ÐẠT LAI LẠT MA TRƯỚC THIÊN NIÊN KỶ MỚI

TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG



 
  Vào năm 1935, một đứa trẻ được sinh ra trong một gia đình nông dân ờ trong vùng Ðông Bắùc Tây Tạng. Lúc đứa bé được hai tuổi, có những sư sãi đã đến làng bé và tin rằng họ sẽ kiếm được sự hóa thân của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma vừa mới qua đời. Ðứa bé nhận ra những món đồ thuộc về Ðức Ðạt Lai Lạt Ma mới mất và đứa bé ấy trở nên Ðạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn.

  Ðức Ðạt Lai Lạt Ma hoàn thành tất cả những học tập về giáo lý lúc ngài bước vào lứa tuổi 24. Nhưng rồi quân Tàu đe dọa xâm lăng Tây Tạng và vị lãnh đạo tinh thần bắt buộc phải lưu vong để nắm giữ quyền lực chính trị. Vào thập niên 1950 ngài rán tìm kiếm một giải pháp hòa bình với quân xâm lăng Trung Cọng, nhưng quân Tàu vẫn giữ nguyên ý định " giải phóng" Tây Tạng. Vào năm 1959, lúc quân Tàu xâm lăng đánh bại sự phản kháng của quân Tây Tạng, Ðạt Lai Lạt Ma lên đường lưu vong sang Ấn Ðộ cùng chung với 80000 đồng bào Tây Tạng của ngài.

  Trong vòng bốn mươi năm qua,ngài đã trở nên một biểu tượng của một nước Tây Tạng tự do, của sức sống của Phật Giáo Tây Tạng và sức mạnh bất bạo động.

  Năm 1989, ngài được trúng giải Nobel hòa bình.

 Trong một căn đền màu vàng nằm cạnh một con đường núi ở vùng Bắc Ấn Ðộ, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đang nhìn về hướng Bắc dãy Hy Mã Lạp Sơn, là hướng quê nhà Tây Tạng của ngài. Vùng này trước đây vốn là vùng thuộc địa của Anh Quốc. Ðạt Lai Lạt Ma đang thiền định về cái chết sau cùng phải đến của ngài và con đường tái sinh sau đó. Toàn bộ ngôi đền này có chừng 200 sư sãi trông giống như một trại hè cuối mùa. Trong vòng hơn 40 năm qua , vùng phía trên Dharmsala là cái nôi của chính phủ Tây Tạng lưu vong. Nhưng nếu Trung Cọng muốn ngài về thì ngài sẵn sàng giã từ vùng " tiểu Lhasa" này để trở về Tây Tạng ngay vào ngày mai.

  Dĩ nhiên đối với người Phật Tử, đời sống vốn dĩ vô thường: đó là sự hiện hữu của nghiệp giữa những lần tái sinh thành công để từ đó họ có thể tìm kiếm sự giải thoát cuối cùng. Nhưng đối với ngài Ðạt Lai Lạt Ma Tenzin Gyatso, sự giải thoát bao gồm sự tự do trong cuộc đời này từ vai trò chính trị của vị Ðạt Lai Lạt Ma thứ 14. Ngài nói" Tôi năm nay được 64 tuổi rồi, tôi còn hoạt động chừng 15 năm nữa. Sau đó thì già quá rồi. Tên tuổi và sự quen thuộc của tôi sẽ hữu hiệu trong những lãnh vực khác như làm thăng tiến giá trị con người và của sự hòa đồng giữa những tôn giáo trên thế giới. Thật là một điều khôn ngoan nếu năng lực của tôi sẽ được dâng hiến vào những điều đó thay vì cứ dậm chân tại chỗ với chức vị Ðạt Lai Lạt Ma.

  Thật ra, mười năm sau khi ngài đoạt giải Nobel Hòa Bình, ngài Tenzin Gyatso đã trở nên một Lạt ma không chính thức đối với thế giới. Ngài chính là gương mặt của Phật Giáo mang, đặc biệt ở phương Tây. Với ảnh hưởng trải xa ngoài 6 triệu tín đồ Tây Tạng của ngài, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã cố gắng dành hết những năm tháng cuối cùng của đời ngài để tiến tới một cộng đồng lớn lao rộng rãi hơn. Cho tới bây giờ là năm 1999, ngài đi hành hương từ những vùng đất thánh như Jerusalem tới những thành phố lớn như Luân- Ðôn để rao truyền sự khôn ngoan của Ðức Phật. Cuốn sách " Nghệ thuật của hạnh phúc" ( The Art of Hapiness) đã nằm trong danh sách của sách bán chạy( best-seller) của báo New York Tiems trong suốt 29 tuần lễ liên tiếp. Cuốn sách " Ðạo Lý cho Thiên Niên Kỷ mới" (Ethics for the New Millennium) của ngài cũng là một cuốn sách bán chạy nhất trên đất Mỹ. Nụ cười bao dung, tiếng cười sảng khoái, cung cách khiêm tốn và thái độ ứng xử không phê phán của ngài đã làm cho ngài trở thành một gương mặt hiền hòa và yêu mến nhất trên sân khấu tôn giáo của thế giới. Giờ đây ngài nói ngài muốn đềå cập đến những bệnh hoạn của thế giới một cách trực tiếp từ kiến thức và kinh nghiệm của riêng ngài.

  Nhưng liệu có ai nghe những lời nói của ngài Tenzin Gyatso lúc ngài không còn là Ðạt Lai Lạt Ma ? Liệu ngài có thể tách chính trị từ quyền lực tôn giáo của ngài không? Ngài cười lớn khi nghĩ đến điều đó và nói" Bạn thấy đó, tôi chỉ là một vị sư. Ðôi khi trong giấc mơ, tôi có những hành vi bạo động hay gặp gỡ đàn bà. Rồi trong giấc mơ tôi nhớ rằng tôi là một vị sư. Không lúc nào trong giấc mơ mà tôi nhớ tôi là Ðạt Lai Lạt Ma. Ðạt Lai Lạt Ma không có vẻ quan trọng gì cả."

  Tuy nhiên, dù trong giấc mơ, Ðạt Lai Lạt Ma không bao giờ từ bỏ chức vụ của ngài là người cầm đầu quốc gia Tây Tạng ngày nào mà Trung Cọng còn kiểm soát quốc gia của ngài. Chính phủ lưu vong của ngài có hiến pháp kêu gọi một chính phủ dân chủ tự trị. Ngài nói với Bắc Kinh rằng nếu họ cho Tây Tạng được quyền chính trị và văn hóa được tự trị, ngài sẽ tổ chức một cuộc bầu cử  để quyết định cơ cấu hành chánh của Ðạt Lai Lạt Ma ngay lúc ngài trở về. Nếu người dân Tây Tạng chọn dân chủ, ngài sẽ ngay tức khắc trở thành công dân Gyatso, và như thế sẽ chấm dứt 350 năm truyền thống Ðạt Lai Lat Ma cai trị quốc gia. Ngài nói thêm," Tôi không muốn duy trì cơ cấu Ðạt Lai Lạt Ma nhưng chỉ có nhân dân Tây Tạng là có thể hủy bỏ nó mà thôi."

  Người Tàu muốn chơi trò chính trị về cái chết và sự tái sinh của Phật Giáo. Họ vừa mới nắm trong tay người tái sinh của Lạt Ma Panchen, một khuôn mặt quyền lực tôn giáo cao thứ hai sau Ðạt Lai Lạt Ma, và thay người tái sinh này bằng một người của phe họ. Các viên chức Tàu cho biết Ðức Ðạt Lai Lat Ma kế tiếp sẽ được sinh ra ở Tây Tạng- và như thế là sẽ ở dưới sự kiểm soát của họ. Nhưng ngài Ðạt Lai Lat Ma Tenzin Gyatso đã phản ứng như sau" Nếu tôi mất đi trong khi lưu vong, Ðạt Lai Lạt Ma kế tiếp sẽ xuất hiện ở bên ngoài Tây Tạng và cộng đồng Tây Tạng sẽ chọn người này để kế vị cho tôi. Rõ ràng như vậy. Cái mục đích của sự tái sinh là để hoàn thành trọn vẹn những chính sách đã được đề ra nhưng chưa hoàn thành xong của vị Ðạt Lai Lạt Ma tiền nhiệm."

  Nhưng vấn đề siêu hình học của sự tái sinh có vẻ không phức tạp bằng vấn đề chính trị của nó. Trung Cọng đã chế nhạo Ðức Ðạt Lai Lạt Ma bằng cách đề nghị ngài nên tái sinh như " một người phương Tây mắt xanh". Sự chế nhạo này làm cho Ðạt Lai Lạt Ma cười ròn rã. Ngài nói," Có thể lắm chứ. Ðạt Lai Lạt Ma kế tiếp có thể là người da đỏ hay Âu Châu hoặc Da đen- ngay cả có thể là một người đàn bà. Thân thể không phải là vấn đề."

  Bên ngoài chỗ Ðạt Lai Lạt Ma ở, có một nhóm phụ nữ Tây Tạng già thuần thành vây quanh giống đang làm lễ nhập quan cho Ðức Phật. Ðối với họ, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma chính là Ðức Phật, hóa thân từ vị bồ tát tình thương vồn là một vị thần linh của Tây Tạng. Vì lý do này mà có nhiều người nói với ngài là dân Tây Tạng không bao giờ coi ngài là một công dân bình thường cả. Trong thế giới Phật Giáo Tây Tạng,nơi mà sự tái sinh thường bị nghi ngại nhiều hơn là được tiếp đón niềm nở bởi những người trí tuệ chưa được cao thâm cho lắm thì cái lý lịch hơn người thường của Ðạt Lai Lạt Ma là một nguồn hy vọng tinh thần không thể thay thế được. Gần như hàng tháng, có những người đàn ông trẻ quên đi sự nguy hiểm tính mạng để vượt qua dãy Hy Mã Lạp Sơn hiểm trở  để đến với Ðức Ðạt Lai Lạt Ma . Ðối với họ, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma Tenzin Gyatso sẽ luôn là một người khác xa một vị sư bình thường.

  Ngài thú nhận rằng vì mang nhiều lý lịch quả là một vấn đề phức tạp, đây là một bí mật của những cuộc đời trước đây mà ngài rán tìm ra manh mối. Ðạt Lai Lạt Ma đầu tiên được coi là sự hóa thân của vị Bồ Tát tình thương vốn là vị bồ tát thứ năm của Sự Khôn Ngoan. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn cho rằng ngài là một người tầm thường. Ngài tin những vị Ðạt Lai Lạt Ma tiền nhiệm đã hóa thân vào những hình tướng khác nhau nhưng có cùng chung phẩm chất ( nghiệp). Có người hỏi ngài rằng ngài đã là một vị bồ tát, thế có nghĩa là ngài đã có đủ năng lực tinh thần để quyết định nơi chốn và thời điểm lần tái sinh kế tiếp của ngài. Ngài trả lời rằng ngài chưa đủ năng lực ấy. Mỗi buổi sáng trong đời, ngài bắt đầu một ngày mới bằng cách thức dậy vào lúc 3 giờ 30 sáng và thiền định về cái chết và sự tái sinh của ngài. Tại sao ngài phải làm như vậy? Bởi vì ngài vẫn muốn có sự tăng tiến tinh thần trong người mình. Bản chất ngài vẫn là bản chất của một nhà sư.

  Là một Lạt Ma, dầøu vậy ngài cũng là thầy dạy về Phật Giáo Tây Tạng. Ngài là học sinh của 17 vị thầy khác nhau, ngài đã trở thành một tiếng nói cho sự uy tín của đạo pháp hay sự giảng dạy. Ðối với những người tây phương học thiền , ngài cho biết rằng thiền định (Meditation) tách rời khỏi vấn đề luân lý mà nó vốn có chức năng hỗ trợ. Ngài nhấn mạnh cái mục đích chính yếu của thiền là để tạo sự kỷ luật cho tâm trí và giảm bớt những xúc cảm đau buồn, ưu phiền. Ðạt Lai Lạt Ma cũng chống đối sự phá thai, sự ngừa thai và phê phán những người cổ võ chuyện trợ tử( euthanasia), nghĩa là những người muốn chích thuốc cho những người đau ốm cùng kiệt được chết. Về những chuyện này thì ngài cũng giống như luận điểm của Giáo Hoàng từng tuyên bố. Và dù ngài tôn trọng lối sống của những người đồng tính luyến ái( gay and lesbian), ngài phê phán những hành vi đồng tính luyến ái là đi ngược lại những nguyên tắc đạo đức của Phật Giáo.Năm 1997, trong lúc giảng dạy tại San Franscico,ngài ngạc nhiên khi bị một số Phật tử đồng tính luyến aí phê phán ngài.

  Ðạt Lai Lạt Ma Tenzin Gyatso thường không ngạc nhiên lắm về những vinh quang đến với ngài. Những gì ngài chưa mường tượng được là cuộc sống 40 năm tại Ấn Ðộ của ngài đã biến vùng Dharmsala thành vùng đất thánh cho những kẻ hành hương đi đến. Có lẽ vì Ðạt Lai Lạt Ma chăng? Ngài tự hỏi như vậy. Ý nghĩ này làm cho tâm trí Phật của ngài suy tư khá nhiều. Ðối với ngài, vùng đất tạm trú Dharmsala không phải là nhà và nơi này sẽ chẳng bao giờ là nơi linh thiêng cả. Ngài là Ðạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn và là vị Ðạt Lai Lạt Ma đầu tiên mạo hiểm đi ra ngoài Tây Tạng.

  Dần dần ngài nhận thấy vai trò của ngài có tính chất toàn cầu. Ðạt Lai Lạt Ma đã là người cổ súy nhuần nhuyễn cho sự hiểu biết về tôn giáo. Ngài đã có những phê bình có tính chất Phật giáo về Phúc Âm để trao đổi với những người tu hành Thiên chúa giáo, thảo luận vấn đề Huyền bí học với các học giả Hồi Giáo và khẩn thiết yêu cầu những sư sãi dưới quyền ngài hãy bắt chước " những anh chị em Thiên chúa giáo" trong chuyện chuyển biến lòng nhiệt thành Phật giáo vào những hoạt động xã hội cụ thể. Như một người hành hương, ngài đã thăm viếng những nhà thờ Thiên chúa giáo ở Lộ Ðức( Lourdes), những ngôi đền thờ Ấn giáo tại thành phố thánh Varasani và vẫn muốn có hy vọng sẽ làm một cuộc hành hương tới thánh địa Mecca của Hồi giáo. Chưa có một gương mặt tôn giáo nào mà cố gắng tìm hiểu lòng mộ đạo sâu xa của những tín đồ tôn giáo khác như ngài. Phật giáo cũng khó tìm được một gương mặt có sức thuyết phục hơn. Tuy vậy ngài luôn khiêm tốn tự nhận xét mình là một vị sư Phật giáo không hơn không kém.

    Suốt gần bốn mươi năm qua kể từ ngày quê nhà bị quân Trung Cọng xâm lăng, ngài sống kiếp lưu vong đau đớn, buồn tủi như hai triệu người Việt lưu vong chúng ta hiện nay. Thỉnh thoảng ngài cũng có phê phán những chính sách tàn bạo và việc làm dã man của Trung Cọng đối đồng bào và quê hương ngài nhưng thù hận thì không. Chưa bao giờ ngài phát biểu một câu nói mang tính chất thù hận độc ác đối với những kẻ xâm lăng, hành hạ dân tộc và đất nước ngài. Ngài đi cổ súy và dậy dỗ tình thương, phá bỏ sự thù hận thì bản thân ngài là tấm gương rõ ràng minh bạch nhất về những điều ngài giảng dạy.Chủ trương hành xử trong cuộc đời của ngài là bất-bạo- động, cho dù để đối phó với bất cứ tình huống nào trong đời, từ chuyện nhỏ nhặt cá nhân đến chuyện trọng đại của một quốc gia. Cái nụ cười hề hề cố hữu của ngài cũng đủ nói lên cái tâm trong sáng vô nhiễm của ngài. Ngài đúng là một vị Phật sống trên cõi đời hiện tại này mà ai ai trên thế giới cũng đều phải công nhận.

                                                                                     *  *  *

    Mới đây , qua một bài báo đăng trên tạp chí Asia Week số đặc biệt cho thế kỷ 21 với tựa đề " Cân bằng sự tiến bộ vật chất với sự phát triển tâm linh để đạt thành công thật sự" , Ðạt Lai Lạt Ma đã gửi cho nhân loại một thông điệp hòa bình đại ý như sau:

   " Chúng ta hãy sống khôn ngoan, lương thiện, nhân ái, trau dồi nhân phẩm, sống có Ðức tin hòa đồng thương yêu, thông cảm tương trợ nhau, sống sao cho nội tâm được bình an không sợ hãi.

  Thiên niên kỷ mới đang tiến tới, thế giới của chúng ta đòi hỏi chúng ta nên chấp nhận sự hợp nhất toàn cầu. Trong quá khứ, những cộng đồng cô lập chỉ nghĩ đến mình trên căn bản tách rời. Có cộng đồng hiện hữu nhưng hoàn toàn cô lập. Nhưng ngày nay, những gì xảy ra trong vùng này đều ảnh hưởng đến vùng khác. Trong sự sống liên đới tùy thuộc nhau này, rõ ràng quyền lợi riêng nằm trong sự quan tâm về quyền lợi của những người khác ở xa mình.

  Thế giới ngày nay liên kết liên đới chia xẻ quyền lợi chung vì những vấn đề rắc rối và xung đột trên thế giới xảy ra vì chúng ta đánh mất cái nhìn về nhân loại trong đó chúng ta sống gắn bó đoàn kết với nhau như một gia đình. Chúng ta quên rằng dù khác sắc tộc, tôn giáo hay lý tưởng, con người đều chia sẻ chung một ước mơ là sống hòa bình và hạnh phúc mà hòa bình và hạnh phúc chỉ có thể đạt được từ chính chúng ta. Chính chúng ta phải có trách nhiệm tạo ra hòa bình trong phạm vi hoạt động của riêng mình. Ðừng nói hay suy nghĩ suông hoặc chờ người khác mang tới. Muốn có hòa bình và hạnh phúc thì ta phải dấn thân hành động, phải nỗ lực gánh trách nhiệm chung. Muốn có tự do phải tranh đấu. Chúng ta cần hành động tùy khả năng và trí thông minh mà trời ban riêng cho mỗi người,biết mình biết ta và thấu hiểu thế giới chung quanh ta. Phải nhớ rằng mục tiêu của cuộc đời là sống vui vẻ. Khi chúng ta càng quan tâm đến tha nhân thì càng cảm thấy bản thân mình sống lành mạnh.

  Phát triển tình thương và sự thông cảm là một điều không phải là dễ. Tình thương là một mãnh lực vô song, là nguồn gốc của mọi thành công thật sự, là dấu hiệu của sức mạnh tâm linh. Ðể có tình thương chúng ta chỉ cần phát triển những giá trị căn bản của con người. Phải nhận thấy rằng những người có đức tin tôn giáo thường hy sinh hạnh phúc của riêng mình để phụng sự đồng loại. Truyền thống của những tôn giáo đều có những chủ trương tương tự nhau và tự cảm thấy có trách nhiệm trước nhân loại. Triết lý vị tha bao giờ cũng là chủ đích quan trọng nhất trong sự hành đạo của mọi tôn giáo. Mỗi con người đều có tính khí và sự quan tâm khác nhau nên các tôn giáo cũng nhấn mạnh đến những triết lý và cách hành đạo khác nhau. Chủ tâm của các tôn giáo là làm sao đạt được lợi ích cá nhân cùng tập thể, do đó, điều quan yếu là phải duy trì sự hài hòa tương kính giữa các tôn giáo. Ðiều này không chỉ giúp ích cho tín đồ mà còn tạo ra không khí hòa hoãn thân ái trong xã hội.

  Thế giới ngày nay chưa quan tâm nhiều đến phẩm giá con người. Tiền bạc và quyền lực bao trùm lên tất cả. Nếu xã hội đánh mất giá trị của công lý, sự cảm thông và tính lương thiện, thì chúng ta sẽ phải đối diện với rất nhiều khó khăn sinh ra. Có những kẻ cho rằng không cần đặt vấn đề đạo đức trong lãnh vực thương mại và chính trị. Tôi cực lực không đồng ý về điều trên.

  Phẩm chất hành động của chúng ta tùy thuộc vào động lực thúc đẩy bản thân mình. Theo cái nhìn của một Phật tử như tôi thì tất cả mọi chuyện đều bắt nguồn từ tư tưởng. Cảm giác thành tâm cám ơn nhân loại và sự cảm thông cùng tình thương chính là chiếc chìa khóa làm nên mọi chuyện. Khi chúng ta nuôi dưỡng một trái tim lành mạnh và vị tha, dù là ở ngành khoa học, nông nghiệp hay chính trị, thì kết quả sẽ có lợi hơn. Có động lực tốt thì sẽ có việc làm tốt. Còn không thì kết quả sẽ chệch hướng. Khi nhân loại có cảm thông thì điều đó là điều quan trọng. Con người cần cố gắng để cải thiện tiêu chuẩn của đời sống nhưng đừng cải thiện với bất kỳ phương tiện nào. Khi mà con người chạy đuổi theo lợi nhuận và sự tiến bộ vật chất trong khi lo là lòng nhân ái và sự an lạc trong thân tâm, thì giá trị đời sống sẽ biến mất ở môi trường cộng đồng. Khi trái tim con người không có chỗ cho công lý và tính lương thiện thì những người yếu đuối nhất sẽ phải chịu đau khổ đầu tiên. Dẫn theo hệ quả là sự phản kháng ,bất hòa, gây khổ lụy cho tất cả mọi người. Chúng ta cần phải cân bằng sự tiến bộ vật chất và tinh thần trách nhiệm vốn sinh ra từ giáo dục và sự phát triển tâm linh.

  Ðể đạt mục tiêu, chúng ta có thể phải đối phó với những trở ngại. Nếu ta cứ dửng dưng, thụ động, không chịu nỗ lực giải quyết vấn đề, thì sẽ chẳng có thể đạt được sự thay đổi gì tốt hơn. Hãy biến cải những trở ngại thành cơ hội tiến triển lành mạnh. Ðây quả là một thử thách cho sự khôn ngoan và khéo léo của mình. Chúng ta cần kiên nhẫn, thông cảm, và sử dụng trí thông minh. Nếu không ngó ngàng gì đến các cơ hội thì quả là phí phạm tiềm năng con người. Càng gặp phải khủng hoảng, thì càng phải kiên nhẫn. Ðiều cần yếu nhất là không đánh mất nghị lực.

  Thế Kỷ 20 là một thế kỷ đầy xung đột và chiến tranh. Từng bước chúng ta bảo đảm thế kỷ mới sẽ có đặc tính bất bạo động và đối thoại, và đây là những điều kiện tiên quyết để cùng hiện hữu bên nhau trong hòa bình.

  Bất cứ xã hội nào cũng có những mâu thuẫn và xung đột. Tuy thế, chúng ta cần phát huy niềm tin tưởng rằng đối thoại và tình bạn là những phương cách đứng đắn và hợp lý để tránh bạo động. Trước thiên niên kỷ mới, điều mà mọi người cần thực hiện là nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với nhau trên toàn thế giới."

   Ngài không nói một câu, một chữ nào về khả năng truyền pháp của Ðạo Phật, nhưng nội dung của thông điệp là khả năng ứng xử đạo lý của tâm linh. Cũng giống như sau khi Ðức Phật Thích Ca nhập diệt thì có hai mươi tám tổ sư các môn phái thiền đều lần lượt truyền tâm ấn cho nhau. Ðạo Lý cho thiên niên kỷ mới cũng là một cách Ðạt Lai Lạt Ma truyền tâm ấn cho toàn thể loài người trên thế giới trên căn bản cuộc sống hiện tại. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma khuyên mọi người cần quán triệt cái tâm của mình. Muốn chấm dứt những cảnh khổ ta bà này thì phải tự tâm mình diệt hết bao nhiêu tham sân si thì nhân loại mới có cảnh an nhàn, hạnh phúc.

  Tâm từ bi là lý tưởng của con người, phải chiếu rọi nó đến thiên niên kỷ mới. Bởi vì nếu xác nhận các phẩm tánh như tình thương, nhẫn nại, bao dung tha thứ là những thành phần của hạnh phúc thì cũng có thể xác nhận Từ Bi là cội nguồn, là bản thể của các phẩm tánh đó. Từ bi nằm trong từng phạm vi của sinh hoạt, bao gồm cả nơi làm việc của chúng ta.

  Phải làm sao thiên niên kỷ tới là thế kỷ của sự đối thoại, chứ thế kỷ này là thế kỷ của bạo động. Sức mạnh đến từ công lý sẽ tồn tại lâu dài chứ sức mạnh đến từ nòng súng chỉ có tính cách tạm thời. Bạo lực chỉ có thể làm cho người ta sợ chứ không thể làm cho người ta yêu và cuộc sống xây dựng trên nỗi sợ không phải là một cuộc sống an lạc. Chỉ có tình thương và sự hiểu biết mới làm được chuyện đó.

  Có người yêu cầu Ðức Ðạt Lai Lạt Ma hãy cô đọng tôn giáo Phật giáo của ngài trong một câu thật tinh túy gọn ghẽ. Ngài mỉm cười trả lời:

  " Tinh túy của Ðạo Phật là: Nếu bạn có thể, hãy giúp đỡ kẻ khác. Nếu không giúp được thì ít nhất hãy tự kềm chế mình,ø đừng làm đau họ" ( The essence is: If you can, help others. If not, then at least refrain from hurting others.)

  Ðạt Lai Lạt Ma có một hoàn cảnh giống với người Việt lưu vong chúng ta là để lại một quê hương yêu dấu để sống một cuộc sống lưu vong buồn nản. Ước mong sẽ có ngày ngài sẽ về lại quê hương Tây Tạng ngàn đời tuyết phủ của ngài, cũng như người Việt chúng ta lại trở về quê hương Việt Nam hình chữ S nằm bên cạnh Thái Bình Dương bao la. Sống lưu vong là một chuyện đáng buồn, nhưng chúng ta phải học hỏi tinh thần từ bi, hiếu học, tranh đấu và an nhiên của ngài để sống những giây phút có ý nghĩa trong đời sống hiện tại, phấn đấu để cải thiện cho bản thân mình cũng như làm đẹp cho đời, cho người. Có thế thì một mai đây khi quê hương không còn tù ngục, chúng ta sẽ là những hạt giống lành mạnh trở về gieo trên mảnh ruộng của quê hương và những hạt giống tươi mát này hứa hẹn sẽ đơm bông kết trái,đem lại sự trù phú cho quốc gia cũng như xây dựng một nếp sống lành mạnh, thánh thiện vốn dĩ được bao nhiêu người mơ ước trong nhiều đời .

  Lawnsdale, một chiều nắng nhạt cuối thu ,có lá bay nhiều và tâm tư cũng lãng đãng phiêu du như những chiếc lá bay  nhè nhẹ, lơ lửngï trên không (Tháng 11/99)

                                                                          TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG