Chừng Nào Dân Việt Nam Ðứng Dậy Phá Bỏ Gông Xiềng Cộng Sản?

Trần Viết Ðại Hưng


Theo những tin tức báo chí loan truyền cho biết ở Việt Nam ngày 7 tháng 6 năm 2001 trôi qua trong sự ngột ngạt khó thở. Từ Sài gòn ra tới miền Trung, hầu hết các chùa đều bị khủng bố, cắt điện thoại, các tăng ni đều bị công an hăm dọa không được lên đường ra Quang Ngãi đón thầy Huyền Quang về Sài Gòn như lời kêu gọi của thầy Quảng Ðộ. Tại Sài Gòn, thầy Quảng Ðộ bị những công an nằm ngay trong Thanh Minh thiền viện cầm chân nên không ra đi được. Nhưng tăng đoàn Thừa Thiên Huế đã tổ chức lên đường. Tuy bị chận đứng trên đường đi và bị đuổi về lại chùa nhưng không vì thế mà coi như cuộc đấu tranh giải cứu giành tự do cho thầy Huyền Quang đã chấm dứt. Ðây chỉ mới là cuộc ra quân đầu tiên của lực lượng Phật giáo và hứa hẹn sẽ có những biến động trong những ngày sắp tới.

Chuyện kỳ thú và ngoạn mục nhất mà người ta ghi nhận được là có một dân biểu Âu châu tên Olivier Dupuis đã sang Sài Gòn, tới Thanh Minh thiền viện ngồi tọa kháng để đấu tranh đòi tự do cho hai thầy Huyền Quang và Quảng Ðộ. Dân biểu này sau đó bị tống xuất ngay ra khỏi Việt Nam nhưng bộ mặt đàn áp tôn giáo của bạo quyền Cộng Sản Việt Nam một lần nữa lại được phơi bày một cách lố bịch ra cho cả thế giới coi. Thầy Quảng Ðộ không ra được Thanh Minh thiền viện để lên đường nhưng chuyện thầy quyết tâm đi đón thầy Huyền Quang về Sài Gòn chữa bệnh đã gặt hái những thành quả to lớn trong chuyện giành lại quyền tự do tôn giáo nói riêng và nhân quyền nói chung.

Cuộc đấu tranh kỳ này nói chung chỉ có những tăng sĩ Phật giáo tham gia và thiếu sự hỗ trợ của quần chúng nhân dân. Ðiều đó không phải là quần chúng thiếu nhiệt tình tham gia đấu tranh mà phải hiểu rằng đây là cuộc đấu tranh mới ở giai đoạn bắt đầu. Chuyện đấu tranh rồi dần dần sẽ đến tai quần chúng để tiến đến thời kỳ quần chúng sẽ nhập cuộc đấu tranh và sẽ đẩy cuộc đấu tranh vào một giai đoạn mới quyết liệt và khẩn trương hơn để thực sự đối đầu với bạo quyền Cộng sản. Câu hỏi đặt ra ở đây là chừng nào người dân Việt Nam mới dấn thân tranh đấu với bạo quyền Cộng sản để giành lại quyền tự do tôn giáo và nhân quyền của chính mình?

Vào sáng ngày 7 tháng 6 năm 2001 , anh em trong Mạng lưới lên đường (www.lenduong.net) đã gọi điện thoại phỏng vấn Thượng tọa Tuệ Sĩ để hỏi thầy về tình hình đấu tranh bên nhà trong chuyện lên đường đi đón Ðại lão Hòa thượng Huyền Quang về Sài Gòn. Thầy Tuệ Sĩ cho biết Cộng Sản sợ có chuyện Thiên an môn xảy ra để rồi có thể đưa đến sự sụp đổ của Ðảng và nhà nước nên dùng biện pháp đàn áp để ngăn ngừa biến động. Chúng nhân danh luật pháp để ra tay đàn áp nhưng khi luật pháp dẫm trên lương tâm, chà đạp nhân phẩm, không bảo vệ phẩm giá con người thì thứ luật pháp ấy coi như vô giá trị và người dân sẵn sàng vi phạm. Nói chung là Cộng sản đang đứng thế yếu, chúng đàn áp nhưng không dám làm mạnh. Sự sợ hãi đã gây ra chuyện đàn áp, làm bậy. Cộng Sản như con thú cùng đường, bây giờ thấy bóng dáng ai cũng sợ. Chúng tự hào đã đánh bại những đế quốc hùng mạnh nhưng giờ đây lại đâm ra sợ vớ vẩn. Một điều cần ghi nhận ở đây là những công an gửi đến Thanh Minh thiền viện để trấn áp thầy Quảng Ðộ cũng như đám công an ngăn chận tăng đoàn Thừa thiên Huế đều mặc thường phục chứ không mặc sắc phục Công an. Chúng sợ lộ ra bộ mặt đàn áp của chúng trước dư luận thế giới cũng như không muốn người trong nước trông thấy tình hình căng thẳng đang xảy ra.Cộng Sản Việt Nam giờ này có tồn tại được hay không là do chiến lược toàn cầu của các thế lực quốc tế chứ chúng không chủ động gìn giữ được chính quyền được nữa. Hơn nữa, chúng sẽ khó tồn tại nếu không có những thay đổi đường lối, chính sách hợp lòng dân. Chúng sợ những tập họp đông đảo quần chúng như Thiên an môn vì khi biến động hỗn loạn xảy ra, chúng không chắc sẽ kiểm soát tình hình và tái lập được trật tự. Quần chúng Việt Nam sau bao nhiêu năm bị Cộng Sản đày đọa, giết chóc nên giờ đây như một thùng thuốc súng chờ ngày bùng nổ. Mỗi một biến động xảy ra có thể coi như một ngòi nổ châm vào thùng thuốc súng đó. Thầy Tuệ sĩ tâm sự thầy không bao giờ là người khiếp nhược, tuy nhiên thầy cảm thấy bất lực trước những bức bách của bạo quyền đang đè nặng lên giáo hội Phật giáo thống nhất cũng như đồng bào. Giới trí thức Việt Nam nói chung lên tiếng chưa được nhiều, trí thức Việt Nam đa số còn mang nặng tinh thần " Sĩ khí rụt rè gà phải cáo ". Ðó là điều nhục nhã cho thân phận trí thức Việt Nam hiện nay. Ðất nước Việt Nam nói chung là bần cùng, lạc hậu mà giới trí thức nhắm mắt làm ngơ. Ða số trí thức đều hiểu rõ những gì xấu xa đang hiện diện, họ biết rõ từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới nhưng vì những ràng buộc quyền lợi mà họ đang có nên họ khiếp nhược xu phụ quyền thế một cách đáng nguyền rủa. Nếu trí thức không đứng lên thì quần chúng làm sao mà nổi dậy cho được. Ngày xưa , ý chí hùng mạnh chống ngoại xâm của nhân dân rất mạnh, nhưng rồi qua cuộc bể dâu, người dân ý thức được mình là thân phận nhược tiểu, số phận đất nước mình đều bị những thế lực quốc tế định đoạt, nên từ đó sinh ra tâm lý cầu an, chỉ muốn yên ổn, thế nào cũng được. Từ đó tạo lợi thế cho nhà nước muốn làm gì thì làm, người dân tuy bất mãn nhưng tiếng gọi tập hợp chưa đủ để xuống đường đấu tranh. Chế độ Cộng Sản như một bức tường đã mục, nhưng cần một ngón tay xô, một ngọn gió thổiâ thì bức tường mới sụp đổ chứ nếu không nó còn tồn tại lâu dài.

Ðất nước Việt Nam đã trải qua nhiều thập niên chiến tranh. Xương đã chất thành núi, máu đã chảy thành sông nên con đường hòa giải là con đường người Việt nhắm tới nhưng không thể chấp nhận chủ nghĩa độc tôn, độc quyền, độc đảng. Về cơ bản, người thanh niên bây giờ mất chí hướng, chỉ lo học hành kiếm bằng cấp để đi làm thuê cho ngoại quốc, số người có lý tưởng rất ít. Nhà nước ru ngủ thanh niên bởi những chương trình đá banh, thời trang. Thanh niên hầu như không quan tâm đến đồng bào đau khổ. Nhưng người nào thì cũng có lương tri và lương tri con người được coi như làn sóng ngầm lật đổ bạo quyền một cách bất ngờ khi lương tâm con người thức dậy. Người Cộng Sản có nhiều lỗi lầm và dân tộc sẵn sàng tha thứ, nhưng nếu cứ ngoan cố bám víu quyền lực độc tôn thì sẽ bị dân tộc đào thải một cách không thương tiếc. Phải làm sao để thanh niên hiện nay hiểu được cái nhục của thế hệ. Việt Nam ngày nay thua xa những nước láng giềng như Thái Lan, Mã Lai. Phải ý thức được vinh quang của một đất nước là như thế nào, thanh niên luôn luôn là tiền đồ của đấât nước, phải hiểu giá trị và phẩm giá con người là như thế nào, không thể sống vất vưởng, hưởng thụ, sống kiếp sống vô nghĩa lý thế này được nữa. Phải mở cánh cửa để thanh niên thấy tầm vóc lớn lao của họ thì đất nước mới có cơ may sánh vai với bè bạn khắp năm châu. Ðó là chuyện cần làm của thanh niên hải ngoại đối với thanh niên trong nước. Phải vững tin vào tương lai và vinh quang của dân tộc và coi đó như của chính mình. Nếu mình dấn thân vì những mục đích cao đẹp đó mà có bị nghiền nát thì cũng chẳng có hề gì cho nên phải can đảm đứng dậy. Lời cuối thầy Tuệ Sĩ nhắn với anh em sinh viên trong và ngoài nước là thầy sẵn sàng lót đường cho anh em tiến lên.

Trong kháng thư gửi cho Tổng bí thư Nông đức Mạnh và Thủ tướng Phan văn Khải, Thượng tọa Tuệ Sĩ đã khẳng khái nói lên sự quyết tâm của mình:

" .. Kháng thư hay bất cứ bản cáo trạng nào cũng không bao giờ được cứu xét bởi những người phải chịu trách nhiệm về sự bần cùng, lạc hậu của đất nước, cũng như những thối nát trong mức độ nào đó của guồng máy cai trị. Bởi vì, bạo lực không có lương tri và lý trí, cũng không bao giờ lắng tai nghe tiếng nói của lương tri và lý trí. Vì vậy, tôi sẽ nhờ các phương tiện truyền thông hiện đại để phổ biến những suy nghĩ của tôi đến với tất cả mọi con người, trong cũng như ngoài nước, mà lương tri chưa bị bôi đen bởi tham vọng đen tối. những điều tôi nói đúng hay sai, tôi biết bản thân tôi phải chịu trách nhiệm,và có thể phải chịu những hình phạt khổ nhục nhất. Trên hết, lịch sử sẽ không bao giờ tha thứ cho các phần tử trí thức mà nhân dân đã tốn nhiều công sức bồi dưỡng nhưng vì khiếp nhược, xu phụ quyền thế, mà phải câm miệng trước những bất công và thống khổ mà nhân dân phải âm thầm chịu đựng, cho nên, ở đây, tôi đặt tất cả sinh mạng và phẩm giá của một con người vốn không có bất cứ phương tiện nào, không có bảo vệ nào của của pháp luật, ngoài nhục hình và sự chết, trong bàn tay sắt của bạo lực chuyên chính. Tôi chấp nhận sự chết bởi sự trả thù của bạo lực chuyên chính, cũng như nhiều con người đáng kính và đáng phục khác đã chấp nhận, và đã chết, để cho lương tri và lý trí con người Việt Nam còn tồn tại trong ý nghĩa cao đẹp nhất của dân tộc.

...Tôi muốn tự mình dẫn thân đến trước cổng bạo lực chuyên chính, dù biết chắc sẽ bị nghiền nát trước khi thoáng thấy những bóng mờ trên chín tầng vời vợi của uy quyền tuyệt đối; tự dẫn thân đến đó để cáo tri cùng quốc dân đồng bào, bày tỏ sự hèn kém, bất lực của mình trước vô vàn thống khổ mà đồng bào phải âm thầm chịu đựng."

Nói đến thầy Tuệ Sĩ người ta không thể không nhớ đến gương mặt khắc khổ và thân hình gầy yếu của thầy. Nhưng đây là một con người có ý chí vô song. Năm 1988, thầy và thầy Trí Siêu bị đưa ra tòa ở Sài gòn và bị kết án tử hình vì " âm mưu chống phá lật đổ nhà nước " . Cộng Sản đưa đề nghị cho thầy và thầy Trí Siêu làm đơn xin chủ tịch nhà nước khoan hồng. Cả thầy và thầy Trí Siêu đều khẳng khái từ khước chuyện làm đơn xin khoan hồng. Rốt cuộc Cộng Sản không dám thi hành bản án dành cho hai thầy vì áp lực quốc tế. Thầy và thầy Trí Siêu được thả ra cách đây vài năm. Thầy thỉnh thoảng lên tiếng phê phán những hành vi sai trái nhà nước như chuyện tham nhũng bằng những bài viết gửi ra nước ngoài.

Nhà văn Nguyễn minh Cần trong cuốn sách " Công lý đòi hỏi " có một bài viết đề cập đến thầy Tuệ Sĩ nhan đề " Ðọc thơ tù của thầy Tuệ Sĩ" trong đó ông tỏ bày lòng kính mến đến vị cao tăng xuất sắc này. Bài viết có những đoạn chính như sau:

" Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt " viên ngọc quý " của nước nhà ( xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Ðào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976 : " Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam " ) để chà đạp xuống bùn đen... Ðọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Ðạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.

CÚNG DƯỜNG

Phụng từ ngục tù phạn
Cúng dường Tối Thắng Tôn
Thế gian trường huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn

Tạm dịch:

Hai tay dâng bát cơm tù
Cúng dường Tối Thắng Ðại Từ Thế Tôn
Cõi trần máu hận trào tuôn
Tay bưng bình bát lặng thầm lệ rơi

DẠ TỌA

Trục nhật lao tù sự cánh mang
Trung tiêu độc tọa đối hàn đăng
Không môn thiên viễn do hoài mộng
Quy lộ vô kỳ nhiệm chuyển bồng

Tạm dịch:

Ngày tù dằng dặc, việc triền miên
Ðêm tới ngồi yên, lạnh ánh đèn
Hình bóng chùa xưa còn nhớ mãi
Ðường về vô hạn, rối lòng thêm.

Càng nghĩ đến thầy, tôi càng thấy xót xa, càng kính phục đức độ cao quý của thầy. Nhưng thiết tưởng: chẳng riêng gì thầy Tuệ Sĩ, mà nhiều vị tăng sĩ khác của nước nhà, khi đứng trước cường quyền, cũng khi khi bị đày đọa trong tù ngục, đều đã nêu cao cái tâm đại từ, đại bi, đại hùng, đại lực sáng chói. Cái tâm đó hoàn toàn đè bẹp sự vô minh, độc ác và đê tiện của cường quyền, nêu cao chính nghĩa rực rỡ và chân lý sáng ngời của đạo pháp. Và đó chính là niềm tự hào lớn lao cho các bậc tu hành trong Giáo Hội Phật giáo truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Chắc chắn là khi các bạn tìm đọc lại những bài thơ tù của Hòa Thượng Thích Huyền Quang( xử lý văn phòng viện Tăng Thống) Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ ( viện trưởng viện Hóa Ðạo), đang bị giam cầm hoàn toàn phi pháp, thì cũng cảm nhận cái đức độ cao quý như vậy của quý thầy và cũng lấy làm hãnh diện là dân tộc ta có được những bậc thầy xứng đáng như thế.

Thiện Mẫn Nguyễn minh Cần (Công lý đòi hỏi). (Trích từ trang 303 đến 310).

Thiết tưởng những cảm nghĩa chân thành của nhà văn Nguyễn minh Cần đã nói lên đầy đủ con người trí thức bất khuất Tuệ Sĩ. Phải có những thành phần tinh hoa của dân tộc như thầy Tuệ Sĩ thì đất nước mới mong có ngày nhìn thấy ánh mặt trời sau bao nhiêu năm chìm đắm trong bóng tối u minh.

Trong những năm vừa qua những cuộc xuống đường ở Nam Dương, Nam Tư và mới đây là ở Phi luật tân, thành phần thanh niên sinh viên luôn là thành phần chủ động, quần chúng tham gia vào sau đó để rồi tập hợp được sức mạnh tiến lên quật ngã những bạo quyền thối nát, độc tài, tham nhũng, diệt chủng. Thanh niên luôn là lực lượng tiên phong vì họ có đủ nhận thức về tình hình đất nước và có bầu máu nóng sôi sục. Mới đây trong cuộc phỏng vấn với Ðài Á Châu tự do ngày 23 tháng 5 năm 2001, Hòa Thượng Quảng Ðộ đã nhận định rất chính xác sự thụ động của thanh niên Việt Nam vì đã trải qua bao nhiêu năm bị nhào nặn trong cái khuôn chủ nghĩa Mác nên họ giống hệt như nhau,chỉ biết răm rắp tuân lệnh, không được cãi lại. Ðảng Cộng Sản Việt Nam đã biến họ thành những con thỏ ngoan ngoãn chỉ biết ca tụng Ðảng. Họ sinh ra và lớn lên trong một môi trường như thế nên chẳng có thể làm gì khác hơn là thờ ơ với thời cuộc. Bức tranh chung của thanh niên Việt Nam hiện đại không được sáng sủa lắm, nhưng với xu thế toàn cầu hóa với những biến chuyển của thời đại, hy vọng thanh niên sẽ tạo được cho mình một vận hội mới, một thế đứng và tầm vóc mới để có thể làm nên một cuộc thay đổi hầu mang lại dân chủ, tự do và nhân quyền cho toàn thể dân tộc Việt Nam, trong đó có tự do tôn giáo. Chuyện này sớm muộn gì cũng đến với dân tộc Việt Nam.

Nhưng nói rằng thanh niên sinh viên Việt Nam hoàn toàn thụ động cũng không đúng. Ðã có tờ báo Thao Thức ra đời để nói lên nguyện vọng dân chủ và tâm tư đấu tranh của anh em sinh viên. Hiện nay tờ báo Ðứng Dậy của anh em sinh viên trong nước (www.dungday.tripod.com) vẫn tiếp tục hiện diện trên Internet để chuyển tải tin tức đấu tranh từ trong nước. Nhưng nói chung hoạt động của anh em còn yếu ớt, chưa đủ sức để tập hợp quần chúng đứng lên tranh đấu. Hy vọng anh em sẽ rút tỉa khuyết điểm của mình để có thể đề ra những chương trình đấu tranh hữu hiệu hơn trong những ngày tháng sắp tới. Ðiều cần thiết là thanh niên Việt Nam cần có lòng can đảm và tinh thần dấn thân là được. Có như thế, thì dân tộc Việt Nam mới thoát được cảnh áp bức, đọa đầy, bất công, nghèo đói, lạc hậu để tiến kịp với các nước văn minh trên thế giới.

Miền Nam mất vào tay Cộng Sản cho đến ngày hôm nay được 26 năm thì thầy Quảng Ðộ cũng chịu cảnh tù tội cũng gần 20 năm. Thầy và thầy Huyền Quang bị tù tội lưu đày chỉ vì tội không chịu gia nhập tổ chức Phật giáo quốc doanh của nhà nước. Thầy Quảng Ðộ đã có lần nói thật" Nếu nói chuyện cộng tác thì hai bên phải cùng có lợi, chứ gia nhập vào để làm tay sai thì gia nhập làm gì cho mệt." Sau khi thách thức nhà nước Cộng Sản Việt Nam bằng cách đưa ra những lời kêu gọi dân chủ hóa đất nước và đề ra chuyện đi giải cứu thầy Huyền Quang( ngày 7 tháng 6 năm 2001) Sài gòn trị bệnh, nhà nước Cộng Sản công bố quyết định quản chế thầy trong hai năm và gửi ngay một nhóm công an chừng vài chục người đến bao vây Thanh Minh thiền viện để chặn đứng chuyến ra đi Quảng Ngãi của thầy. Thầy đang sống cảnh giam hãm, tù tội trong thiền viện của mình. Nhà nước đã biến thiền viện của nhà tu thành nhà tù. Hy vọng các anh em sinh viên thanh niên, các Phật tử và ngay cả những người không phải là Phật tử sẽ đông đảo kéo đến Thanh Minh thiền Viện số 90 đường Trần huy Liệu, Quận Phú Nhuận, Sài gòn để giải vây cho thầy. Nếu có chừng vài ngàn đến vài chục ngàn người bao quanh Thanh Minh thiền viện để đấu tranh đòi tự do cho thầy Quảng Ðộ thì coi như phá được vòng vây của Công an đang giam hãm thầy. Có làm được chuyện này thì coi như tiến được một bước rất lớn trên con đường đấu tranh. Hiện nay mọi phương tiện truyền thông trong nước ( báo, đài phát thanh) đều ở trong tay nhà nước nên bổn phận những người đấu tranh là phải phổ biến tin tức bằng những hình thức rỉ tai, phổ biến bằng photocopy, để có thể tập hợp số đông người vào chuyện đấu tranh.

Một người sống nhiều năm trong xã hội ở Miền Bắc là nhà văn Dương thu Hương cũng đưa ra nhiều lý do để giải thích cho sự thụ động của dân chúng, chưa dám xuống đường đấu tranh dù bị áp bức, bóc lột bởi nhà nước Cộng Sản trong nhiều năm trời. Trong cuộc phỏng vấn mới đây với phóng viên Ðinh quang anh Thái của đài Little Sai gon, nhà văn Dương thu Hương đưa ra những nhận định như sau:

" .....Còn về Xã Hội Chủ Nghĩa thì những người nào không ngu lắm cũng đều biết rằng chủ nghĩa này chỉ là câu nói đầu lưỡi. Tại sao giới lãnh đạo Ðảng nói thế? Họ nói thế vì họ dựa vào sự hèn hạ,sự hèn nhát của dân chúng. Dân chúng sợ hãi họ vì bản thân của chế độ này là chế độ dựa trên nòng súng theo đúng nguyên tắc của Lê Nin, cho nên người dân vì sợ hãi mà phải hèn nhát cúi đầu, cho dù dân chúng biết rằng, cả người nói và người nghe đều biết những điều ấy là những điều giả dối. Người nói thì trơ tráo vô liêm sỉ, còn người nghe thì vì sợ hãi nên đành nuốt nước bọt thôi..

... Tóm lại, không có gì đáng bàn về cái thứ Chủ Nghĩa Xã Hội, tất cả chỉ là trò lừa bịp của danh từ và sự lừa bịp này còn tồn tại vì nó dựa trên hai vế. Vế thứ nhất, kẻ cầm quyền thì dùng sức mạnh và bạo lực đàn áp dân chúng, còn vế thứ hai là dân chúng cam phận, hèn nhát vì sợ bạo lực và vì tinh thần nô lệ nó đã tẩm nhiễm quá lâu rồi.

.... Tôi chắc là nếu tâm lý của tôi mà phổ biến trong hàng ngũ đó thì chế độ này đã bị lật đổ từ lâu rồi. Và họ cũng nhìn rõ như tôi thì không thể tồn tại mãi cái chính quyền dựa trên nòng súng như thế này được. Tôi không khinh bỉ con người đâu, có điều là con người chúng ta nói chung, thường an phận và có lẽ bản chất con người bao giờ cũng nương theo phe mạnh, bản chất con người bao giờ cũng tìm những lý lẽ để bào chữa cho mình để được sống còn. Cho nên không phải là ít người đã nhìn ra cái khía cạnh phi lý của cuộc chiến tranh, không phải là ít người đã khám phá ra chế độ Cộng Sản là chế độ man rợ và phi nhân đâu, nhưng nói chung con người là hèn yếu, gió chiều nào che chiều ấy. Cho nên để nói ra miệng thì cũng khó, nhất là người Việt Nam hay nghĩ vụng, nghĩ lén, chứ bảo họ nghĩ thẳng thắn thì cũng khó.

.... Ðiều thứ nhất, cuộc chiến tranh vừa rồi nó quá khốc liệt, người chết quá nhiều, chết vì bom đạn, vì đói ăn, chết vì căn bệnh tâm thần v..v.Khi nó quá khốc liệt thì nó như một cái lò làm cho nhiều thế hệ tan chẩy trong đó. Con người là hữu hạn, cuộc đời là hữu hạn, và sức lực của con người cũng hữu hạn, lòng can đảm của con người cũng hữu hạn. Tóm lại, con người mới là một thực thể rất dễ dao động, vì thế khi đã ra khỏi lò lửa chiến tranh thì rất dễ nẩy sinh tâm lý dầu sao thì sống vẫn hơn chết. Người Việt Nam mình, nghĩa là cả tôi lẫn ông nữa ( ý nói người phỏng vấn ), dũng cảm bao nhiêu trong chiến tranh thì hèn nhát bấy nhiêu trong hòa bình, đó cũng là tâm lý dễ hiểu. Là vì họ đã khổ đau, họ đã lội qua địa ngục rồi nên thà họ cam chịu sự thống trị của một chính quyền hà khắc để còn được tồn tại, còn ăn được miếng cơm với nước mắm hơn là chết. Người Việt Nam dễ hài lòng, và vẫn chưa ý thức được quyền sống, chưa ý thức được về nhân phẩm, chúng ta không thể đòi hỏi những người quá nghèo khổ có ý thức được về quyền tự do, một thứ quyền xa xỉ phẩm mà phải ở cấp độ nào đó, người ta mới yêu được tự do, còn khi người ta đói quá thì người ta chỉ cần một bát cơm chan nước mắm cua hoặc một tý muối ớt, một tí mỡ chan vào cơm là đủ qua ngày rồi. Người Việt Nam trong suốt cuộc chiến tranh đã sống cùng khổ như thế cho nên là khi đã lội qua địa ngục thì phải rất lâu người ta mới hồi phục lại cuộc sống bình thường như là các dân tộc khác. Ðấy là mặt tâm lý.

Ðiều thứ hai, đất nước chúng ta chịu cảnh chiến tranh liên miên nên nó sản sinh ra hai loại tâm lý con người. Tâm lý của lớp tướng và tâm lý của lớp quân sĩ. Chiến tranh dạy cho con người ta tâm lý tuân lệnh. Thái độ tuân lệnh là một gông cùm đào tạo ra phẩm chất nô lệ. Cho nên sau khi hòa bình, lập tức người lính rất ngoan cường trong chiến tranh đã trở thành những công dân hèn nhát. Họ chưa có khái niệm về quyền công dân, chưa có tri thức để làm một công dân như công dân của các nước tự do.

Ðiều thứ ba là thói quen tuân lệnh, tuân lệnh đã tẩm nhiễm vào tâm hồn họ rồi cho nên họ chỉ trở thành những người lính trong thời bình, nghĩa là những kẻ hèn, chỉ biết cúi đầu tuân lệnh mà thôi. Những người lính này sẽ ra lệnh cho con cái của họ, hoặc những kẻ yếu thế hơn họ. Nói cách khác, tâm lý đó là, hoặc là làm xếp những người bên dưới, hoặc là làm con ở, đầy tớ cho những thằng bên trên. Một dân tộc mà mang cái tâm lý song trùng đó thì rất khó trở thành một dân tộc có tự do, dân chủ, bởi vì muốn có tự do dân chủ thì xã hội phải hình thành được những người công dân tự do, biết quyền của mình, biết mình được hưởng những gì và như thế họ phải có ý thức về quyền công dân đã. Và lúc đó họ mới khao khát làm công dân.

.... Tôi cũng không dám lạc quan lắm. Bởi vì dân tộc ta gần 90 % là dân cày, cho nên không thể đòi hỏi những người nông dân một sớm một chiều có ý thức về quyền công dân được. Tất cả mọi việc đều phải cần thời gian. Những người nông dân chỉ đòi hỏi một lãnh chúa, một minh chúa thôi. Còn muốn dân chủ thì cần có tri thức về xã hội, về quyền sống của con người và tri thức về quyền công dân. Chúng ta phải tập, phải chờ đợi. Tất nhiên tôi cũng không đến nỗi tuyệt vọng. tôi nghĩ bây giờ với phương tiện của văn minh tràn vào Việt Nam, dù muốn hay không muốn thì Cộng Sản không thể giữ được cái chế độ ngu dân tuyệt đối như trước nữa. Bây giờ đã có TV, có radio, bây giờ nhân dân người ta đã nghe đài của các ông, đài VOA, đài RFI, đài RFA v..v. cũng nhiều rồi, không đến nỗi người ta bị học mù mắt, bị bịt tai như ngày xưa đâu. Thành ra người dân cũng tỉnh ra, nhưng cũng cần phải có thời gian, không thể đốt cháy giai đoạn được."

Những lời nhận xét của Dương thu Hương tuy tàn nhẫn, đau lòng nhưng không phải là không có lý. Vấn đề dân chúng tại sao thụ động đã phân tích rõ ràng rồi, chuyện còn lại của những người đấu tranh là phải làm sao giúp dân chúng vượt qua những quán tính ù lì nhu nhược đó để đứng lên giành lại quyền sống cho mình. Ðất nước Việt Nam là của mọi công dân Việt Nam chứ không phải là của một thiểu số cầm quyền Cộng Sản. Không thể để chúng muốn làm gì thì làm, muốn đày đọa ai thì đày đọa. Khi người dân được giác ngộ chuyện đứng dậy đương đầu với bộ máy đàn áp của chính quyền Cộng Sản là chuyện trực tiếp đem lại quyền lợi cho chính bản thân họ thì họ sẽ mạnh dạn dấn thân hơn.

Tiến sĩ Nguyễn thanh Giang trong một cuộc phỏng vấn đầu năm 2001 với phóng viên Ðinh quang anh Thái của công ty Kicon thì cho rằng lúc người dân không chịu đựng nổi nữa thì họ sẽ đứng dậy để giải quyết bài toán của đất nước. Nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là chừng nào mới là thời điểm mà người dân không chịu đựng nổi nữa. Nếu những người tranh đấu không có kế hoạch tranh đấu để lôi kéo người dân đứng dậy thì đất nước còn chìm đắm trong nghèo đói, đau thương không biết đến bao giờ.

Trên đây là những ý kiến của thầy Tuệ Sĩ, thầy Quảng Ðộ, nhà văn Dương thu Hương, và tiến sĩ Nguyễn thanh Giang nhận xét về sự thụ động của người dân Việt Nam. Họ vẫn tiếp tục chịu đựng do những điều kiện xã hội và hoàn cảnh quá khứ tạo nên. Vấn đề của những người tranh đấu là phải làm sao cho người dân phá bỏ nỗi sợ, hiểu rõ được quyền làm người của mình thì những gì tới sẽ phải tới . Gông xiềng của chế độ Cộng Sản đã mục nát, chỉ cần khí thế của hàng trăm, hàng ngàn người xuống đường là coi như ngày tàn của Cộng sản đã tới. Chế độ tàn độc của chúng phải cáo chung để nhường lại cho một chính quyền do dân bầu lên, phục vụ thật sự cho quyền lợi của nhân dân và đất nước.

Cách đây gần 30 năm, ngục sĩ Nguyễn chí Thiện đã mẫn cảm nhận ra lý do im lặng nhẫn nhục của người dân. Trong bài trường thi bất hủ " Ðồng lầy " làm năm 1972 ông đã suy nghiệm ra nguyên nhân sâu xa của sự im lặng của nhân dân Việt Nam trước sự đàn áp, bóc lột của chế độ Cộng Sản thật ra chỉ vì người dân giả đui ,điếc chứ không phải là họ không hiểu được những gì đang xảy ra chung quanh:

" Song bạo lực cũng đành bất lực
Trước sự chán chường tột bực của nhân tâm !
Có những con người giả đui điếc thầm câm
Song rất thính và nhìn xa rất tốt
Ðã thấy rõ ngày đồng lầy mai một
Con rắn hồng dù lột xác cũng không
Thoát khỏi lưới trời lồng lộng minh mông !
Lẽ cùng thông huyền bí vô cùng
Giờ phút lâm chung quỷ yêu làm sao ngờ nổi!
Rồi đây
Khi đất trời gió thổi
Tàn hung ơi, bão lửa, trốn vào đâu? Bám vào đâu?
Lũ chúng bây dù cho có điên đầu
Lo âu, phòng bị
Bàn bạc cùng nhau
Chính đám sậy lau
Sẽ thiêu tất lũ bây thành tro xám !
...Bây có hay sậy lau gặp lửa
Còn bùng to hơn cả đề, đa
Những con người chỉ có xương da
Sức bật lật nhào, tung hết !

(Ðồng lầy -1972)

Những người dân ốm yếu chỉ có xương da nhưng khi họ đã đứng dậy thì sẽ có sức mạnh vô song, lật nhào cả chế độ. Sống trong chế độ dối trá đến tận cùng, họ phải che dấu những cảm xúc của mình, phải dấu diếm, giả đui, giả điếc để bảo toàn thân mạng. Nhưng họ sẽ sẵn sàng dấn thân khi đất nước chín mùi, khi thời cơ đến. Bổn phận của những người đấu tranh là phải tạo ra thời cơ, tạo cơ hội cho những biến động có thể xảy ra chứ không nên ngồi đó mà trách móc người dân thờ ơ, thụ động. Con giun xéo mãi cũng quằn, sự tức tối của người dân đến độ vỡ bờ và họ đang nghe ngóng chờ đợi sự biến động nổ ra bất ngờ để cùng nhập cuộc.

Cách đây chừng mười mấy năm, để cứu sống chế độ sau khi Liên Xô sụp đổ và sự viện trợ Trung Cộng cũng không còn vì Việt Cộng và Trung Cộng đã gây hấn và đánh nhau trong trận chiến biên giới năm 1979. Mất hai bầu vú sữa của hai đàn anh, Trường Chinh lúc đó đã đề ra câu khẩu hiệu " Ðổi mới hay là chết " , chính sách đổi mới lúc đầu quả thật đã đem lại sinh khí cho nhà cầm quyền nhưng ngày càng đi xuống vì Cộng Sản chỉ chủ trương nới lỏng về kinh tế chứ không nới lỏng chính trị. Và không thể có chuyện phát triển kinh tế mạnh được khi bộ máy chính trị còn đè nặng lên trên những đề án, đầu tư, kìm hãm không cho nó phát huy hết tiềm năng phát triển của nó. Cho đến giờ phút này thì người ta có thể nhận xét về chính sách đổi mới của Cộng Sản là " Ðổi mới.. rồi cũng chết!". Chứ nếu đổi mới kinh tế đi đôi với cải tổ chính trị thì có lẽ Cộng Sản Viêt Nam không rơi vào tình cảnh rối ren, suy sụp như hiện nay.

Tháng 12 năm 2000, Linh mục kiên cường Nguyễn văn Lý cho treo lên trên nhà thờ Nguyệt Biều câu khẩu hiệu " Tự do tôn giáo hay là chết". Linh mục Lý giờ này đang bị tù đày, giam hãm, nhưng ngọn lửa đấu tranh do cha nhen nhúm lên vẫn còn cháy sáng và sẽ hòa đồng ngọn lửa đấu tranh của thầy Quảng Ðo, để rồiä cùng những ngọn lửa của những thành phần đấu tranh khác của dân tộc, đến một ngày nào đó những ngọn lửa đấu tranh này sẽ cộng hưởng tạo thành một núi lửa đốt cháy bạo quyền Cộng Sản Việt Nam.

Lịch sử Việt Nam và thế giới đã cho thấy rằng quần chúng luôn là người làm nên lịch sử, nhưng quần chúng luôn thụ động và cần được sự hướng dẫn, dìu dắt trong chuyện đấu tranh. Một thùng thuốc súng, một thùng xăng không thể tự nổ bùng, bốc cháy mà cần phải có ngòi nổ, mồi lửa. Bổn phận của những người lãnh đạo đấu tranh là phải vận động tập hợp quần chúng và trao ngòi nổ cho họ. Phải nghiên cứu tình hình để làm cho đúng nơi, đúng lúc. Làm quá sớm cuộc đấu tranh sẽ bị dập tắt, thất bại; làm quá trễ thì nhiệt tình đấu tranh của quần chúng bị hao tán đi và bạo quyền có thêm thời gian để củng cố guồng máy cai trị. Ăn thua là sự tài giỏi của những người lãnh đạo đấu tranh, biết tiến biết thối đúng lúc nhằm đem hiệu quả nhiều nhất cho cuộc đấu tranh.

Chế độ Cộng sản Việt Nam như một bức tường đang mục nát, rệu rã từng ngày. Cần phải có một ngọn gió hay một bàn tay để xô ngã bức tường này. Ngày mà cả triệu người cùng đứng lên xuống đường để góp một bàn tay, tạo một luồng gió để đẩy sập bức tường chế độ mục rã này theo sự đưa đường chỉ lối của những người lãnh đạo đấu tranh là ngày tổ quốc Việt Nam bước ra khỏi cơn đau.

Lawndale, một tối đầu hè oi bức, nóng nực trung tuần tháng 6 năm 2001
Trần Viết Ðại Hưng