Tôi học trung học ở trường Trung học công lập Pleiku từ năm 1970 đến 1975 (Từ lớp 6 đến lớp 10). Khoảng chừng năm 1972 tôi có học nhạc với giáo sư Nguyễn văn Vinh. Ông là người Bắc di cư vào nam năm 1954, ông có tướng ốm nhom , người cao lênh khênh, có nhà ở gần sân vận động Pleiku. Trong những giờ dạy nhạc, Thầy Vinh có tâm sự với học sinh là thầy có gửi thư cho Tổng thống, Quốc hội, và Tối cao pháp viện yêu cầu nhằm bãi bỏ bài quốc ca đương thời ( Bài " Tiếng gọi thanh niên" có sửa chút ít lời). Lý do chính yếu vì tác giả bài ca là Lưu hữu Phước, vốn là một cán bộ Cộng sản gộc. Ông đề nghị lấy bài hát " Việt Nam, Việt Nam " của nhạc sĩ Phạm Duy để thay đổi bài ca của Lưu hữu Phước. Ông uất ức tâm sự với đám học sinh chúng tôi là đề nghị thay quốc ca của ông chẳng ai thèm đoái hoài đến.
Ðề nghị thay quốc ca của ông , nói theo ngôn ngữ thơ của Phùng Quán, đã in sâu vào đầu óc tôi như " một vết son đỏ chói".
Trong những ngày cuối cùng của miền Nam, khi vòng vây của quân đội Cộng sản dần dần khép kín Sài gòn thì Ðài phát thanh Hà Nội đã liên tiếp cho phát thanh bài hát của " Tiến về Sài Gòn " của Lưu hữu Phước , :
" Tiến về Sài gòn,
ta quét sạch giặc thù.
Hướng về đồng
bằng, giải phóng thành đô.
"
Không ai còn chối cãi là chúng ta đang sử dụng một bài ca mà tác giả của nó gọi chúng ta là " giặc thù".Ngoài ra, Lưu hữu Phước còn là tác giả của hai bài hát " Lãnh tụ ca" và " Tình Bác sáng đời ta " nhằm ca tụng Ðảng Cộng sản và Hồ chí Minh(2) Những người quốc gia hôm nay có chấp nhận được chuyện tác giả bài Quốc ca của mình đi ca tụng tên quỷ vương Hồ chí Minh hay không? Nếu không thì phải mạnh dạn bắt tay vào việc thay thế bài Quốc ca oan trái này ngay. Chính vì sự lỗi lầm của những chính quyền quốc gia mà ngày nay người quốc gia phải chịu cảnh bẽ bàng là phải dùng một bài hát của một tên Cộng sản làm linh hồn cho cả một miền Nam tự do. Ngày xưa đã có câu nói " Làm thầy thuốc dở thì chỉ hại một người ,làm chính trịø sai lầm thì hại nhiều thế hệ, làm văn hóa sai thì hại đến muôn đời", cứ suy vào chuyện sai lầm về bài Quốc ca thì thấy câu nói của người xưa đúng là một nhận xét khôn ngoan và chính xác đến chừng nào.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 Cộng sản chiếm được cắm cờ chiến thắng ở Dinh Ðộc Lập, ngay tối hôm ấy, tôi cũng như mọi người dân ở thủ đô Sài gòn nhìn thấy lá cờ của Mặt trận giải phóng Miền Nam tung bay phất phới trên Ðài truyền hình và kèm theo đó là quốc ca của Mặt trận giải phóng Miền Nam, đó là bài " Giải phóng Miền Nam" của Lưu hữu Phước ( được ký dưới bút danh " Huỳnh minh Siêng") với những lời ca như sau"
" Giải phóng miền nam
chúng ta cùng quyết tiến bước.
Diệt đế quốc
Mỹ phá tan bè lũ bán nước.
Ôi xương tan máu
rơi, lòng hận thù ngất trời,
sông núi bao nhiêu năm cắt rời.
Ðây Cửu Long hùng
tráng , đây Trường Sơn vinh
quang.
Thúc giục lòng ta xông
pha đi giết thù.
Vai sát vai chung một bóng
cờ.
Vùng lên, nhân dân
miền nam anh hùng.
Vùng lên xông pha vượt
qua bão bùng.
Thề cứu lấy
nước nhà, thề hy sinh đến
cùng, cầm gươm ôm súng xông
tới.
Vận nước đã
đến rồi, bình minh sáng khắp
nơi, dựng xây non nước sáng
tươi muôn đời."
Dĩ nhiên trong lúc đó , không ai ngờ ông nhạc sĩ của bài quốc ca của Mặt trận giải phóng miền Nam cũng là lại nhạc sĩ tác giả bài quốc ca của Việt Nam cộng hòa ! Thật trong đời không còn gì mỉa mai và cay đắng hơn!
Vài năm sau tôi nhìn thấy cuốn tuyển tập nhạc của Lưu hữu Phước, có bìa màu xám chụp hình tác giả, được này bán khắp mọi nơi. Trong sách có những bài ca quen thuộc của Lưu hữu Phước như " Xếp bút nghiên" ," Bạch đằng Giang", " Kết đoàn" và dĩ nhiên có cả bài " Thanh niên hành khúc" với lời ca nguyên thủy chứ không như những lời có sửa lại chút ít để làm bài quốc ca Việt Nam cộng hòa sau này. Sau này trong chuyện tranh cãi đổi quốc ca, một số người muốn giữ lại, đã rán chứng minh bài hát " Tiếng gọi thanh niên" của Lưu hữu Phước là một bài hát " quốc gia"!. Một bài hát của một nhạc sĩ Cộng sản, được một nhà xuất bản Cộng sản xuất bản thì không thể là một bài hát của người quốc gia được. Thật tội nghiệp cho những kẻ rán giữ lại bài hát mà đuối lý không chứng minh được lý lịch quốc gia của bài hát nên chỉ còn cãi chày , cãi cối và nói trây mà thôi.
Tôi đến Mỹ năm 1980 và cũng bao nhiêu người tỵ nạn khác, tôi cũng lu bu với chuyện học, chuyện làm. Những vấn đề lấn cấn về Quốc ca hầu như trôi vào quên lãng.
Cho đến một hôm khi đọc cuốn hồi ký trại cải tạo " Ðại học máu" của nhà văn Hà thúc Sinh, trong sách có một đoạn tác giả Hà thúc Sinh có nhắc đến chuyện sai trái của bài Quốc ca mà ông cảm nhận được nhân khi cả trại cải tạo nơi ông bị giam giữ được hát bài " Tiếng gọi thanh niên" của Lưu Hữu Phước . Hà thúc Sinh ghi lại chuyện này như sau:
" Theo chương trình, cả trại phải tập trung trên hội trường trước giao thừa nửa tiếng để sửa soạn nghe Bác chúc Tết ( !). Khi tất cả đã yên vị trên hội trường, một tên cán bộ từ ngoài bước lên sân khấu để sửa soạn máy vi âm. Khi máy đã điều chỉnh xong, hắn gọi Hóa lên sân khấu bắt nhịp cho mọi người hát một bài. Không hiểu vô tình hay cố ý, Hóa bắt nhịp bài Tiếng Gọi Thanh Niên, một bài hát của một tên Cộng sản đỏ au từ trong ra ngoài là Lưu hữu Phước nhưng lại được các ông chính quyền quốc gia tiếp nối chọn làm Quốc Ca ! Bài hát này, dù ngày nay trong nước chẳng còn ai công nhận nó là Quốc ca nữa, kể cả bạn và thù, nhưng trong cái giây phút trừ tịch lắng đọng nhất của tâm hồn, bài hát được tập thể hát lên như một niềm vô hạn hận! Ác hơn, chẳng ai chịu hát theo lời gốc của bản nhạc. Như cái máy, bọn tù đều hát theo lời được chính quyền quốc gia sửa lại và dùng làm tiếng linh hồn cho cả miền Nam Tự Do !..
... Này công dân ơi, quốc gia đến ngày giải phóng. Ðồng lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống..
Hát theo mọi người, lòng Vĩnh dâng lên một niềm thương hận khó tả. Yêu ai yêu cả đường đi. Ghét ai ghét cả tông ti họ hàng! Bài hát ấy là của thằng Cộng sản đẻ ra, để cho sòng phẳng oán ân dứt khoát phải quăng nó vào thùng rác của lịch sử. Trời ơi ! Miền Nam Tự Do có biết bao nhạc sĩ tài hoa và có ý thức phân minh quốc cộng, những Phạm Duy, Hùng Lân, những Phạm đình Chương, Cung Tiến, những Anh việt Thu, Nguyễn đức Quang...Tại sao các chính quyền quốc gia coi họ như những kẻ đứng bên ngoài cuộc? Tại sao lại đi quảng cáo không công cho một thằng nhạc sĩ Cộng sản , bằng cách cùng một lúc đem hai ca khúc của nó biến thành hai bài hát quan trọng nhất cho một đất nước, ấy là bài Quốc Ca và bài Chiêu Hồn Tử Sĩ? Vô ý thức, vô trách nhiệm và bất cố liêm sĩ như thế mà đứng vào hàng lãnh đạo quốc gia thì thua Cộng sản tù gốc thua ra rồi !
(Ðại học Máu của Hà thúc Sinh trang 296).
Sự phẫn nộ của Hà thúc Sinh vì sự sai trái của bài quốc ca làm trí óc tôi sống lại câu chuyện ông giáo sư dạy nhạc Nguyễn văn Vinh đòi đổi quốc ca năm xưa mà tôi tưởng đã trôi vào quên lãng.
Tôi quyết định viết một bài cổ súy chuyện đổi quốc ca. Khi cầm bút viết bài , trực giác cho tôi biết rằng vấn đề tôi nêu ra chắc chắn sẽ bị chụp mũ. Ðiều đó đúng như tôi tiên đoán : sau khi chuyện đòi đổi quốc ca lan rộng, vô số mũ cối đã được chụp cho những người đòi thay quốc ca. Ý tưởng thứ hai hiện ra là tôi phải phân định rõ ràng là tôi đề nghị đổi quốc ca chứ không đụng đến lá cờ vàng ba sọc đỏ. Ngay khi vào đầu bài viết , tôi đã cố tình viết câu, " ..nhìn thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ, lá cờ đã thấm bao xương máu của các chiến sĩ VNCH, và giờ đây mỗi khi nhìn thấy nó, ai trong chúng ta không khỏi thấy lòng nao nao và nước mắt chực trào ra trên má..". Mặc dù rào đón kỹ như thế nhưng sau này có những người không bẻ lại lý lẽ đổi quốc ca bèn chơi trò cột quốc kỳ vào quốc ca, vu cáo rằng có âm mưu đòi đổi quốc ca..lẫn quốc kỳ! Họ phải sử dụng lối đánh hạ cấp này vì họ đuối lý không chứng minh được chuyện đổi quốc ca là vô lý. Chuyện cột quốc kỳ vào quốc ca cũng đã được một số người nhìn thấy và vạch rõ âm mưu thiếu trong sáng này.
Tôi quyết định dùng bút hiệu " Thái chính Châu" để viết bài này (Thái chính Châu có nghĩa là trái châu soi sáng chính nghĩa.. một cách quá sức (thái)). Bài viết nhan đề " Vài suy nghĩ về bài quốc ca của chúng ta " được đăng trên nhật báo Người Việt ngày 6 tháng 5 năm 1987 có nội dung như sau:
" Lại một lần nữa ngày 30 tháng 4 đen lại trở về. Tôi cũng như mọi người đều tham dự văn nghệ và tưởng niệm quốc hận, nhìn thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ, lá cờ đã thấm bao xương máu của các chiến sĩ VNCH, và giờ đây mỗi khi nhìn thấy nó, ai trong chúng ta không khỏi thấy lòng nao nao và nước mắt chực trào ra trên má. Nhưng nhìn lá cờ vàng ta thấy cảm xúc bao nhiêu thì khi bài quốc ca Việt Nam được hát lên, có một số người Việt quốc gia chúng ta không khỏi cảm thấy khó chịu, vì bài quốc ca của chúng ta chính ra là một bài ca của một tên Cộng sản gộc đặc trách về văn nghệ là Lưu hữu Phước .
Ðây quả là một sự mỉa mai và đau đớn cho chúng ta là đã có một bài quốc ca ( vốn là bài ca thiêng liêng nhất của một nước) mà tác giả là một thành viên của kẻ thù dân tộc.
Nói lên điều này cho thấy chúng ta thua Cộng sản vì nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố đấu tranh chính trị của chúng ta còn quá kém cỏi, mà điển hình nhất là đã chọn một bài hát của kẻ thù làm quốc ca.
.... Hơn nữa, thật là đau đớn và tủi hổ cho vong linh chiến sĩ và đồng bào,vì bài Chiêu Hồn Tử Sĩ mà ban nhạc tấu lên trong phút mặc niệm sau bài quốc ca cũng vẫn lại là bài hát của Lưu hữu Phước.!..
Tôi đề cập đến vấn đề quốc ca hôm nay và mong rằng các hội đoàn quốc gia tị nạn hãy họp nhau lại để có một thái độ và cách giải quyết về bài quốc ca lỗi thời này.
Culver city, Los Angeles ( 30 tháng 4 năm 1987) "
Bài viết của tôi được đăng một vài tuần thì có bài của anh Nông anh Ngọc nhan đề " Bàn tiếp về quốc ca" đăng trên báo Người Việt trong đó anh nhấn mạnh vài điểm:
" ...Khi Cộng sản vào Saigòn, trong một bài viết mà chúng tôi không còn nhớ nhan đề, hình như được đăng trên tờ Sài Gòn Giải Phóng, Lưu hữu Phước đã mạt sát thậm tệ sự việc miền Nam trước đó đã " tiếm dụng " bài Tiếng gọi thanh niên của hắn làm quốc ca. Những người quốc gia tình cờ đọc bài báo của Lưu hữu Phước đều nóng mặt, uất hận.
Thưa quý vị, đây là một vấn đề danh dự. Danh dự của tất cả những người quốc gia không bao giờ chấp nhận Cộng sản. Lãnh thổ của chúng ta tạm thời bị Cộng sản cưỡng đoạt, nhưng danh dự của người quốc gia vẫn ngời sáng qua những tấm gương dũng liệt của biết bao anh hùng, liệt nữ trong cuộc chiến Quốc - Cộng từ trước đến nay. Danh dự đó không thể bị hoen ố vì việc dùng một bài hát làm Quốc ca mà tác giả là một đảng viên Cộng sản.
..Chúng tôi đề nghị các cơ quan truyền thông hãy trưng cầu ý kiến khán thính, độc giả , các hội đoàn hãy thảo luận nội bộ và đúc kết các ý kiến. Tất cả những ý kiến đó sẽ gửi về cho một ủy ban điều hợp, sau đó ủy ban này sẽ thông báo kết quả đến đồng hương trên thế giới . Ủy ban sẽ nghiên cứu phương thức làm việc để công tác được kết quả cụ thể. Trong một thời gian nữa , chúng ta có thể giải quyết vấn đề Quốc ca , xin nhắc lại, là vấn đề danh dự của người Việt quốc gia. "
Tháng 5 năm 1987
Long Beach
.. Như thế rõ ràng là Nông anh Ngọc đã cùng tần số với tôi về chuyện cần phải đổi quốc ca. Anh nhắn tin tìm tôi trên báo, tôi liên lạc ngay và hai anh em tìm cách gửi những mẫu thư lấy ý kiến những hội đoàn quốc gia cũng như gửi hai bài viết đề nghị thay quốc ca của chúng tôi đến tất cả những báo chí Việt Ngữ trên thế giới để xin quảng bá . Phải nói vấn đề đổi quốc ca " nổi đình đám" là cũng nhờ anh Nông anh Ngọc. Chính nhờ sự sốt sắng mau mắn của anh nên vấn đề bàn cãi đổi quốc ca ngày càng lan rộng.
Càng ngày càng có nhiều nhảy vào chuyện bàn cãi đổi quốc ca. Giáo sư Nguyễn ngọc Huy hồi ấy cũng có viết một bài về Quốc ca . Học giả Vũ thế Ngọc sau đó có viết một bài chỉ ra những điểm sai trong bài viết của Giáo sư Huy và yêu cầu Giáo sư Huy lên tiếng về những điểm viết sai này. Giáo sư Huy im lặng, có lẽ ông không trả lời nổi những điểm sai lầm trong bài viết của ông mà học giả Vũ thế Ngọc tìm ra. Giáo sư Nguyễn ngọc Bích cũng có viết một bài ủng hộ giữ quốc ca. Ông nêu ý kiến là không nên đoạn tuyệt với quá khứ, nói rõ vấn đề không thể thay đổi được lịch sử û. Nhưng ông quên rằng bài Quốc ca hình thành trong qúa khứ nhưng vẫn còn dùng ở hiện tại và sẽ còn dùng trong tương lại. Nếu cứ khư khư giữ lấy quá khứ ( mà đây lại là một quá khứ sai lầm ) .. thì điều đó có là điều nên làm không? Nói chung bài viết của Giáo sư Bích cho thấy một tầm nhìn hẹp hòi, thiển cận, hoài cổ, thiếu tinh thần đấu tranh cách mạng . Bài Quốc ca cũ của Việt Nam Cộng Hòa có thể có một chỗ đứng khiêm nhường trong viện bảo tàng vì vai trò lịch sử của nó nhưng nó không thể là điệu nhạc thúc dục dân tộc đi đến ngày mai được. Tinh thần hoài cổ rất tốt trong văn chương nhưng nó làm trì trệ bước tiến đến tương lai. Một dân tộc không thể chỉ sống với quá khứ mà còn phải can đảm đi lên phía trước nữa.
Dần dần nhóm người quốc gia ủng hộ chuyện đổi Quốc ca ngày càng đông. Có thể kể ra những người có tên tuổi như cựu Phó thủ tướng Phan quang Ðán, cựu Trung tướng Nguyễn chánh Thi, Cụ Trần văn Khắc ( niên trưởng sáng lập Hướng đạo Việt Nam), cựu Ðại tá Phạm văn Liễu, Luật sư Phạm kim Vinh, Tiến sĩ Phan viết Phùng, Bác sĩ Phạm hữu Trác, nhà văn Lê tất Ðiều, nhà văn Ðỗ quý Toàn, Giáo sư Trần huy Bích, ông Nguyễn Long Thành Nam ( Hòa Hảo ) Ký giả Nguyễn ang Ca, Nhạc sĩ Lê văn Khoa, Nhà văn Ðỗ đức Thái, Nữ sĩ Huỳnh Dung, Nữ sĩ Thiếu Mai, Giáo sư Vũ trung Hiền..v..v. Khi những gương mặt quốc gia tiêu biểu trên đây lên tiếng thì vấn đề đổi quốc ca coi như lật ngược thế cờ, nhóm người chụp mũ nhóm đổi quốc ca không còn dám tuyên bố hung hăng với giọng điệu chụp mũ nữa mà đã dịu giọng ôn tồn nói chuyện phải trái.
Trong bài viết nhan đề " Ý kiến về bản quốc ca" , cựu Trung tướng Nguyễn chánh Thi lên tiếng:
" Tôi vốn không muốn viết lách nhiều, e múa rìu qua mắt thợ, nhưng thấy trong mấy tuần nay ở vùng Philadelphia và Hoa thịnh Ðốn, anh em sinh viên thanh niên cùng các vị cao niên bàn cãi sôi nổi về việc nên dùng bản Quốc ca của tên Cộng sản của tên Cộng sản Lưu hữu Phước, hay nên dẹp bỏ nó đi.
Sau khi mổ xẻ rõ ràng thì ai nấy đồng thanh: dẹp bỏ đi là phải lẽ.
Là một công dân Việt Nam, tôi nhận thấy có bổn phận phải lên tiếng về vấn đề trọng đại này.
Bản Quốc ca của tên Cộng sản Lưu hữu Phước mà miền nam Việt Nam đã dùng thì thật ra hồi còn mồ ma Ngô đình Diệm, đã có đề cập đến chuyện thay đổi nó rồi. Tôi đã có dịp nghe ông Trần chánh Thành ( lúc đó là Bộ trưởng thông tin), Trần văn Dĩnh, Thiếu tướng Lê văn Kim, khi bàn cãi chuyện thay đổi huy hiệu quân đội, đã có ý định thay luôn bản Quốc ca. Nhưng sau một thời gian , không thấy bàn tới nữa, họ chỉ chú trọng đến bài " Suy tôn Ngô tổng thống " nên đã xem nhẹ bài Quốc ca.
Chúng tôi thiết nghĩ bản Quốc ca đã phải được thay thế từ lâu chứ đâu để đến sau này khi miền Nam rơi vào tay Cộng sản thì Lưu hữu Phước lại thóa mạ thêm nữa.
Thật ra miền Nam thiếu gì danh tài thừa sức soạn nhạc, mà theo tôi biết rõ, đã có nhiều lần các nhà tai mắt đã đề nghị phải thay bản Quốc ca, nhưng tiếc thay các vị gọi là " lãnh đạo miền Nam" lại xem nhẹ vấn đề trọng đại đó, để chỉ chú ý vào những chuyện nhất thời, cá nhân chủ nghĩa mà thôi.
Tình trạng đã rõ như ban ngày nên các nhà báo đã đưa ý kiến cả mấy tháng nay là tất cả chúng ta phải cương quyết dứt khoát với quá khứ là nên xé bỏ bài Quốc ca của tên Cộng sản Lưu hữu Phước vứt vào sọt rác, và nên dùng bài " Việt Nam, Việt Nam " của nhạc sĩ Phạm Duy trong khi chờ đợi sáng tác một bài Quốc ca khác cũng không muộn vậy. "
Nguyễn chánh Thi.
Quốc ca cũ coi như không ổn rồi, thế thì chọn bài nào làm Quốc ca đây, câu trả lời này tùy thuộc vào ý muốn giải quyết của những người Việt lưu vong trên khắp thế giới. Chuyện thành lập một ủy ban chọn Quốc ca dựa trên giá trị âm nhạc của bài hát cũng như tư cách và lý lịch quốc gia của nhạc sĩ tác giả bài hát không phải là một chuyện không làm nổi. Nếu không ra tay hành động mà chỉ cứ ngồi đó lấy bài " Tiếng gọi thanh niên " của tên Cộng Sản Lưu hữu Phước làm quốc ca thì ø đây là một điều vô cùng nhục nhã và mai mỉa. Cũng nhân vụ đổi quốc ca mà có một câu hỏi lòi ra là : Chúng ta chống cộng thì chống từ chỗ nào, phải chăng cứ tiếp tục sử dụng bài quốc ca cũ do một tên Cộng sản viết là một lối chống Cộng khôn ngoan hay chỉ là một hình thức " thương tiếc một thời vàng sonõ". Chúng ta không làm thì chờ đợi ai làm đây? Chờ đợi con cháu chúng ta làm ư ? Liệu chúng có còn biết Lưu hữu Phước là ai không?
Cùng lên tiếng với cựu Trung tướng Nguyễn chánh Thi có cựu Phó thủ tướng Phan quang Ðán, một chính khách quốc gia uy tín đã hoạt động từ thời chính phủ Bảo Ðại cho đến thời Ðệ nhất và Ðệ nhị cộng hòa. Trong bài viết nhan đề " Góp ý về Quốc ca" Bác sĩ Ðán kể lại những kinh nghiệm mà ông chứng kiến về chuyện đổi quốc ca trong quá khứ như sau:
" QUA CÁC CHÍNH THỂ
Dưới thời Pháp thuộc, triều đình Huế đã chọn điệu Ðăng Ðàn Cung làm quốc thiều, lời ca có câu:
Ðây núi sông
hùng vĩ trời Nam
Ðến muôn đời
dấu anh hùng chưa hề phai..
Ngày 8.5.1945 nội các Trần trọng Kim chọn cờ quẻ ly làm Quốc kỳ, vẫn dùng bài Ðăng Ðàn Cung làm quốc thiều. Về sau bài Ðăng Ðàn Cung bị thay bằng bài ca Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu hữu Phước, có lẽ do ảnh hưởng của Phan Anh, bộ trưởng bộ Thanh niên, xuất thân từ trường Cao đẳng Hà Nội.
Tôi thấy bài Tiếng Gọi Thanh Niên không có tư cách xứng đáng làm quốc ca, nhưng lúc bấy giờ cũng không thấy bài nào có đủ tư cách, nên không đưa ra đề nghị gì.
Ngày 2.6. 1948 Chính phủ Trung Ương Lâm thời Việt Nam được thành lập, thủ tướng là Thiếu tướng Nguyễn văn Xuân. Cờ quẻ Ly ( ba vạch rời ) được thay bằng cờ quẻ Càn ( ba vạch liền ) và bài hát của Lưu hữu Phước vẫn được dùng làm Quốc ca, với tên Thanh Niên Hành Khúc.
Ðến thời Ðệ nhất cộng hòa, bài hát được đổi tên thành Tiếng Gọi Công Dân, lời ca được sửa đổi ít nhiều, và vẫn dùng làm quốc ca. Trên thực tế, chính phủ Ðệ nhất cộng hòa không mấy quan tâm tới Quốc ca, mà chỉ mãn nguyện với bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống, nhạc Ngọc Bích, lời của Thanh Nam. Bài này được tấu lên trong buổi họp công cộng, hay tại các rạp chiếu bóng trước khi vào phim. Các chủ rạp được tự do cắt bỏ bài Quốc ca, nhưng bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống không ai dám đụng tới.
Quốc hội Ðệ Nhất Cộng Hòa cho mở cuộc thi sáng tác Quốc ca ngày 31.7.1956 và tới 17.10.1957 thì tuyên bố không chọn được bài nào. ( Nguyên nhân sâu xa là trong khi tuyển chọn bài hát dùng làm Quốc ca, có người đề nghị bài " Suy tôn Ngô tổng thống"làm bài quốc ca. Ban tổ chức cảm thấy ngượng ngùng , khó chịu, nhưng không dám công khai phản đối vì sợ làm buồn giận Tổng thống Diệm nên quyết định chọn giải pháp " chìm xuồng", nghĩa là bỏ qua chuyện tuyển chọn Quốc ca. Chuyện thay đổi Quốc ca phải hủy bỏ vì lý do vô duyên, buồn cười và kỳ cục như đã nói trên).
Riêng bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống có lời ca như sau:
Ai bao năm từng lê
gót nơi quê người.
( Sau này sửa lại
" Ai bao năm vì sông núi quên thân
mình.)
Cứu đất nước
thề tranh đấu cho tự do.
Người cương
quyết chống Cộng,
bài phong kiến bóc
lột.
diệt thực dân đang
rắc gieo tàn khốc.
Bao công lao hồn sông
núi ghi muôn đời.
Gương hy sinh nguyền tranh
đấu không hề phai
Toàn dân quyết kết
đoàn
cùng chung sức với
người
thề đồng tâm
xây đắp cho ngày mai.
Toàn dân Việt Nam nhớ
ơn Ngô Tổng Thống.
Ngô Tổng thống, Ngô
Tổng thống muôn năm !
Toàn dân Việt Nam nhớ
ơn Ngô Tổng Thống
Xin Thượng Ðế
ban phép lành cho người.
Toàn dân Việt Nam nhớ
ơn Ngô Tổng Thống.
Ngô Tổng Thống, Ngô
Tổng Thống muôn năm !
Toàn dân Việt Nam quyết
theo Ngô Tổng thống
Chung đắp xây nền
thống nhất sơn hà..
Lần đầu tiên tôi nghe bài này tấu lên vào đầu năm 1957, trong phiên họp thứ nhất của Hội đồng y sĩ đoàn. Khi các` ghế ngồi đã kín người, bỗng nhiên bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống được tấu lên. Cả hội trường đứng lên như máy. Tôi vừa ngạc nhiên, vừa bất bình, ngồi yên. Hội nghị được triệu tập để bàn nghề nghiệp chuyên môn, không phải là một buổi họp Ðảng Cần Lao Nhân vị hay Phong trào Cách mạng Quốc gia.Nếu bài Suy Tôn Ngô Tổng thống được soạn ra để dùng trong hội nghị đảng phái ủng hộ Ngô Tổng Thống thì cũng đã đi quá xa trong chính sách tôn thờ cá nhân, nhưng cũng còn khả thứ được chứ bắt toàn dân phải suy tôn thì quả là phong kiến thời Trung cổ. Nắm trọn quyền bính trong tay, họ Ngô và họ Trần ( Lệ Xuân) xem Lập pháp, Tư pháp, Hành pháp như gia nô, lại muốn biến các nghề tự do thành gia nô nữa! Họ còn chơi trò bầu cử gian lận và bóp chết tự do ngôn luận.
Lúc bấy giờ trên thực tế có hai ngày quốc khánh. Ngày 26 tháng 10 là ngày ông Ngô đình Diệm được chính thức suy tôn làm Tổng Thống, quan trọng hơn ngày Song Thất, tức là ngày nội các Ngô đình Diệm chính thức tựu chức ( 7.7. 1954).
Tôi quen biết ông Diệm từ ngày ông còn ở chung với Tổng đốc Quảng Nam Ngô đình Khôi. Tôi bất đồng với ông về nhiều vấn đề căn bản và trở thành đối lập với ông. Cả khi tôi bị giam cầm ở P42 Sở Thứ, tôi cũng ở một vị trí đối lập với ông. Một đầu là đại lộ Thống Nhất, đầu kia là Sở Thú. nơi tôi bị câu lưu và tra tấn liên miên. Tuy vậy mỗi khi nghĩ đến hai gia đình Ngô Ðình- Trần Lệ, tôi không khỏi bùi ngùi. Và sau khi di hài của hai ông Diệm Nhu được cải táng từ Bộ Tổng Tham mưu về nghĩa trang Mạc đĩnh Chi, những lúc có dịp vào thăm mộ bà con chí thiết, tôi thỉnh thoảng cũng dừng chân trước mộ của hai ông Diệm Nhu để thắp nén nhang cầu nguyện cho hương hồn Cố Tổng thống được an nghỉ. Tuy không phải là nơi tri kỷ, nhưng cũng là chỗ cố tri. Trong lịch sử nước nhà có thể nói là không có thảm kịch nào bi đát như thảm kịch Ngô- Trần. Quyền hành, danh vọng, thế lực, tiền tài, mồi danh bả lợi chẳng qua chỉ là hạt móc trên cánh hoa, giọt sương đầu ngọn cỏ.
Trở lại vấn đề quốc ca, thời Ðệ nhị cộng hòa cũng giữ nguyên bài Tiếng Gọi Thanh Niên làm quốc ca.
NHỮNG YẾU TỐ CĂN BẢN CHO QUỐC CA
Theo thiển ý, có năm yếu tố để hình thành nên bài quốc ca:
- Truyền thống dân tộc.
- Hoàn cảnh lịch sử
- Chân giá trị của
nhạc và lời ca.
- Sự chấp thuận của
quảng đại quần chúng
- Khía cạnh pháp lý.
Quan trọng nhất là bốn yếu tố đầu. Yếu tố thứ năm chỉ có tính cách phụ thuộc.
Bài quốc ca đầu tiên trên thế giới có lẽ là bài God saves the King ( hay the Queen) của Anh quốc. Sử nước Anh chép rằng lời ca lẫn nhạc được nhạc sĩ Henry Carey viết vào năm 1740. Ngày 28.9.1745 bài này được tấu lên ở rạp Drury Lane, Luân Ðôn và từ đó phổ biến mau chóng trong dân gian. Mãi đến năm 1825 mới được chính thức xem là quốc ca Anh, nhưng không ghi trong hiến pháp, bởi lẽ Anh quốc không có hiến pháp thành văn.
Trong hai thế kỷ 19 và 20, các nước Âu Châu và Mỹ châu theo gương Anh quốc đặt ra quốc ca,nhiều khi dùng bài hát sẵn có và được dân chúng tán thưởng.
Bài God Saves the King căn cứ vào truyền thống dân tộc. Hai bài quốc ca do hoàn cảnh lịch sử tạo ra và nổi tiếng nhất là bài La Marsellaise của Pháp và bài The Star- Spangled Banner của Hoa Kỳ.
Bài La Marsellaise được sáng tác trong thời kỳ cách mạng Pháp. Tháng 4 năm 1972, trong một buổi tiệc ở Strasbourg, viên thị trưởng đưa ra nhận xét rằng quân cách mạng thiếu một bản hành khúc để làm phấn chấn tinh thần. Claude Joseph Rouget de Lisle, Ðại úy Công binh ở lứa tuổi thanh niên, sau khi dự tiệc ấy về đã thức suốt đêm, sáng tác một bài hùng ca trên dương cầm,cả nhạc lẫn lời. Tất cả quân nhân miền Bắc Pháp đều hưởng ứng bài ca hùng dũng này. Tháng 6, quân dân cách mạng ở Marseille trên đường tiến về thủ đô Paris chiếm điện Tuileries, đã hát bài hùng ca của Ðại úy Rouget de Lisle. Dân chúng Paris không biết rõ ngồn gốc bài hát, nên gọi bài hát là la Marseillaise. Bài hát lan tràn khắp cả nước Pháp trong một thời gian ngắn, và chỉ nội trong năm 1792, bài hát này được chính thức công nhận là quốc ca, với cái tên ngẫu nhiên mà có là La Marseillaise.
Bài Star -Spangled Banner ( Cờ nạm sao sáng chói) do Francis Scott Key sáng tác trong khi bị câu lưu trên chiến hạm Minden của đế quốc Anh. Ngày 13.9.1814 chiến hạm Minden tiến vào sông Potomac ( Hoa Kỳ) và nã đại bác vào đồn MacHenry trấn thủ thành Baltimore. Scott Key xúc động mãnh liệt khi trong thấy lá cờ sao của đồn McHenry vẫn ngạo nghễ tung bay dưới trận mưa pháo, liền viết bài The Star-Spangled Banner. Sau khi được phóng thích, Scott Key phổ biến bài hát và được dân trong thành Baltimore hưởng ứng. Bài hát dần dà lan rộng khắp nước, và mãi tới 3.3.1991 mới được quốc hội Hoa-kỳ công nhận là quốc ca.
Ở Á châu, nước
Phi luật Tân, do ảnh hưởng của
Tây -ban-nha, Phi luật Tân có quốc
ca sớm nhất. Ðó là bài
Lupang Hintrang
(Quê cha đất tổ
yêu quý và thánh thiện) viết
bằng tiếng Tagalog, do nhạc sĩ Julian Felipe
sáng tác năm 1898.
Cuối triều Mãn Thanh, Trung Hoa dùng bài Khánh Vân Ca làm quốc ca, bài hát được mở đầu bằng hai câu:
Khánh vân lạn hề,
kiểu mạn mạn hề
Nhật nguyệt quang hoa, dân
phục đan hề.
(Mây năm sắc sáng
lạn ung dung nhẹ bay
Hào quang nhật nguyệt ngày
thêm rực rỡ )
Ðến năm 1912 khi Trung Hoa tuyên bố theo chính thể Cộng hòa, bài hát Tam Dân Chủ nghĩa, nhạc của Trịnh Mậu Vân, lời của Tôn Dật Tiên được chọn làm quốc ca.
Lời và nhạc quốc ca phải chỉnh đốn, hùng tráng , uy nghiêm, lại phải phù hợp với dân tộc tính, nhắc đến nguồn gốc dân tộc, liên hệ đến hiện tại và hướng về một tương lai huy hoàng. Lẽ cố nhiên là không thể có tính cách phong kiến, mọi rợ, man di.
Theo tôi trộm nghĩ, vấn đề pháp lý chỉ có tính cách thứ yếu, Quốc ca không phải là một bản nhạc, một bài ca thường. Chờ cho có một quốc hội thực sự dân chủ, do toàn dân tự do đầu phiếu bầu cử, để tổ chức một cuộc thi quốc ca thì không mấy cần thiết và không mấy có ý nghĩa. Trong hoàn cảnh ngày nay thì lại không thực tế chút nào.
CHỌN QUỐC CA NÀO ?
Trước hết, chúng ta có thể, không một chút lưỡng lự nào, gạt bỏ hai bài quốc ca Nam Kỳ Quốc và Giải phóng Miền Nam là những bài hát một trăm phần trăm bù nhìn, lời cũng như nhạc ngớ ngẩn ngây ngô.
Tôi cũng mạn phép đề nghị xếp bài Suy Tôn Ngô Tổng thống vào văn khố để làm sử liệu cho một thời phong kiến trung cổ thì đúng hơn. Tuy nhiên nếu có bạn nào vì trước kia chịu ơn mưa móc của Ngô Trần , muốn chọn bài này làm Quốc ca thì cũng xin lên tiếng để rộng đường dư luận.
Xét đến bài Tiến Quân Ca, chúng ta là người quốc gia, yêu chuộng tự do, thiết tha chấn hưng văn hóa của dân tộc Lạc Hồng, trong khi chủ trương canh tân và phát triển khoa học kỹ thuật , không thể nào chấp nhận bài này. Ngoài ra còn có nhiều lý do khác để gạt bỏ nó ra. Phải nhìn nhận rằng nhạc điệu của đoạn đầu có tính cách rộn rã, kích thích. Nhưng đoàn quân là đoàn quân Việt Minh, chớ không phải Việt Nam. Lời ca chỉ có một câu khả dĩ cho là có giá trị văn chương : Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca. Nhưng những câu kế cận như : Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước và Thề phanh thây uống máu quân thù thì thật là mọi rợ, chỉ có thể áp dụng cho những bộ lạc thời Thái cổ chuyên ăn thịt và uống máu người, không thể nào đem áp dụng cho một dân tộc có hơn 4000 năm văn hiến, lấy nhân đạo làm căn bản cho xã hội. Nhạc điệu ở đoạn chót hụt hơi rõ ràng và lời ca hoàn toàn vô nghĩa, biểu tượng một tương lai bi đát cho tập đoàn Việt Cộng : Thắng gian lao đoàn Việt lập chiến khu. Ðã thắng trận thì phải tái lập hòa bình, tái thiết quốc gia, đem lại cơm no áo ấm cho toàn dân,và phát triển mọi ngành công nông thương kỹ nghệ để theo kịp các nước tiền tiến, chứ đâu lại đi ..lập chiến khu ! Mà thử hỏi phen này, Việt Minh sẽ lập chiến khu ở đâu ? Trong nước thì toàn dân đói rách, bị gông cùm kềm kẹp, bóc lột. Tiếng ta thán cao lên vút tận trời, mọi người đều thấy rõ là Việt Cộng chỉ là đầy tớ Nga Xô. Các quốc gia Á Châu đều tẩy chay và dồn Cộng sản Việt Nam vào thế cô lập, còn đâu là hậu phương rộng lớn an toàn của Trung Hoa để rút lui và ẩn nấp. Núi rừng Việt Nam, Cao Mên và Lào thì ngày càng đông thêm kháng chiến quốc gia. Bài Tiến Quân Ca cho thấy rõ Việt Cộng sẽ thất bại, và người Việt Nam quốc gia tự do sẽ có cơ hội trở về đất nước để tái lập độc lập, tự do và hòa bình thực sự và nỗ lực cùng với toàn thể đồng bào trong nước tái thiết quê hương. ( Ngục sĩ nguyễn chí Thiện cũng đã từng nhận xét là "sẽ có một ngày" người ta sẽ thay bài hát quốc ca này của Cộng sản Viêt Nam: ..Thay tiếng Tiến quân ca.. Và Quốc tế ca.. Là tiếng sáo diều trên trời xanh bao la) (1) .
Bài Ðăng Ðàn Cung thuộc về thời Pháp thuộc, nhạc điệu lại buồn thảm, diễn tả hoàn cảnh tửi nhục của một dân tộc mất nước,cố nhiên cũng nên xếp vào văn khố.
Xét đến bài Tiếng Gọi Thanh Niên thì thái độ của chúng ta phải như thế nào? Nhiều vị cho rằng nên vứt nó vào sọt rác vì tác giả của nó là tên văn nô Cộng sản Lưu hữu Phước. Lý do này rất chính đáng.
Nhưng còn có nhiều lý do chánh đáng khác. Nhạc điệu của bài này là nhạc điệu Pháp, thiếu dân tộc tính Việt Nam. Lời ca lại rất nông nổi, thiển cận, chỉ biểu hiệu tính bồng bột của sinh viên thanh niên, chỉ nhắm mắt tiến bước mà không biết đi về phương hướng nào và tiến đến mục đích nào. Sinh viên ơi,hăng hái đi đến cùng! Ði đến cùng là đi đến đâu? Chỉ có nghĩa là mù quáng hay nhẹ dạ chạy theo đuôi VC để ngày nay lâm vào bước đường cùng.
Bài Tiếng Gọi Công Dân tuy có thay đổi lời ca chút ít, nhưng căn bản vẫn là của tên văn nô Lưu hữu Phước và cũng không khác gì bản cũ là bao nhiêu. Lại còn có tính cách mỉa mai chua xót. Kêu gọi dân chúng thây phơi trên gươm dáo, mau hiến thân dưới cờ. Tôi thường có dịp đi về thôn quê để lo định cư đồng bào tỵ nạn Cộng sản, thấy có nhiều gia đình nông dân có bao nhiêu con trai đều gửi ra tiền tuyến để vị quốc vong thân, hy sinh mạng sống để bảo vệ tự do đất nước, trong khi ấy thì người lãnh đạo lại lanh chân đào tẩu trước hết khi có biến, người kế tiếp thì đầu hàng vô điều kiện mà Cộng sản không thèm chấp nhận.
Riêng bài Việt Nam Việt Nam của nhạc sĩ Phạm Duy có nhạc điệu thuần túy Á châu, thuần túy Việt Nam. Hơi nhạc khi lên bổng, khi xuống trầm, rất khoan thai nhẹ nhàng, trong suốt, rất dễ gợi cảm, khơi động lòng yêu nước thương nòi đến mức cao độ. Và khi bản nhạc chấm dứt thì nét nhạc rất êm ái, tự nhiên, so ra lặng lẽ bây giờ càng hay. Lời ca thì có thủy có chung, có tình có nghĩa. lòng thương yêu tổ quốc suốt đời không bao giờ phai. Không dài dòng văn tự, không vẽ rắn thêm chân, non sông quê hương được giới thiệu một cách khiêm nhường nhưng ân cần,vui vẻ :
Việt Nam đây miền xinh tươi !
Tương lai phác họa một cách rõ ràng, sáng lạn, và đây dĩ nhiên cũng là mục đích của toàn dân Việt Nam .
Việt Nam đem vào sông
núi
Tự do, công bình,
bác ái muôn đời.
Việt Nam đi xây đắp
yên vui dài lâu
Việt Nam trên đường
tương lai
Lửa thiêng soi toàn
thế giới
Việt Nam ta nguyền tranh đấu
cho đời
Phương pháp đấu tranh cũng được trình bày một cách minh bạch:
Việt Nam không đòi
xương máu
Việt Nam kêu gọi thương
nhau
Tình yêu đây
là khí giới
Tình thương đem
về muôn nơi
Việt Nam đây tiếng
nói đi xây tình người.
Bài ca kết thúc bằng sự tin tưởng sắt đá vào tương lai bất diệt của tổ quốc và dân tộc Việt Nam
Việt Nam ! Việt Nam
Việt Nam quê hương
đất nước sáng ngời
Việt Nam, Việt Nam, Việt
Nam muôn đời.
Phan Quang Ðán "
Một nhân vật quốc gia có uy tín quyết định lên tiếng ủng hộ chuyện đổi Quốc ca là ông Nguyễn Long Thành Nam, người đại điện cho Phật Giáo Hòa Hảo ở hải ngoại. Trong một bài viết nhan đề " Kẻ vô tổ quốc không thể có tác phẩm yêu nước " qua bút hiệu Xuân Mỹ đăng trên tạp chí Ðuốc Từ Bi ( Phật Giáo Hòa Hảo) số 27 ( tháng 10-87), ông đã vạch rõ chân tướng Cộng sản của Lưu hữu Phước, ngay từ thời kỳ sáng tác bài " Tiếng Gọi Thanh Niên ", bài viết của ông đã " mở mắt" cho nhiều người ngu muội, vì muốn giữ lại bài Quốc ca cho nên cứ ngụy biện rằng lúc sáng tác bài ca ấy, Lưu hữu Phước là người " quốc gia"! Thật tội nghiệp cho hai chữ quốc gia. Ông lý luận về chân tướng của Lưu hữu Phước trong bài viết bằng cách kể lại cái không khí Ðại học ở Hà Nội hồi 1945 cũng như những đòn phép chiêu dụ giới trẻ của Cộng sản mà Lưu hữu Phước cũng như Mai văn Bộ là người đại diện:
" Trước biến cố 1945, chỉ tại Hà Nội có trung tâm Ðại Học. Cho nên các thanh niên sinh trưởng ở miền Nam, sau khi tốt nghiệp trung học, nếu muốn học cao lên, thì hoặc phải xuất dương sang Pháp, hoặc phải ra Hà Nội. Số sinh viên du học bên Pháp phải có điều kiện tài chánh của gia đình, hoặc được bảo trợ. Ra Hà Nội học thì ít tốn kém hơn.
Số lượng thanh niên miền Nam ra Hà Nội học cũng khá ít ỏi, cho nên tỷ lệ tại Ðại Học của sinh viên sinh quán ở miền Bắc cao hơn là tỷ lệ của sinh viên gốc miền Nam. Phần đông từ trong Nam ra là con cái các gia đình khá giả: điền chủ, nghiệp chủ, công-tư-chức cấp cao. Cho nên tại Hà Nội thời đó xuất hiện danh từ " công tử Bạc Liêu, tượng trưng cho số sinh viên miền Nam có lối ăn xài rộng rãi :
Mỗi khi nhớ đến
thành Hà Nội
Là nhớ Khâm
Thiên một tối nào
Lũ trẻ bu đầu
ba bốn đứa
Vài chầu tom chát
hát nghêu ngao
(Thơ Vũ Sơn, một sinh viên gốc Long Xuyên ra Hà Nội học)
Với trình độ kiến thức trưởng thành hơn cấp trung học,và trong môi trường đại học được hấp thụ những tư tưởng cao xa hơn, nên người sinh viên ý thức được thân phận và sứ mạng của thế hệ mình, để từ đó bước vào con đường đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Ðó là những thành phần tiến bộ, cố nhiên không phải tất cả đều có ý thức đấu tranh, thành phần thích sống bình thường cho sự nghiệp cá nhân cũng khá nhiều.
Trong số sinh viên miền Nam ra Hà Nội học hồi đó, có những người khi bước vào đấu tranh, đã sớm ý thức chọn lựa khuynh hướng có màu sắc dân tộc quốc gia rõ ràng, như những sinh viên gia nhập các Ðảng Ðại Việt và Việt Nam Quốc Dân Ðảng. Nhưng cũng có những sinh viên khác đi vào đấu tranh mà không ý thức về khuynh hướng cách mạng dân tộc. Vì thế mà dễ bị mất gốc, đi vào con đường Mác xít.
Lưu hữu Phước, Mai văn Bộ, Huỳnh văn Tiểng, Nguyễn Ðăng ..( chỉ kể những người nổi bật lên về sau ) thuộc nhóm này. Năm 1945, nhóm sinh viên miền Nam thành lập tổ chức lấy tên là Tân Dân chủ đảng, mà Phạm ngọc Thạch, thủ lãnh Thanh Niên Tiền Phong cho là " một đảng của giới sinh viên hướng theo tư tưởng Cộng hòa Dân chủ Tây phương".
Tân Dân chủ đảng được xem là có liên hệ với tổ chức Việt Nam Dân Chủ đảng thành lập năm 1940 tại miền Bắc do Dương đức Hiền, thoát thai từ Tổng hội sinh viên, có các thành phần nổi bật như Ðỗ đức Dục, Tôn quang Phiệt, Cù huy Cận, Vũ đình Hòe..
Cả hai tổ chức Dân Chủ Ðảng và Tân Dân Chủ Ðảng đều xuất phát từ Ðại học, và đều nhắm vào đối tượng thanh niên. Ðiều quan trọng cần phải nói cả hai tổ chức này đã đóng vai trò gạch nối để lôi kéo thanh niên sinh viên, đưa lớp người trẻ này vào con đường Việt Minh, tức là Cộng sản Việt Nam trá hình. Phải nói về nguồn gốc nhóm này để hiểu rõ vai tròù của bọn Lưu hữu Phước, Mai văn Bộ , Huỳnh văn Tiểng và hậu quả tai hại mà nhóm này đã gây ra cho giới thanh niên Việt Nam ở thời điểm 1945. Nhóm này là những bàn tay đầu độc, dùng thuốc độc của Hồ chí Minh để hại lớp trẻ Việt Nam có lòng yêu nước.
Tâm lý lớp trẻ dễ cảm tình với lớp trẻ đàn anh. Học sinh cảm phục sinh viên là lớp anh đã đi trước mình trên tiến tình học vấn. Tình cảm ấy có sẵn một cách tự nhiên. Nhất là đối với giới học sinh trong Nam thời đó, nhiều người không có điều kiện bước lên nấc thang sinh viên Ðại học, cho nên nhìn những sinh viên trường Thuốc , trường Luật Hà Nội như Lưu hữu Phước, Mai văn Bộ, Huỳnh văn Tiểng, là những hình ảnh mà mình thèm muốn ước ao, và dễ có cảm tình.
Vì hiểu được tâm lý lớp trẻ như thế, nên tổ chức Cộng sản năm 1945 đã sử dụng hai tổ chức Dân chủ đảng tại miền Bắc và Tân dân chủ đảng tại miền Nam như những tổ chức trung gian để thu hút giới trẻ. Bởi vì nếu đưa chân tướng Cộng sản ra, không thể lôi kéo được lớp trẻ và dễ tạo ra phản ứng nghi ngại.
Như thế , phải nói rằng hai tổ chức này là hai cái bẫy mà Cộng sản đã sử dụng để đánh bẫy tuổi trẻ. Lớp người trẻ, sẵn có cảm tình với lớp đàn anh sinh viên, nên lọt vào vòng lưới lớn của Cộng sản, mà vẫn yên chí là mình gia nhập một tổ chức yêu nước, mình hy sinh vì tổ quốc, chớ đâu có dè đó là những bước đầu đưa dần họ vào quỹ đạo Cộng sản , vào con đường phục vụ cho chủ nghĩa Cộng sản.
Chứng nghiệm cụ thể cho lập luận trên đây là tại Hà Nội, nhóm Dương đức Hiền tôn thờ Hồ chí Minh, và được trọng dụng giao phó một số chức vụ trong chính phủ đầu tiên. Trong Nam, nhóm Tân - Dân - Chủ trở thành lãnh tụ của phong trào Thanh Niên Tiền Phong , để rồi thủ lãnh Phạm ngọc Thạch tuyên bố gia nhập mặt trận Việt Minh đem phong trào này đặt dưới sự sử dụng của lãnh tụ Cộng sản Trần văn Giàu lúc đó làm chủ tịch Ủy ban Hành chánh Nam bộ. Thủ đoạn này đã được các giới đấu tranh trong Nam cho là một hành động phản bội, là vì trước đó, Thanh niên Tiền Phong là một thành phần của Mặt trận Quốc Gia Thống Nhất , gồm hầu hết các đoàn thể quốc gia trong Nam, bỗng nhiên Phạm ngọc Thạch tuyên bố rút TNTP ra khỏi MTQGTN, và gia nhập Mặt Trận Việt Minh, rõ ràng là một thủ đoạn phá hoại uy tín của MTQGTN, để làm lợi cho Việt Minh. Biến cố này là một mũi dao đâm sau lưng MTQGTN, và đó là thủ đoạn của Cộng sản, với sự đồng lõa của nhóm Tân Dân Chủ đảng.
Từ đó về sau, nhóm Tân Dân Chủ đảng trở thành cán bộ Việt Minh và sau này tất cả đã lộ diện là đảng viên Ðảng Cộng sản Ðông Dương.
Trở lại bản Tiếng Gọi Công Dân năm 1948 được chấp nhận làm bài Quốc ca cho đến năm 1975, mà tác giả là Lưu hữu Phước. Ta đã hiểu bối cảnh chính trị đã làm phát sinh ra bài hát này : khởi đầu là bài Marche des Etudiants Lưu hữu Phước viết ra để phục vụ ý định của Pháp trong phong trào thanh niên Ducuroy, sau mới có lời ca tiếng Việt mang tên Thanh Niên Hành Khúc, để rồi sau đó đổi lại thành Tiếng Gọi Công Dân.
Tác giả Lưu hữu Phước trong giai đoạn lịch sử đó, đã đóng vai trò chim mồi để dụ dỗ lừa gạt lớp trẻ Việt Nam vào cái bẫy Cộng Sản, thì bài hát Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu hữu Phước, có chút thực chất yêu nước nào của chính tác giả không? Nói cách khác, Lưu hữu Phước viết lời hát của bài này, có thực sự được thúc đẩy và gợi hứng bởi lòng yêu nước không? Hay là Lưu hữu Phước chỉ cấu tạo một " cái bẫy văn hóa " để gài bẫy lớp trẻ? Cũng như khi Hồ chí Minh nói những ngôn từ yêu nước trước công chúng ở quãng trường Ba Ðình vào tháng 9-45, đâu có phải vì ông có tâm hồn thực sự yêu tổ quốc Việt Nam,mà ông chỉ nói những lời đường mật ngoài môi mép để lừa gạt dân tộc. Ông giương cái bẫy độc lập để đưa dân chúng vào con đường tiến dần về Cộng sản chủ nghĩa.
Ngày nay Lưu hữu Phước và các thành phần Tân Dân Chủ đảng như Mai văn Bộ, Huỳnh văn Tiểng, là những cán bộ Cộng sản cốt cán, thì ta có thể quả quyêt mà không sợ sai lầm rằng những kẻ này đã hàm dưỡng ý đồ phục vụ Cộng sản từ năm 1945, và do đó, bài Tiếng Gọi Thanh Niên không phải là " tâm huyết yêu nước " của Lưu hữu Phước, đó chỉ là một cái bẫy văn hóa của Cộng sản giương lên để lừa gạt dân tộc. Và như thế, thì dù cho bài hát này đã được sử dụng làm Quốc ca trong suốt gần 30 năm trời ở miền Nam Việt Nam, bây giờ ta cũng nên rũ bỏ nó như dứt bỏ một đoạn dĩ vãng lỡ làng. Càng sớm càng tốt.
Chúng ta đi vào tương lai, bỏ lại đàng sau cái tên Lưu hữu Phước như tên một kẻ cò mồi hại nước, và bỏ lại đàng sau bài hát đó , coi nó như một sản phẩm ngụy danh ái quốc.
Qua phản ứng dư luận, khuynh hướng bỏ bài Tiếng Gọi Công Dân ưu thắng hơn. Căn cứ ù vào đó, ta nên tìm một phương thức thực tiễn để giải quyết vấn đề. Nên mở một cuộc hội thảo, từ hội thảo đó, hình thành một Ủy Ban Ðặc Nhiệm , đó là có căn bản tối thiểu để đặt vấn đề và điều hành thực hiện phương thức đã nêu. Ủy Ban Ðặc Nhiệm sẽ thực hiện một cuộc trưng cầu dân ý hạn chế , qua các hội đoàn người Việt ở khắp nơi trên thế giới. Kết quả nhận được sẽ là những chứng liệu được đúc kết dưới sự kiểm soát của một bộ phận giám sát, và được công bố để làm căn bản cho quyết định : hoặc thay đổi, hoặc giữ quốc ca cũ.
Chúng ta đang sống trong thời đại của chế độ dân chủ. Một việc, tuy ta cho là đúng, nhưng nếu không được giải quyết trong tinh thần chung, e rằng sẽ có những phản ứng bất lợi.
Xuân Mỹ "
Tác giả Nguyễn Long Thành Nam (Xuân Mỹ) của bài viết trên,là người đứng vai lãnh đạo Phật giáo Hòa hảo ở hải ngoại, nay đã ra người thiên cổ nhưng bài viết phân tích lý lịch Cộng sản của tác giả bài ca Tiếng Gọi Thanh Niên càng làm cho chuyện đổi Quốc ca là một chuyện làm có ý nghĩa và chính nghĩa. Những ngày gần đây Cộng sản ra tay đàn áp thô bạo Ðạo Phật giáo Hòa Hảo. Người tín đồ Phật giáo Hòa Hảo từ nay không nên sử dụng bài hát của một tên Cộng sản trong những buổi lễ thiêng liêng của đạo mình nữa. Người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo không lúc nào nên quên Ðức Thầy Huỳnh phú Sổ bị Việt Minh ám hại tại Ðốc Vàng năm 1947 nên tuyệt đối trong những buổi lễ kỷ niệm Ðạo, không nên dùng bài hát của tên Cộng sản Lưu hữu Phước vì dùng bài của tên này là một sự sỉ nhục không thể tưởng tượng cho Ðạo. Sự sai lầm về bài ca này của những chính phủ quốc gia ngày càng lộ rõ và người tín đồ Hòa Hảo phải ngưng ngay sự sử dụng bài hát của tên Cộng sản Lưu hữu Phước trong các nghi lễ của tôn giáo mình trong lúc chờ đợi Quốc ca mới .
Trong lúc cùng vận động đổi Quốc ca với anh Nông anh Ngọc, tôi có cơ hội làm quen với Bác sĩ Bùi duy Tâm. Hồi đó tôi bị đau, anh Tâm đến nhà săn sóc sức khỏe cho tôi. Có quen biết Bác sĩ Bùi duy Tâm mới thấy đây là một con người ăn nói cực kỳ tế nhị, mềm mỏng, nhưng khi quyết tâm làm chuyện gì thì nhất định làm cho đến nơi đến chốn, không bao giờ bỏ cuộc. Những người quen biết Bác sĩ Tâm trước năm 75 đã đặt cho anh Tâm danh hiệu " Bàn tay sắt bọc nhung ". Ðó là một danh hiệu rất đúng dành cho Bác sĩ Bùi duy Tâm. Anh nguyên là Khoa trưởng Ðại học Y Khoa Huế trong vòng 5 năm ( 1967-1972). Dù chỉ trong 5 năm ngắn ngủi, Khoa trưởng Bùi duy Tâm đã có những thay đổi cách mạng và ngoạn mục ngay trong ngôi trường Ðại Học Y Khoa Huế. Có ba chuyện cụ thể mà anh đã làm là:
* Thay y phục Tây phương bằng bộ quốc phục Việt Nam cho các tân sinh viên Y khoa tốt nghiệp ra trường.
* Thay lời thề ra trường Hyppocrate bằng lời thề của Hải Thượng Lãn Ông, một y sư danh tiếng của dân tộc.
* Cho đưa vào giảng dạy khoa Ðông y dân tộc song song với chương trình Y khoa hiện đại.
Ba chuyện cải cách thay đổi có tính cách " ích nước lợi dân" nói trên đủ chứng tỏ Bác sĩ Bùi duy Tâm là một trí thức, dù tốt nghiệp ở Tây phương, nhưng lúc nào cũng muốn trở về nguồn. Tiếc rằng anh chưa đủ thời gian để thực hiện những hoài bão thì đám lãnh đạo chính trị xôi thịt ở Sài Gòn tìm cách thay thế anh vì những thay đổi có tính cách mạng của anh làm họ "chướng tai gai mắt". Nước Việt nam nếu muốn có môt tương lai sáng lạn thì rất cần có những người trí thức mang hồn dân tộc như Bác sĩ Bùi duy Tâm. Cầu mong chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ mau chóng để Bác sĩ Bùi duy Tâm còn đem tài năng mình về phục vụ quê hương đất nước trước khi quá trễ.
Trong vụ tranh luận đổi quốc ca, có hàng trăm bài của những thức giả, nhà văn khác nhau nhưng bài viết nhan đề " Thư gửi Hoàng Mai về bản Quốc ca" của Bác sĩ Bùi duy Tâm là bài viết hay nhất. Bài viết có nhiều chất liệu lịch sử vô cùng quý báu, lại được viết bởi một văn phong dí dỏm mà thâm trầm, duyên dáng, trong sáng và đầy tính thuyết phục. Bài viết phân tích rất sâu sắc những nguyên nhân thầm kín của sự chống đối và giải thích một cách hợp lý về sự thay đổi cần phải có về chuyện đổi Quốc ca. Bài viết được đăng rất nhiều trên những báo Việt ngữ có mặt ở hải ngoại và tạo được một khuynh hướng thuận lợi cho chuyện thay thế Quốc ca. Bài viết có nội dung như sau:
" Vô tình đọc bức thư độc giả đăng trên báo Người Việt số 1104 ngày 26 tháng 11 năm 1987, tôi được biết cô muốn tìm hiểu về " lịch sử của bài Quốc ca và lá Quốc kỳ của chúng ta". Ðiều mong muốn rất đơn giản của cô làm tôi lưu ý và suy nghĩ. Hơn ba chục năm nay, nhiều người có trách nhiệm với quốc gia dân tộc thường luôn huênh hoang là họ đương làm Cách mạng mà hầu hết không hề lưu ý đến một cuộc cách mạng phải bắt đầu từ điểm nào?
Sau 12 năm lưu vong, gần đây mới có vài người đặt lại vấn đề xuất xứ và ý nghĩa của hai biểu tượng cơ bản của nước Việt Nam Tự Do. Trong số đó có một bậc nữ lưu là Nguyễn Hoàng Mai. Cô than phiền rằng, " Sự hiểu biết ( của cô) còn mù mờ". Ðâu có phải lỗi tại cô? Có sách giáo khoa nào hay có thầy giáo nào giảng cho cô hiểu đâu? Vì họ không nghĩ tới nên không biết hoặc có khi họ biết mà khó lòng nói ra ! Cô nhỏ nhẹ tự nhận mình vốn là " phận má hồng, từ nhỏ sống trong sự cưng chiều của cha mẹ, lớn lên chỉ biết có chồng con nhưng rất quan tâm đến một chiến trường văn hóa và ý thức hệ ". Lời phát biểu rất dễ thương, đầy nữ tính và có ý thức cao của khách quần thoa Nguyễn hoàng Mai làm tôi cảm mến, bèn nổi hứng thức luôn một đêm trắng, vung bút viết một bài luận về quốc ca (tôi thích ca hát văn nghệ hơn cờ quạt chính trị ) để riêng tặng Hoàng Mai, người thiếu phụ mà tôi chưa hề quen biết.
* * * *
Khó tưởng tượng được rằng những người như Trưng Trắc, Ðinh bộ Lĩnh, Trần quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ hay Cao bá Quát lại có thể đứng lên, vua tôi cùng nhau đồng ca một bài trong các buổi đại lễ ở triều đình. Xướng ca không phải là việc của kẻ sĩ ngày xưa. Vả lại lịch sử cũng không nói đến điều ấy. Vậy hãy cứ giả dụ là chúng ta không có quốc ca cho tới thời Pháp thuộc.
Trong giai đoạn Pháp bảo hộ, ta có vua bù nhìn và bắt đầu có quốc ca. Ðó là bài Ðăng Ðàn Cung.
Ðây núi sông
hùng vĩ trời Nam
Ðến muôn đời,
dấu anh hùng chưa hề phai...
Lời ca cũng đẹp và uy nghi lắm, nhưng nhạc thì quá buồn thảm. Hồi đó, tôi còn là môt cậu học trò bé nhỏ " với linh hồn bằng ngọc – xếp hạnh phúc như chương trình lớp học ". Mỗi lần chào cờ Pháp Việt đề huề, sau bản La Marseillaise( quốc ca Pháp ) hùng dũng, tôi và tuổi trẻ Việt Nam nô lệ đã phải tủi thân đứng chịu trận nghe bài Ðăng Ðàn Cung được tấu lên, nghe lâm li bi đát như kèn đám táng.
Cuối xuân sang hè ( tháng 3, tháng 4) năm 1945, Mặt Trận Việt Minh đã hối hả đặt Nhạc sĩ Văn Cao làm một bài ca chính thức cho Mặt Trận. Văn Cao đã làm bài Tiến Quân Ca trân một căn gác nhỏ ở số 15 đường Nguyễn thượng Hiền, Hà Nội. Nhưng nhạc sĩ Phạm Duy cho rằng Văn Cao đã sáng tác bản này trong ngõ cô đầu Khâm Thiên mà ông ta thường lui tới để ăn cơm tháng tại nhà một đồng chí làm nghề thợ giày. Lời ca nguyên thủy của bài Tiến Quân Ca như sau:
Ðoàn quân Việt
Minh đi chung lòng cứu quốc.
Bước chân dồn
vang trên đường gập ghềnh
xa
Cờ in máu chiến
thắng mang hồn nước
Súng ngoài xa chen khúc
quân hành ca
Thề phanh thây uống
máu quân thù
Thắng gian lao, cùng nhau
lập chiến khu.
Bài Tiến Quân Ca của Văn Cao đã được chính quyền Việt Minh ( Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ) chọn làm quốc ca. Bài này được giữ cho đến ngày nay khi bạo quyền Hà Nội để lộ nguyên hình Cộng Sản dưới danh hiệu Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tục truyền rằng khi làm bài Tiến Quân Ca, Văn Cao đã nghe tiếng xe bò cọc cạch đi thu xác đồng bào chết đói vào những buổi sáng tháng 3 năm 1945 nên ông đã hạ ngay câu, " trên đường gập ghềnh xa". Người nghệ sĩ quả đã được trời ban cho những mặc khải tiên tri nên trong suốt 30 năm qua, những cảnh " cờ in máu", " súng ngoài xa", " phanh thây uống máu"..cứ dai dẳng bám chặt lấy người dân Việt Nam khốn khổ. những chiếc xe bò chở xác năm 1945 nay đã được thay thế bằng những chiếc xe Molotova và vẫn chở xác thanh thiếu niên Việt Nam " trên đường gập ghềnh xa " ở dẫy Trường Sơn, Hạ Lào hay Kamphuchia.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, Việt Minh cướp chính quyền ngoài Bắc với vài khẩu súng lục. Vài ngày sau, Việt Minh cũng thành công trong Nam với gậy tầm vông. Lúc đó bài Tiến Quân Ca chưa đủ thì giờ vào đến trong Nam nên trong lễ chào cờ ở nhiều nơi, Việt Minh phải đặt lời Việt vào bài CHANT D’ADIEU : Tạm Biệt Ca ( nổi tiếng trong cuốn phim La Valse Dans L’ombre với tài tử Robert Taylor và Vivian Leigh) một cách ngộ nghĩnh như sau:
Giờ đây anh em
chúng ta cùng nhau xếp hàng chào
cờ cứu quốc
Ðứng nghiêm ta
trông cờ bay, lòng ta bùi ngùi
độc lập từ đây......
Lời ca "cách mạng " này ngộ nghĩnh không kém gì lời ca diễu cợt của người dân Việt Nam cũng được soạn ra để hát với bài ca xuất xứ từ Anh quốc này : Tò te con ma đánh đu, thằng Tây nhảy dù, bà già chết rét... Những chi tiết trên đây đã do Luật sư Ðinh thạch Bích nhớ và kể lại )
Hai chữ " cứu quốc " trong bài hát trên đây đã chứng tỏ lời ca đó là của Việt Minh và câu " lòng ta bùi ngùi độc lập từ đây " lại thêm là một chứng hiệu tiền định cho cái giá xương máu quá đắt đến nỗi phải bùi ngùi cho một nền độc lập mà các dân tộc nhược tiểu khác đã đòi lại được một cách êm ả từ cả vài chục năm trước.
Khi thực dân Pháp trở lại Sài Gòn, Chính phủ Nam Kỳ Quốc ra đời và ta lại có thêm một bài quốc ca ngộ nghĩnh, mở đầu bằng hai câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm ( như một điềm gở trong suốt thời gian mấy chục năm sau ):
Thuở trời đất
nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều
nỗi truân chuyên..
(tài liệu do học giả Vũ thế Ngọc cung cấp )
Cơn gió bụi này đã kéo dài hơn 30 năm và thật khủng khiếp với các thảm bom dây và mưa đại bác. Biết bao nhiêu " khách má hồng " miền Bắc đã bị cưỡng bách truân chuyên lặn lội trên đường mòn Hồ chí Minh để xâm nhập và gieo tang tóc cho miền Nam . Nhiều cô gái Bắc nõn nường đã phải trốn ở lại rừng núi, lấy chồng là người Thượng ở Trường Sơn vì không chịu cực thêm được nữa. ( Chuyện này do một nữ bác sĩ Việt Cộng kể lại ). Ngược lại, " khách má hồng " miền Nam cũng đã phải truân chuyên quảy gánh ra nuôi chồng trong các trại tù cải tạo miền Bắc.
Năm 1947, trong một cuộc họp tại Hồng Kông dưới sự chủ tọa của Cựu Hoàng Bảo Ðại để thành lập một chính phủ quốc gia nằm trong khối Liên Hiệp Pháp , họa sĩ Lê văn Ðệ đã đệ trình lá quốc kỳ ( cờ vàng ba sọc đỏ ) và bác sĩ Nguyễn tôn Hoàn đã đề nghị lấy bài Tiếng Gọi Sinh Viên của Lưu hữu Phước ( sau khi đổi lời ca ở vài chỗ ) làm bài quốc ca ( nay là bài Tiếng Gọi Công Dân và trước đó một thời gian còn có thêm cái tên Tiếng Gọi Thanh Niên). Buổi họp này có sự hiện diện của cố Tổng Thống Ngô đình Diệm và Bác sĩ Phan huy Ðán – sau đổi tên đệm là Phan quang Ðán ( Ðoạn này thuật lại lời kể của Bác sĩ Nguyễn tôn Hoàn ).
Vì đây là điểm then chốt mà cô Hoàng Mai và nhiều người muốn biết cho nên tôi sẽ đi sâu vào chi tiết lịch sử của bài Tiếng Gọi Công Dân :
Khởi thủy , bài này được soạn ra với lời ca bằng tiếng Pháp và được đặt tên là Marche des Étudiants, Lưu hữu Phước đặt nhạc, Mai văn Bộ và Nguyễn thành Nguyên đặt lời. Theo lời chứng của Giáo sư Nguyễn thành Nguyên hiện đang sống tại San Francisco, khi soạn lời ca tiếng Việt cho bài này ngay sau đó – được dịch là Tiếng Gọi Thanh Niên – thì họ cũng gặp một vài khó khăn.. Soạn lời ca tiếng Pháp trước khi soạn lời ca tiếng Việt thì không gặp khó khăn gì cả. Soạn lời ca tiếng Việt sau và phải đi theo với điệu nhạc soạn ra cho lời Pháp thì họ vấp phải sự khó khăn về các dấu sắc, hỏi, ngã, nặng...Hồi đó là năm 1940, ba người trên đây cùng ở trọ trong một ngôi nhà số 60 đường Viélé ( Phố Thể Dục), Hà Nội để đi học tại Ðại Học Hà Nội. Lưu hữu Phước học Nha khoa rồi đổi sang học Thuốc ( tức Y khoa), Mai văn Bộ cũng học Thuốc, còn Nguyễn thành Nguyên thì học Nha khoa cho đến năm 1942 thì xuất dương sang Nhật và hiện nay là giáo sư tại Ðại Học U.C.S.F, do đó tôi mới có dịp nói chuyện và được biết vài chi tiết về bài ca và các tác giả của nó. Lưu hữu Phước và Mai văn Bộ đang học Thuốc thì bỏ đi làm Cách mạng ( Cộng Sản ) vào khoảng năm 1943 ( ?) . Tôi xin chép ra đây lời ca nguyên thủy bằng tiếng Pháp do Luật sư Ðinh thạch Bích nhớ được và kể lại:
Etudiants, du sol l’appel tenace
Pressant et fort, retenti dans l’espace
Des cotes d’Annam, aux ruines d’ Angkor
À travers les monts
Du Sud jusqu’au Nord
Une voix monte ravie
Pressante et forte rententie
Toujours sans reproche et sans peur
Pour rendre l’avenir meilleru...
REFRAIN ( Ðiệp khúc )
Te servir, chère Indochine !
Avec coeur et discipline,
C’est notre but, c’est notre loi
Et rien n’ebranle notre foi..
Do những câu " des cotes d’Annam aux ruins d’Angkor- từ bờ biển miền Trung cho tới di tích Ðế Thiên Ðế Thích và " chère Indochine- hỡi Ðông Dương yêu dấu " , ta có thể luận rằng bài ca này được sáng tác để phục vụ phong trào thanh niên thể thao Ducoroy của quan toàn quyền Decoux. Phong trào này cố ý hướng dân tộc Ðông Dương vào các trò chơi thể dục thể thao mà quên lãng đi chuyện đòi Ðộc Lập. Học giả Vũ thế Ngọc đã cho tôi biết thêm rằng khi Toàn Quyền Decoux đến thăm trường Thuốc Hà Nội , các sinh viên trường này đã hát bài Marche des Étudiants ngay sau khi đứng nghiêm hát bài La Marseillaise. Ðiều này đã làm đẹp lòng Quan Toàn Quyền Decoux. Như vậy, thoạt kỳ thủy, bài này đã phục vụ nền Ðông Pháp ( Indochine Francais) nếu Lưu hữu Phước và Mai văn Bộ chưa là người Cộng sản. Còn ngược lại, thì bài hát này, ngay từ đầu đã có hơi Ðông Dương Cộng sản rồi đấy !