Nguyễn mới chép: “Phía bắc cửa có Chiêu đức đài,
đằng sau đài có Đình tham đường của nước Thanh, phía nam có Ngưỡng đức
đài của nước ta,” và nói rõ thêm về Ngưỡng đức đài: “bên tả bên
hữu đài có hai dãy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến cửa quan thì dùng
chỗ này làm nơi tạm nghỉ” (2). Hai giáo sư Trần Gia Phụng và Hà Mai
Phương đều đã dựa vào Đại Nam nhất thống chí (vừa kể) và Phương
đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu để nêu lên việc Đốc trấn
Lạng sơn Nguyễn Trọng Đang trùng tu Ngưỡng đức đài năm Giáp Thìn
(1784), nhằm năm Cảnh hưng 45 đời vua Lê Hiển tông. Xin góp thêm một
nhận xét: theo văn bia do chính vị Đốc trấn họ Nguyễn viết, việc
trùng tu này gần một năm mới xong (từ mùa Hạ năm Giáp Thìn đến mùa
Xuân năm Ất Tỵ, 1785). Trong gần một năm ấy, nhiều toán dân phu “do
bốn dịch trưởng trông nom công việc” đã tới đài “dùng gạch ngói” để
sửa và xây cho được “hoành tráng, cao rộng thêm.” Nếu Ngưỡng đức
đài, tại ngay phía nam của Nam quan, không thuộc địa giới nước ta thì
làm sao dân phu Lạng sơn có thể hàng ngày tới thực hiện những công
việc huyên náo trong một thời gian kéo dài như thế? Và nếu đài, một
công trình kiến trúc tại khu vực Nam quan “nằm sâu trong lãnh thổ
Trung Hoa” như tình trạng hiện nay, thì vị Đốc trấn Lạng sơn tốn nhân
công, vật dụng tu bổ để làm gì?
Sang triều Nguyễn,
Nam quan vẫn được coi là biên giới hai nước. Khi vâng lệnh vua Gia long
cầm đầu một sứ bộ sang Trung Hoa năm Quý Dậu, 1813, thi hào Nguyễn Du
đã ghi lại những nhận xét về cửa quan này như sau:
Việc cũ đời Lý, Trần xa
xôi, mờ mịt khó tìm
Suốt ba trăm năm thẳng tới
hiện nay
Hai nước chia đều nhau từ mặt
chiếc lũy lẻ loi
Một cửa quan oai
hùng trấn giữa muôn quả núi...
Nguyên văn trong Bắc
hành tạp lục:
Lý Trần cựu sự yểu nan tầm
Tam bách niên lai trực đáo
câm
Lưỡng quốc bình phân cô lũy
diện
Nhất quan hùng
trấn vạn sơn tâm... (3)
Câu “Hai nước chia
đều nhau từ mặt chiếc lũy lẻ loi” cho ta thấy: “mặt chiếc lũy lẻ loi
chính là nơi phân định biên giới hai nước.” Và đó là chuyện “từ ba
trăm năm thẳng tới hiện nay.” Vị thi hào Chánh sứ của Việt Nam đồng
ý hoàn toàn với Đại Thanh nhất thống chí của Trung Hoa. Từ đồn
canh biên giới của Việt Nam thời ấy, không hề và không thể có
những câu đau lòng: “Nam quan nằm sâu trong đất Trung Hoa, đứng đây
không nhìn thấy được” (4).
III.
Tháng 3-1886, chúng ta mất 100 thước đất ở Nam quan
Để thi hành Điều
III Hiệp ước Thiên tân, ký ngày 9 tháng 6 năm 1885 giữa đại diện
chính phủ Pháp là Jules Patenôtre với đại diện nhà Thanh là Li
Hong-Chang (Lý Hồng Chương), Teng Tcheng-Sieou (Tăng Thành Siêu [?]) và
Si Tchen, chính phủ Pháp cử một phái đoàn gồm 5 Ủy viên lấy từ 3 bộ
khác nhau (bộ Ngoại giao, bộ Chiến tranh, và bộ Hải quân) tới biên
giới HoaViệt gặp đại diện Trung Hoa để thực thi việc cắm mốc biên
giới. Phái đoàn do Tổng Lãnh sự Bourcier Saint-Chaffray thuộc Bộ Ngoại
giao cầm đầu. Trong phái đoàn có sự tham dự của Bác sĩ P. Neis, một
nhà thám hiểm và cũng là Bác sĩ của Hải quân. Bác sĩ Neis viết một
hồi ký, cung cấp nhiều chi tiết quan trọng về chuyến đi này, đăng nhiều
kỳ trên tạp chí Pháp Le Tour du Monde năm 1887 dưới nhan đề “Sur
les frontières du Tonkin.” Thiên hồi ký mới được Tiến sĩ Walter E. J.
Tips, một chuyên viên về Đông Nam Á dịch sang Anh ngữ, in thành sách
dưới nhan đề The Sino-Vietnamese Border Demarcation, 1885-1887. Sách
do White Lotus Press xuất bản tại Bangkok năm 1998, và đã được giữ
trong rất nhiều thư viện Đại học ở Hoa kỳ.
Phái đoàn Pháp
rời Marseilles cuối tháng 9-1885, tới Hà nội ngày 1 tháng 11, nhưng
mãi đến 12 tháng 1-1886 mới thực hiện được cuộc gặp gỡ đầu tiên
với phái đoàn Trung Hoa tại Đồng đăng. Phái đoàn Trung Hoa do chính
Teng Tcheng-Sieou, một trong những nhân vật ký Hiệp ước Thiên tân,
cầm đầu.
Theo bác sĩ Neis,
trong các cuộc gặp gỡ sơ bộ tại Đồng đăng các tháng 1 và 2-1886,
phái đoàn Trung Hoa đưa ra những đòi hỏi về lãnh thổ cực kỳ quá
đáng (“most exaggerated claims” trong bản Anh ngữ). Cuộc thảo luận bế
tắc, suýt đổ vỡ hai lần. Mặt khác, song song với những đòi hỏi ấy,
phái đoàn Trung Hoa tỏ ra rất hào phóng với phái đoàn Pháp trong
việc khoản đãi: những bữa tiệc thịnh soạn với vây, yến, hải sản,
rượu champagne với các nhãn hiệu nổi tiếng, nhiều quà tặng... Hai
phái đoàn đồng ý: ngày 20 tháng 3-1886 sẽ gặp nhau để thực hiện
việc cắm mốc ở Trấn Nam quan (theo bác sĩ Neis, Trung Hoa gọi là
“Tche-nan-quan” và người Việt gọi là “cua ai”) (5).
Cũng theo bác sĩ
Neis, hôm phái đoàn Pháp rời Đồng đăng lên Nam quan, trên các ngọn
đồi nhìn xuống Đồng đăng suốt cho tới đường đi Thất khê, quân đội
Trung Hoa xuất hiện khắp nơi, mang theo rất nhiều cờ và cắm xuống
nhiều chỗ, làm như những vùng đất ấy thuộc Trung Hoa. Để tới Nam
quan, phái đoàn Pháp phải đi xuyên qua các đơn vị quân đội ấy. Tới
Nam quan, Trưởng phái đoàn Pháp lên tiếng phản đối việc xâm phạm
lãnh thổ, yêu cầu quân Trung Hoa rút về bên kia biên giới. Thoạt
đầu, các viên chức Trung Hoa làm như không hiểu gì hết trước lời yêu
cầu của phái đoàn Pháp “acted as if they did not understand any of our
demands”). Tới khi phái đoàn Pháp cho biết sẽ chỉ bắt đầu cuộc thảo
luận sau khi quân đội Trung Hoa đã rút hết, các viên chức Trung Hoa
mới giải thích: quân đội ấy là do các vị quan võ “tự ý đưa sang” để
“đón tiếp phái đoàn Pháp một cách trọng thể” nhưng không báo cho họ
(các quan văn) được biết. Tuy nhiên, họ cũng ra lệnh cho các đơn vị
quân đội lui về bên kia biên giới để cuộc thương thảo được tiến
hành (6).
Phái đoàn Pháp
biết rằng Nam quan nằm ngay trên đường biên giới. Các tài liệu, bản
đồ họ có trong tay đều cho thấy như thế. Nhưng các đại diện Trung Hoa
cương quyết nhấn mạnh (“strongly insist”) rằng chiếc cổng và bức tường
ngăn không được coi là biên giới. Họ muốn có “ít nhất một ít thước
của khoảng đất hoang trước cổng” (“at least a few meters of fallow terrain
in front of it”). Sau khi đi bộ ra trước cổng quan sát, phái đoàn Pháp
đồng ý nhân nhượng: biên giới sẽ chạy theo một con suối dưới chân
đồi, trước chiếc cổng “khoảng 150 thước.” Đây là nhân nhượng đầu
tiên, cũng là một nhân nhượng khá rộng rãi. Theo bác sĩ Neis, sau đó
phái đoàn Pháp không ngớt khoe khoang về điều này (7).
Một trí thức Việt
Nam sống tại Pháp, ông Trương Nhân Tuấn, đã hi sinh rất nhiều thời
gian và công phu vào tìm kiếm trong Văn khố Đông dương của Pháp tại
Aix-en-Provence, và tìm được nhiều tài liệu liên quan đến Hiệp ước
Thiên tân cùng Biên bản việc cắm mốc biên giới. Theo những tài
liệu ông Tuấn đưa lên Internet, phần thứ 3 của Biên bản nhắc tới
cột mốc trước Nam quan: cột mốc này được cắm trên đường Nam quan về
Đồng đăng, cách cửa quan 100 thước (“sur le chemin de Nam Quan à Dong
Dang, à 100m au S. de la porte”) (8).
Trên nhật báo Người
Việt đầu tháng 4 năm 2002, nhà báo Ngô Nhân Dụng đã lưu ý tới
chỗ sai biệt giữa hồi ký của bác sĩ Neis và biên bản do ông Tuấn
tìm thấy: cột mốc cách Nam quan “100 thước” theo biên bản và “khoảng
150 thước” theo hồi ký. Ông Dụng nêu nhận xét: biên bản cho biết
khoảng cách theo đường chiếu thẳng, “đường chim bay,” trong khi hồi ký
ước lượng khoảng cách theo những bước quanh co đi bộ xuống đồi. Chỗ
sai biệt không lớn, có vẻ hợp lý, và biên bản nhiều phần chính xác
hơn. Điểm quan trọng là biên giới mới chạy theo một con suối trước
cửa quan. Người viết những dòng này hoàn toàn đồng ý với ông.
Tóm lại, so với
các đời trước, ngày 20 tháng 3 năm 1886, biên giới Việt Nam tại Nam
quan đã bị lùi lại 100 thước do sự hào hiệp của phái đoàn Pháp đối
với các quan nhà Thanh, đáp ứng phần nào những khoản đãi từ phái
đoàn Trung Hoa. Đây mới là nhân nhượng đầu tiên. Trong việc cắm mốc
biên giới này -- mãi đến 1895 mới hoàn tất – lãnh thổ Việt Nam còn
chịu nhiều mất mát đáng kể hơn thế nữa.
IV.
Một số đất Việt Nam bị mất sau cuộc cắm mốc biên
giới 1886-1895
Theo nhà nghiên
cứu Pháp Charles Fourniau trong bài “La frontière sino-vietnamienne et le
face à face franco-chinois à l’époque de la conquête du Tonkin” in trong
cuốn Les Frontières du Vietnam (Paris : Harmattan, 1989), trong mấy
năm cắm mốc biên giới, phái đoàn Pháp có lý do để nhân nhượng
phái đoàn Trung Hoa trong các thương thảo liên quan đến lãnh thổ Việt
Nam. Trong một công điện gửi từ Bắc kinh về Pháp ngày 10 tháng
10-1886, Đô đốc Rieuner cho biết Lý Hồng Chương đã nói thẳng với ông:
“Nước Pháp đã được rất nhiều khi lấy được Bắc kỳ, chư hầu của Trung
quốc từ 600 năm nay. Việc ấy lại qua sự trung gian của tôi (Lời
chú của người viết: Lý Hồng Chương muốn nói ông ta đã điều đình
và ký Hiệp ước Thiên tân, bản hiệp ước công nhận quyền “bảo hộ”
của Pháp trên đất nước Việt Nam) . Điều này đã gây cho tôi (vẫn
lời Lý Hồng Chương) nhiều phiền muộn. Theo tôi, cần một sự đền bù
dưới hình thức một nhân nhượng nhỏ về lãnh thổ tại biên giới
An-nam” (nguyên văn: “Une compensation sous la forme d’une petite
cession de territoire sur la frontière de l’Annam me semble nécessaire”) (9).
Trong thời gian ấy,
Pháp cũng đang muốn ký với Trung Hoa một hiệp ước thương mại để được
quyền buôn bán ở Hoa nam cùng mở các tòa Lãnh sự ở Quảng tây và
Vân nam. Mỗi khi có mâu thuẫn đến độ bế tắc khiến các phái đoàn
cắm mốc biên giới phải hỏi ý chính phủ, chỉ thị từ phía Pháp thường
là: “nhân nhượng” (10). Chính vì thế, theo một chính sách nhiều nhà
nghiên cứu gọi là “politique des pourboires” (“chính trị tiền trà
nước”), trong cuộc phân định biên giới giữa Pháp và nhà Thanh này,
Việt Nam đã bị mất nhiều lãnh thổ đáng kể. Để làm thí dụ, xin đơn
cử hai vùng đất quan trọng hơn cả: một số làng ở Đông bắc Móng cái
và vùng mỏ đồng Tụ long.
Một số làng
ở Đông bắc Móng cái:
Theo bác sĩ Neis,
sát theo bờ biển phía Đông bắc Móng cái có một số làng Việt Nam. Cư
dân gồm người Việt cùng nhiều sắc dân thiểu số chứ không có người
Hoa. Những làng này ngăn cách với vùng đất Trung Hoa bao quanh bằng
mấy rặng núi hình vòng cung của dãy Thập vạn đại sơn (Shiwan dashan) .
Danh hiệu một số làng là danh hiệu Việt Nam: Trung sơn, Song phong, Mai
công... Một số làng sống bằng nghề đánh cá lấy tên Vạn Công, Vạn
Mi, Vạn Thọ, Vạn Tray... như nhiều làng đánh cá Việt Nam khác. Các
làng này từ trước vẫn sống dưới quyền quản trị của triều đình Việt
Nam.
Có một điều bất
thường là các làng này không tiếp giáp với lãnh thổ chính của Việt
Nam. Một dải đất chiều ngang 10 cây số thuộc tỉnh Quảng đông của
Trung Hoa chắn ngang ở giữa. Muốn đi từ các làng này về lãnh thổ
chính của Việt Nam (chẳng hạn Móng cái) phải đi khoảng 10 cây số qua
đất Trung Hoa, hoặc phải dùng thuyền. Ngay khi mới tới Móng cái và
biết được điều ấy, bác sĩ Neis đã tiên liệu sẽ gặp rắc rối trong
việc phân định biên giới. Ông vẽ một bản đồ (xin xem bản đồ 2) và
gọi khu vực này là “enclave annamite” (vùng Việt Nam bị vây trong lãnh
thổ Trung Hoa) (11).
Các làng này quây
quần quanh một vũng biển nhỏ có tên là vũng Vạn Xuân. Một mỏm đất
nhọn chạy nhô ra biển, bọc phía ngoài chặn sóng gióù, có tên là
mũi Bạch long (phía Trung Hoa gọi là Pak-lung) . Bác sĩ Neis được cho biết:
Tổng đốc Lưỡng Quảng Zhang Zhi-Dong (Trương Chi Động), một đối thủ
chính trị đáng kể của Lý Hồng Chương, rất muốn đoạt vũng biển và
mũi đất này.
Việc tranh chấp
xảy đến đúng như dự đoán. Theo những tìm tòi của bác sĩ Neis, tất cả
những tiêu chuẩn xác định chủ quyền cần thiết, từ phong tục truyền
thống, tập quán, văn kiện sổ sách, cho đến tài liệu địa dư chính
thức của Trung Hoa, đều cho thấy vùng đất này thuộc miền Bắc Việt
Nam (“Traditions, customs, records, and even official Chinese geography
indicate this country as being part of Tonkin”). Trong một điện văn do phái
đoàn phân định biên giới gửi cho đại diện chính phủ Pháp có câu:
“Tham khảo nhiều nguồn tài liệu khác nhau, các ủy viên của nước
Pháp đã thu thập được một hồ sơ thật lớn về thẩm quyền của đế
quốc An nam trên vùng đất này” (“Les commissaires francais avaient
accumulé une grosse documentation sur les droits de l’empire d’Annam sur cette
région, en consultant des sources nombreuses et variées”) (12). Nhưng phái
đoàn Trung Hoa nhất định không nhân nhượng. Họ được lệnh một cách
chính thức từ Trương Chi Động: không được nhìn nhận vùng đất này là
của Bắc kỳ (“They had formal order from the viceroy of Canton not to
recognize this territory as Tonkinese”) (13) .
Phái đoàn Pháp
không thể làm gì khác hơn là viết một tờ trình kèm theo bản đồ, gửi
về xin ý kiến chính phủ. Sau sáu tháng chờ đợi (từ tháng 12-1886 đến
tháng 6-1887), bác sĩ Neis được biết: vị Đặc ủy đại diện chính phủ
Pháp, người đang điều đình một Hiệp ước thương mại quan trọng ở Bắc
kinh (Ernest Constans) đã quyết định nhường các làng ấy cùng mũi đất
Bạch long cho Trung Hoa. Trong “Thỏa ước phân định biên giới giữa Trung
Hoa và Bắc Kỳ” (“Convention relative à la délimitation de la frontière
entre la Chine et le Tonkin”) do Ernest Constans, Đặc ủy viên Cộng hòa
Pháp, ký với đại diện Trung Hoa tại Bắc kinh ngày 26 tháng 6ù năm
1887, vùng đất trên được nhắc tới như sau: “Những điểm tranh chấp ở
Đông và Đông bắc Móng cái, phía bên kia biên giới theo sự ấn định
của Ủy ban phân giới, được phân phối cho Trung Hoa” (“Il est entendu que
les points contestés qui sont situés à l’est et au nord-est de Monkai,
au-delà de la frontière telle qu’elle a été fixée par la Commission de
délimitation, sont attribués à la Chine”). Bác sĩ Neis kết thúc đoạn
hồi ký về chuyện này một cách ngậm ngùi: “dân chúng trở về nhà,
từ nay trở đi là người Tàu” (14).
Việc mất các làng
phía Đông bắc Móng cái là một thiệt hại kép đối với Việt Nam: ảnh
hưởng đến ranh giới hải phận. Trong một buổi thuyết trình về biên
giới Việt Hoa tại Viện Việt Học đầu tháng 4 năm nay, giáo sư Nguyễn
Văn Canh cho biết: quyết định nhường vùng đất phía Đông bắc Móng cái
cho Trung Hoa của Ernest Constans đã ảnh hưởng tới việc phân chia hải
phận vịnh Bắc Việt một cách thiệt hại cho Việt Nam. Người viết những
dòng này hoàn toàn đồng ý với giáo sư. Vì vùng đất trên bị mất,
đường ranh chia hải phận vịnh Bắc Việt (đường ranh Brévié) chỉ được
tính từ mỏm cực đông của đảo Trà cổ. Mỏm này cách ranh giới phía
đông của vùng đất bị mất 27 cây số về phía tây. Ranh giới hải phận
Việt Nam trong vịnh Bắc Việt do đó cũng bị đẩy lùi về tây, hẹp hơn 27
cây số.
Vùng mỏ đồng
Tụ long:
Theo Đại Nam nhất thống chí
và Khâm định Việt sử thông giám cương mục, núi Tụ long ở
xã Tụ long, châu Vị xuyên; sau khi châu này phân đôi, được cắt cho
huyện Vĩnh tuy, cách huyện lỵ 200 dặm về phía đông bắc. Trong núi có
mỏ đá nam châm và đồng đỏ, cũng có chỗ lẫn ngân sa. Trong đời Lê
trung hưng vùng này đã mất về Trung Hoa suốt 40 năm, từ năm Mậu Thìn
1688 đến năm Mậu Thân 1728. Sang đời Nguyễn, mỏ đồng Tụ long vẫn được
khai thác. Triều đình cho dựng bảo Tụ long, một loại đồn binh, để bảo
vệ biên giới và vùng mỏ này. Nói về nguồn lợi của mỏ đồng Tụ
long thời trước, ca dao có câu:
Đồng Tụ long, thiếc Sông
Ngâu
Tiền rừng bạc bể kể đâu sánh bằng.
Tổng Tụ long gồm 9
xã (Tụ nhân, Tụ nghĩa, Tụ hoa, Tụ mỹ, Tụ thanh, Tụ long...). Theo
Charles Fourniau, tổng này hoàn toàn thuộc lãnh thổ Việt Nam (“Le
canton de Tulong, tout entier territoire de l’Empire annamite...”) (15). Sau
mấy đợt nhân nhượng của người Pháp từ 1887 đến 1897, 3 phần 4 tổng
Tụ long gồm cả mỏ đồng, với một diện tích khoảng 750 cây số vuông,
đã bị nhường cho Trung Hoa, sáp nhập vào phủ Khai hóa, tỉnh Vân nam.
Nguyệt san Revue Indochinoise, số 5 và 6, xuất bản tại Hà nội
các tháng 5 & 6-1924, có đăng bài tường thuật của Trung tá
Bonifacy, “Le canton de Tu-long et la frontière Sino-Tonkinoise,” kèm theo
một bản đồ ghi từng giai đoạn của việc nhường đất này. Revue
Indochinoise hiện rất khó tìm. Rất may, tấm bản đồ ấy cùng các
chi tiết về việc nhường đất đã được in lại trong cuốn Sử liệu về
biên giới ta và Tàu từ đời nhà Lý cho tới đầu thời Pháp thuộc của
Hà Mai Phương và Chu Thu Hằng, do Mai Hiên xuất bản tại Campbell,
California năm 1999. Độc giả muốn tìm hiểu thêm về tổng Tụ long cũng
như về việc mất các vùng đất khác, xin tham khảo tài liệu kể trên.
Một kỹ thuật
đặc biệt
Bên cạnh việc khai
thác tối đa lòng ham muốn quyền lợi kinh tế của người Pháp và việc
dùng các hình thức khoản đãi để mua chuộc hầu được lợi trong việc
phân định biên giới các năm 1886-1895, phía Trung Hoa còn áp dụng một
kỹ thuật đặc biệt nữa: khủng bố và hạ sát. Theo Trung tá Bonifacy,
sau khi nhiều người Pháp trong Ủy ban cắm mốc biên giới bị tấn công
và thiệt mạng, phần lớn biên giới Hoa Việt đã được hoạch định trên
bản đồ. Bác sĩ Neis cho biết trong một chuyến đi quan sát biên giới
giữa Lào kay – Vân nam vào tháng 8 năm 1886, hai lần toán của ông bị
phục kích. Hai sĩ quan cầm đầu toán bảo vệ, Trung úy Geil và Thiếu úy
Henry, bị bắn chết, nhiều phu khuân vác bị thương. Ủy viên tiền nhiệm
của bác sĩ Neis trong việc phân định biên giới tại Móng cái là J. B.
S. Haitce cùng một số nhân viên bị hàng trăm người Trung Hoa tấn
công, và bị thảm sát ngày 27 tháng 11 năm 1886.
Trong hai vụ tấn
công ở biên giới Lào kay – Vân nam, lực lượng tấn công là các toán
thổ phỉ, nhưng nhiều dấu hiệu cho thấy phái đoàn Trung Hoa đã dàn
xếp, hay ít nhất biết trước chuyện này. Ủy viên Trung Hoa từ chối
không chịu cùng đi với phái đoàn Pháp. Khi phái đoàn Pháp đề nghị ít
nhất cho một nhân viên địa hình Trung Hoa cùng đi, nhân viên này dùng
một thuyền riêng chứ không đi chung, và bỏ đi đâu mất buổi chiều
trước cuộc phục kích. Trong vụ tấn công ở Móng cái, toán người Hoa
từ bên kia biên giới kéo sang, một số mặc quân phục. Bác sĩ Neis cho
biết: tuy không trưng được bằng cớ, những tin tức tình báo ông nhận
được sau đó cho biết các vụ tấn công này do chính Tổng đốc Trương Chi
Động chủ mưu với sự cộng tác của Trưởng phái đoàn Trung Hoa Teng
Tcheng-Sieou (Tăng Thành Siêu?) . Đảm nhiệm việc thi hành là một viên
chức Trung Hoa họ Vương (Wang) ở Đông Hưng (“Tong Hing” theo lối phiên âm
của Pháp thời ấy) , thuộc cấp của Tổng đốc họ Trương. Nhà nghiên
cứu Charles Fourniau cũng cho rằng có bàn tay của Trương Chi Động trong
hành vi ám muội này (16).
V.
Một kinh nghiệm mất đất và đòi đất của người
trước
Như đã trình bày
trên, vùng mỏ đồng Tụ long từng bị mất cho Trung Hoa trong đời Lê
trung hưng, 40 năm sau mới đòi lại được. Dưới đây xin tóm lược ít kinh
nghiệm của người trước trong việc mất đất cũng như đòi đất này.
Theo Cương mục và
Đại Nam nhất thống chí, đầu đời Lê trung hưng, Gia quốc công Vũ
Văn Mật có công đánh nhà Mạc, được phong An tây vương, và được đời
đời giữ đất Tuyên quang (địa giới trấn Tuyên quang thời ấy rất rộng,
tiếp giáp với Trung Hoa, gồm cả khu vực tỉnh Hà giang hiện nay). Con
ông là Thái phó Nhân quốc công Vũ Công Kỷ và cháu là Thái bảo
Hòa quốc công Vũ Đức Cung (theo Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu
lục: Vũ Công Ứng) tuy được quyền tự trị, vẫn tòng phục triều
đình. Đến đời chắt là Thiếu phó Tông quận công Vũ Công Đắc ỷ thế
xa xôi hiểm trở, muốn tự lập xưng vương. Sau khi Công Đắc bị bộ thuộc
sát hại, triều đình phong cho con Công Đắc là Vũ Công Tuấn tước Khoan
quận công nhưng giữ ở kinh đô, rồi sai quan đi trấn giữ Tuyên quang
(17).
Không rõ do các
quan triều đình cử đi không được lòng dân địa phương, phần đông là
người thiểu số, hay do những bất mãn vì chuyện bị giam lỏng không
được về lãnh địa, ba năm sau Vũ Công Tuấn bỏ trốn về Tuyên quang
làm phản. Lúc ấy là năm Nhâm Tý, 1672, đời vua Lê Gia tông.
Mười sáu năm sau,
bị triều đình dồn đuổi, Vũ Công Tuấn chạy sang Vân nam, đem ba châu
thuộc lãnh địa xin sáp nhập vào Vân nam để mong được che chở. Quan địa
phương nhà Thanh bèn chiếm luôn ba châu ấy, đặt chức tuần ty để thu
thuế. Đó là các châu Vị xuyên, Bảo lạc thuộc Tuyên quang, và châu
Thủy vĩ thuộc Hưng hóa. Mỏ đồng Tụ long thuộc châu Vị xuyên. Trấn
thủ Tuyên quang - Hưng hóa là Lê Huyến gửi thư sang phân biện nhưng
viên chức nhà Thanh không chịu trả. Bấy giờ là năm Mậu Thìn, 1688,
đời vua Lê Hi tông, nhằm năm thứ 27 niên hiệu Khang hi nhà Thanh (18).
Trong những dịp sang
tuế cống sau đó, sứ thần Việt Nam nhiều lần trình bày vấn đề ba
châu này. Nhưng mỗi khi Thanh đình định cho điều tra, các quan địa phương
nhà Thanh lại tâu rằng các châu ấy “thuộc Trung quốc từ lâu,” và
đổ cho Việt Nam đã “lợi dụng tình trạng hỗn loạn sau khi nhà Minh mất
để mưu toan bành trướng lãnh thổ.” Mãi đến năm Bính Ngọ, 1726, theo
đề nghị của Tổng đốc Quảng tây Khổng Dục Tuân, triều đình nhà Thanh
mới đồng ý trả lại một phần đất bị mất nhưng vẫn không trả khu vực
mỏ đồng (19).
Hai năm sau, Mậu
Thân 1728, nhà Thanh trả thêm đất cùng khu vực mỏ đồng. Có lẽ do
những tế nhị trong việc bang giao thời trước, chính sử của ta chép rất
sơ lược về vấn đề này. Cương mục chỉ viết là khi vua Ung chính
nhà Thanh theo lời cáo buộc man trá của quan phủ Khai hóa (tỉnh Vân
nam), hạ sắc văn bắt ta phải “trả những đất đã chiếm,” viên thổ
mục giữ quan ải là Hoàng Văn Phác “dùng lời lẽ kháng cự, nhất
thiết không chịu tiếp nhận sắc văn.” Tình trạng căng thẳng kéo dài.
Tổng đốc Vân nam – Quý châu là Ngạc Nhĩ Thái một mặt đưa văn thư
sang Quảng tây, yêu cầu chia địa điểm phòng giữ, một mặt xin triều
đình điều động binh mã ba tỉnh để đối phó. Vua Thanh phải sai một Tả
đô ngự sử và một Nội các học sĩ tới biên giới để “xem xét sự
động tĩnh của nước ta.” Cương mục cũng cho biết: “lúc ấy biên
giới phương bắc cảnh giới nghiêm ngặt.” Hai viên chức của nhà Thanh
sắp sửa ra đi thì Thanh đình nhận được quốc thư từ Đại Việt đưa sang.
Theo Cương mục, quốc thư trình bày “lòng thành thờ nước lớn”
khiến vua Thanh Ung chính rất đẹp lòng, lập tức sai quan viết sắc văn
trả lại cả vùng Tụ long (20).
Ta có quyền tin Cương
mục chép theo lối “ý tại ngôn ngoại,” tránh không nhắc đến một
số điểm tế nhị, chứ sự thật không đơn giản như thế. Việc viên thổ
mục giữ quan ải một nước nhỏ “dùng lời lẽ kháng cự,” nhất quyết
không chịu tiếp nhận sắc văn của Thiên tử nhà Thanh là một hành
động quá vượt mức bình thường. Gây nên những chấn động tới độ Tổng
đốc hai tỉnh lớn của Trung Hoa phải xin triều đình “điều động binh mã
ba tỉnh” để đối phó, và “biên giới phương bắc cảnh giới nghiêm
ngặt,” ta không thấy viên thổ mục bị triều đình khiển trách. Rốt cục
những chấn động ấy đưa tới việc vua Thanh quyết định trả đất sau khi
đọc xong một bức thư, một việc dằng dai từ mấy chục năm triều đình
nhà Thanh chưa chịu thi hành. Nhiều phần viên thổ mục không hành động
tự ý, mà đã đảm nhiệm thành công và xuất sắc một vai trò được
điều hợp từ cấp cao hơn.
Nghiên cứu sâu
thêm về bang giao Hoa Việt thời ấy và đối chiếu với sử Trung hoa,
nhà sử học Philippe Langlet, nguyên giáo sư Đại học Văn khoa Sàigòn,
cho biết: Bốn năm trước đó (1724), Việt Nam đã thực hiện một cuộc
biểu dương binh lực (“démonstration militaire”), đánh lui đạo quân do
Tổng đốc Vân nam – Quý châu cử đến để khai thác mỏ đồng. Trong thời
gian này, tù trưởng các bộ lạc thiểu số ủng hộ triều đình Việt Nam,
trong khi quân đội nhà Thanh đang gặp khó khăn ở Trung Á. Đang cần
tập trung một binh lực đáng kể tại Tân cương, vua Ung chính không muốn
có thêm một cuộc chiến ở biên giới phía Nam. Điều khám phá này
được trình bày trong bài “La frontière sino-vietnamienne du XVIIIe au XIXe
siècle”, in trong Les Frontières du Vietnam (Paris : Harmattan, 1989)
(21).
Dù sao đi nữa,
chuyện trả đất đã thực sự xảy ra. Vua Ung chính gửi sang một văn thư
đầy khẩu khí “Thiên triều”: “Trẫm thống trị thiên hạ. Phàm những
nước đã liệt vào phiên phong, thì dầu một thước đất không chỗ nào
không phải đất đai do trẫm chủ tể, can chi phải so đo 40 dặm đất nhỏ
bé ấy làm gì?... 40 dặm đất ấy nếu thuộc vào Vân nam thì là nội địa
của trẫm, nếu thuộc vào An nam thì vẫn là ngoại phiên của trẫm,
không có một chút gì phân biệt cả. Vậy chuẩn đem đất ấy ban thưởng
cho quốc vương được đời đời giữ lấy.” (22) Đúng như câu ngạn ngữ
“bắt không được, tha làm phúc.” Thiên tử rất anh minh, đã “ban
thưởng” cho một quốc vương có lòng thành kính. Điểm đáng ghi nhận là
thiên tử thưởng một cách vĩnh viễn, được “giữ đời đời.”
Chính sử không ghi
lại bức thư đã đưa vua Ung chính tới quyết định trả đất, và cũng
không cho biết tác giả thư ấy là ai. Ta có quyền tin: thư này không
phải chỉ nói chuyện “lòng thành thờ nước lớn.” Vừa mềm mỏng vừa
cương quyết, tác giả bức thư đã thành công một cách thật xuất sắc,
không khác Ngô Thì Nhậm trong bức thư làm hòa với nhà Thanh 61 năm
sau (Kỷ Dậu, 1789).
Chuyện trả đất chưa chấm
dứt. Theo Cương mục, khi Tả Thị lang bộ Binh Nguyễn Huy Nhuận và
Tế tửu Quốc tử giám Nguyễn Công Thái (vị quan đứng đầu Quốc tử
giám, cơ sở giáo dục cao cấp nhất thời đó) lên nhận đất với đồng
thuận từ triều đình nhà Thanh là biên giới ở sông Đỗ chú, thổ quan
phủ Khai hóa muốn ăn chặn một số đất ở Bảo sơn thuộc tổng Tụ long,
nên đã chỉ một con sông khác (ở phía Nam sông thật) nói gian là sông
Đỗ chú. Tế tửu Nguyễn Công Thái phải xông pha lam chướng, vượt
những chỗ hiểm trở để tìm ra sông Đỗ chú thật, rồi cùng quan nhà
Thanh tranh biện và dựng mốc biên giới. Bia của Trung Hoa ở bờ phía
Bắc, bia của Nam Quốc ở bờ Nam. Bia bờ Nam được khắc như sau: “Giới
mốc châu Vị xuyên, trấn Tuyên quang, nước An nam, lấy sông Đỗ chú
làm căn cứ” (23). Năm ấy, Mậu Thân 1728, là năm Bảo thái thứ 9 đời
vua Lê Dụ tông, ngoài Bắc dưới quyền chúa An đô vương Trịnh Cương, sử
Trung Hoa nhằm năm Ung chính thứ 6 nhà Thanh. Đề cập đến chuyện này, Đại
Nam quốc sử diễn ca chép như sau:
Đem thư biện với nhà Thanh
Mỏ đồng, mỏ kẽm lại giành
về ta
Lập bia bên Đỗ chú hà
Giới cương từ
đó mới là phân minh (24).
Tình trạng phân
minh ấy được tiếp tục qua triều Nguyễn. Theo Đại Nam nhất thống
chí, năm Minh mạng 13 (Nhâm Thìn, 1832), triều đình còn cử quan tới
biên giới trùng tu nhà bia bên bờ sông Đỗ chú. Biên soạn trong
khoảng các năm 1864-1875, Đại Nam nhất thống chí vẫn đề cập
đến biên giới này (25). Chỉ ba năm sau khi Việt Nam mất chủ quyền do
Hòa ước Giáp Thân 1884 (Hòa ước Patenôtre), vùng đất này mới bị
nhường cho Trung Hoa do Thỏa ước Bắc kinh ngày 26 tháng 6-1887 như đã
nói trên. Bia và nhà bia chắc đều không còn.
VI.
Một vài nhận xét
1.
Các viên chức Trung Hoa, từ các quan ở
Vân nam thời Khang hi, Ung chính, qua Lý Hồng Chương, Trương Chi Động
cuối thế kỷ 19, tới các viên chức cao cấp của Đảng Cộng sản hiện
nay, nói chung vẫn có một điểm giống nhau. Nếu thấy có cơ hội lấn
được chút đất nào ở biên giới nước ta, họ đều không bỏ lỡ. Chỉ
trừ một giai đoạn tương đối ngắn là giai đoạn Pháp thuộc, lịch sử
Việt Nam chủ yếu là một chuỗi những cố gắng liên tục của dân tộc
ta trong việc đối phó với ông láng giềng khổng lồ phương Bắc.
2.
Trong việc đối phó với những tham vọng
đất đai của Trung Hoa, ta phải đương đầu không phải chỉ với chính quyền
trung ương của họ, mà còn cả với các thế lực địa phương. Chuyện Tổng
đốc Lưỡng Quảng Trương Chi Động, các quan nhà Thanh ở Vân nam, và
viên thổ quan chỉ sông Đỗ chú giả ở Khai hóa... là những thí dụ
điển hình.
3.
Để bảo vệ đất đai của tổ tiên hầu
truyền lại cho hậu thế, tiền nhân ta đã phải tranh đấu rất gian nan.
Việc Tế tửu Nguyễn Công Thái, một nhà giáo dục, một vị quan văn,
quyết dấn thân vào những chỗ hiểm trở, xông pha lam chướng, không quản
những nguy hiểm có thể xảy ra cho chính bản thân để tìm ra sông Đỗ
chú thật, là một tấm gương đáng ghi nhớ.
4.
Để bảo vệ đất đai vùng biên giới, sự
ủng hộ của dân địa phương – nhất là các sắc tộc thiểu số – vô cùng
cần thiết. Năm 1688, ba châu Vị xuyên, Bảo lạc, Thủy vĩ bị mất do sự
vụng về của triều đình đối với địa phương. Theo Cương mục, sau
khi quan nhà Thanh đoạt mất ba châu này, Trấn thủ Lê Huyến tìm cách
dụ cư dân tại địa phương theo triều đình, nhưng không thành công. Năm
1728, một trong những lý do khiến nhà Thanh phải nhân nhượng là lãnh
tụ các sắc tộc thiểu số đứng về phía triều đình Đại Việt.
5.
Những người cầm đầu nước Pháp cuối
thế kỷ 19 đem binh lực tới công phá Đà nẵng, chiếm Gia định, đoạt Hà
nội, uy hiếp Huế ..., để đòi quyền “bảo hộ” Việt Nam. Một trong
những hành động đầu tiên của họ sau khi lấy được quyền ấy là cắt
nhiều vùng đất của Việt Nam cho Trung Hoa để đổi lấy quyền lợi kinh
tế. Đó là một hành động cực kỳ sai trái. Cũng may, Pháp là một xã
hội dân chủ với truyền thống trọng sự thật và lẽ phải. Nhiều trí
thức Pháp đã đem những chuyện ấy viết lại một cách trung thực để
chúng ta biết rõ quá khứ và quyền lợi dân tộc. Chúng ta ghi nhận
những nét đẹp trong truyền thống dân chủ của nước Pháp và cám ơn
các nhà trí thức ấy.
6.
Đảng Cộng sản Việt Nam giải thích: phải
điều đình lại về lãnh hải và biên giới vì Hiệp ước Thiên tân là do
thực dân (Pháp) ký với phong kiến (nhà Thanh). Nhưng nếu thế thì phải
chữa lại những sai trái, bất công trong quá khứ. Như trên đã thấy,
trong việc phân định biên giới những năm 1886-1895, Việt Nam bị thiệt
và đã mất rất nhiều đất. Nếu điều đình lại thì cần điều chỉnh những
mất mát bất công ấy. Nay không chữa được một chút thiệt hại nào
của quá khứ mà còn mất thêm! Như thế thì điều đình và ký để làm
gì? Phải chăng với mục đích bán nước?
Người viết những
dòng này góp tiếng nói với toàn thể quốc dân trong và ngoài nước,
yêu cầu những người cầm đầu Đảng Cộng sản Việt Nam nghĩ đến trách
nhiệm trước tiền nhân và hậu thế mà công bố những hiệp ước đã lỡ
ký với Trung Hoa. Mối lo của đất nước là mối lo chung. Đáng lẽ nên
mừng rỡ khi thấy có những trí thức lỗi lạc và tâm huyết như Trần
Khuê, Phạm Hồng Sơn, Lê Chí Quang... (những vị Nguyễn Công Thái thời
nay) chung lo trước những khó khăn của đất nước, lại tìm cách đàn
áp, giam hãm họ, những người cầm đầu Đảng Cộng sản chỉ tự làm mình
cô lập và bất lực thêm. Không đủ khả năng đối phó trước những
tham vọng càng ngày càng phức tạp của người ngoài, Đảng Cộng sản
Việt Nam sẽ mỗi ngày một thất bại, sa lầy thêm, và thêm nặng tội
trước lịch sử.
Mấy lời nói
thêm của người viết:
1.
Khi đưa ra một dẫn chứng cho thấy chiếc
cổng “Trấn Nam quan” do các quan Trung hoa đời Thanh tu bổ, người viết
những dòng này tuyệt không có ý phủ nhận quan niệm “đất nước chúng
ta từ ải Nam quan đến mũi Cà mâu.”
Quan niệm ấy chính
xác: vùng “ải” Nam quan thuộc lãnh thổ nước ta.
Theo tất cả các
tự điển, “ải” có nghĩa là “chỗ đất hẹp, hiểm trở, dễ phòng thủ”
(tương đương với “défilé” trong tiếng Pháp hoặc “defile,” “narrow valley
or mountain pass” trong tiếng Anh). Theo chữ Hán, “ải” được viết với bộ
“phụ” (núi đất, gò đống), một bộ gồm những chữ liên quan tới hình
thế thiên nhiên của đất chứ không nhất thiết phải có công trình
kiến trúc nhân tạo. “Ải Nam quan” là vùng đất hẹp, hiểm trở, dễ
phòng thủ của Việt Nam, tiếp cận chiếc cổng Trấn Nam quan của Trung
Hoa. Năm 1886, tuy người Pháp có nhường cho Trung Hoa 100 thước đất
trước cổng, nhưng vùng đất hiểm trở ở phía nam Trấn Nam quan dài hơn
thế rất nhiều. Việc mất trọn vùng này tới độ “đứng ở đồn canh
biên giới, không còn trông thấy Nam quan đâu nữa” như hiện nay là
trách nhiệm trước lịch sử của những người cầm đầu đảng Cộng sản.
Ngày 19 tháng 4 vừa qua, một trí thức am tường Hán tự là ông Nông
Bản Nhân đã lên tiếng trên Internet về vấn đề này. Người viết
những dòng này hoàn toàn đồng ý với ông.
2.
Trong thời Pháp thuộc, tuy biên giới trên lý thuyết cách Nam quan 100 thước, biên giới trên thực tế vẫn ngay tại Nam quan. Khoảng cách 100 thước không lớn. Liên hệ giữa Pháp với Trung Hoa trước 1945 không xấu nên người Pháp và người Việt bên này biên giới vẫn có thể tới sát Nam quan. Nhiều vị cao niên, nhất là các vị cư ngụ quanh khu vực Lạng sơn, Đồng đăng đã cho biết điều này.
Ở miền Bắc trước 1979, trước
khi những thế lực “vừa là đồng chí, vừa là anh em” lăn xả vào đánh
giết nhau, dân ta vẫn có thể tới sát Nam quan. Nhà thơ Nguyễn Chí
Thiện cho biết: khoảng 1977, sau khi được trả tự do lần thứ nhất,
chính ông đã có dịp cùng nhiều người khác đến sát chiếc cổng này.
Tình trạng dân Việt bên này biên giới không còn có thể đến Nam quan
mới chỉ xảy ra gần đây, do tội của những người cầm đầu đảng Cộng
sản.
Chú thích
1. Lê Quý Đôn, Vân đài
loại ngữ, Quyển 3: Khu vũ loại. Phạm Vũ & Lê Hiền dịch
và chú giải (Sàigòn : Miền Nam, 1973), trang 160-162.
2. Quốc sử quán triều
Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí : tỉnh Lạng sơn. Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy
Anh hiệu đính(Huế : NXB Thuận Hóa, 1997), trang 384-385.
3. Nguyễn Du, “Trấn Nam quan,”
trong Nguyễn Du toàn tập. Tập I: Thơ chữ Hán, Mai Quốc Liên
phiên âm, dịch nghĩa với sự cộng tác của Nguyễn Quảng Tuân...(Hà
nội : NXB Văn Học, 1996), trang 295.
4. Lời công an biên phòng
nói với những người muốn đến thăm Nam quan năm 2001. Dẫn từ nhiều tài
liệu khác nhau, trong đó có: Trần Gia Phụng, Ải Nam quan. (Toronto,
Ont., Canada : Non Nước, 2002), trang 30.
5. P. Neis, Sur les
Frontières du Tonkin, Walter E. J. Trips dịch sang Anh ngữ, The
Sino-Vietnamese Border Demarcation, 1885-1887.(Bangkok : White Lotus ,
1998), trang 16-18.
6. P. Neis, Sách đã dẫn, trang
37-38.
7. P. Neis, Sách đã dẫn, trang
38.
8. Trương Nhân Tuấn, Tài
liệu nhận được qua điện thư, ngày 10 tháng 5-2002.
9. Charles Fourniau, “La
frontière sino-vietnamienne et le face en face franco-chinois à l’époque de
la conquête du Tonkin”, trong Les Frontières du Vietnam(Paris :
Harmattan, 1989), trang 90.
10. Charles Fourniau, Tài
liệu đã dẫn, trang 211. Xem thêm P. Neis, Sách đã dẫn, trang
211.
11. P. Neis, Sách đã dẫn, trang
142, 203.
12. P. Neis, Sách đã dẫn, trang
208. Xem thêm Fourniau, Tài liệu đã dẫn, trang 92.
13. P. Neis, Sách đã dẫn, trang
208-209.
14. “Convention relative à la
délimitation de la frontière entre la Chine et le Tonkin, signée à Pékin
le 26 juin 1887,” trong France, Code no. 95886, Recueuil des Traités
conclus par la France en Extrême-Orient, in lại trong Trần Gia Phụng, Sách
đã dẫn, trang 59-61. Xem thêm P. Neis, Sách đã dẫn, trang
211-212.
15. Quốc sử quán triều
Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí (đã dẫn), Tập 4, trang 345. Khâm định Việt sử Thông giám
Cương mục, Chính
biên, Quyển 37.(Huế : NXB Thuận Hóa, 1998), trang 809. Xem
thêm Fourniau, Tài liệu đã dẫn, trang 92.
16. Bonifacy, “Le canton de
Tu-long et la frontière Sino-Tonkinoise” trong Revue Indochinoise, số
5 & 6 (Mai – Juin 1924), tóm lược trong Hà Mai Phương & Chu Thu
Hằng, Sử liệu về biên giới ta và Tàu từ đời nhà Lý cho tới đầu
đời Pháp thuộc(Campbell, California : Mai Hiên, 1999), trang 19. Xem
thêm Neis, Sách đã dẫn, trang 113-129, 157-170, 185. Xem thêm
Fourniau, Tài liệu đã dẫn, trang 91.
17. Cương mục (đã dẫn), trang
731-732. Đại Nam nhất thống chí (đã dẫn), trang 360-361.
18. Cương mục (đã dẫn), trang
749.
19. Cương mục (đã dẫn), trang
803.
20. Cương mục (đã dẫn), trang
808-809.
21. Philippe Langlet, “La
frontière sino-vietnamienne du XVIIIe au XIXe siècle” trong Les
Frontières du Vietnam (đã dẫn), trang 72,
22. Cương mục (đã dẫn), trang
809.
23. Cương mục (đã dẫn), trang
809-810.
24. Lê Ngô Cát & Phạm
Đình Toái, Đại Nam quốc sử diễn ca, Hoàng Xuân Hãn chú
giải (Sàigòn : Trường Thi, 1956), trang 194.
25. Đại Nam nhất
thống chí (đã dẫn), Tập 4, trang 353.