
http://www.pgvn-haitrieuam.org
KINH
LUẬN DO H̉A THƯỢNG
THÍCH TỪ
THÔNG
BIÊN SOẠN
|
HOME |
BÁT NHĂ | CHỨNG ĐẠO CA |
DUY MA CẬT | DUY THỨC HỌC |
ĐẠI BÁT NIẾT BÀN |
NHƯ LAI VIÊN GIÁC | PHÁP HOA |
THỦ LĂNG NGHIÊM |
KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG (HT TÂM CHÂU dịch)

KINH
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG
Hán
dịch:
Ca Diếp Ma Đằng và
Trúc Pháp Lan đời Hậu Hán
Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
Sau khi thành đạo, đức Thế
Tôn suy nghĩ rằng: “Ĺa bỏ sự ham muốn, an trụ trong vẳng lặng, là điều cao
hơn cả!”.
Ngài an trụ trong đại định và
hàng phục các ma đạo.
Trong vườn Lộc giả, Ngài quay
bánh xe pháp Tứ Đế, độ cho năm vị đồng tu như Tôn giả Kiều Trần Như v.v...,
chứng được đạo quả.
Lại có các vị Tỳ-Khưu nói lên
những điều ngờ vực của ḿnh, xin Phật chỉ dạy cho điều ǵ nên tiến và điều
ǵ nên ngưng.
Đức Thế-Tôn dạy bảo, ai cũng
đều khai ngộ. Các vị chắp tay, kính vâng và thuận theo lời Ngài chỉ dạy.
CHƯƠNG 1
XUẤT-GIA,
CHỨNG QUẢ
Phật dạy: “Từ biệt người thân
đi xuất gia, nhận thức được tâm, thấu suốt được cội gốc và hiểu rơ được pháp
vô vi, mới gọi là “Sa môn”. Vị Sa môn thường giữ hai trăm năm mươi giới, khi
tiến, khi ngưng, đều ở trong niệm thanh tịnh và thực hành đạo hạnh của bốn
chân đế, để thành bốn Thánh quả như bậc A La Hán v.v...
A La Hán (Arahat) là vị tu
chứng có thể phi hành, biến hóa, kéo dài thọ mệnh nhiều kiếp và khi an trụ
có thể làm rung chuyển trời đất.
Thứ đến, A Na Hàm (Angàmi). A
Na Hàm là vị tu chứng, sau khi mất, linh thần sinh lên cơi trời thứ mười
chín, chứng quả A La Hán.
Thứ đến,Tư Đà Hàm (Sakrdàgàmi).
Tư Đà Hàm là vị tu chứng, chỉ c̣n một lần sinh lên cơi trời và một lần trở
lại cơi người trong Dục giới là chứng được quả A La Hán.
Thứ nữa là Tu Đà Hoàn (Sotàpanna-phala).
Tu Đà Hoàn là vị tu chứng c̣n phải bảy lần sinh, bảy lần tử nữa, mới chứng
được quả A La Hán.
Chặt đứt ái dục như chặt tứ
chi, không dùng ǵ nữa, (tức là vượt khỏi luân hồi)!”.
CHƯƠNG 2
ĐOẠN DỤC
TUYỆT CHỨNG
Phật dạy: “Bậc Sa môn xuất
gia, dứt tham dục, bỏ ái nhiễm, biết nguồn tâm của ḿnh, suốt lư sâu của
Phật, ngộ pháp vô vi; bên trong, không có chỗ nào gọi là chứng đắc; bên
ngoài, không có chỗ nào gọi là cầu được; tâm không hệ thuộc với đạo và cũng
không kết nghiệp, không suy niệm, không tạo tác, chẳng phải tu, chẳng phải
chứng, không trải qua các quả vị mà tự thể nhập diệu quả cao thượng, đó gọi
là “đạo”.
CHƯƠNG 3
CẮT ÁI BỎ
THAM
Phật dạy: “Cắt bỏ râu tóc,
làm bậc Sa Môn lĩnh thụ đạo pháp, bỏ của cải thế gian, cầu xin lấy đủ: giữa
ngày một bữa ăn, một giấc ngủ dưới gốc cây, và thận-trọng, không dám ham
muốn đến hai lần. V́, ái và dục làm cho người ta ngu mê vậy”.
CHƯƠNG 4
THIỆN, ÁC
ĐỀU RƠ
Phật dạy: “Chúng sinh lấy
mười việc làm thiện và, cũng lấy mười việc làm ác. Những ǵ là mười? - Thân
ba việc. Miệng bốn việc. Ư ba việc. Ba việc của thân là: sát, đạo, dâm. Bốn
việc của miệng là: hai lưỡi, ác khẩu, nói dối và nói thêu dệt. Ba việc của ư
là: tham, sân, si.
Mười việc như thế không thuận
Thánh đạo, gọi là mười hạnh ác. Việc ác ấy nếu ngưng chỉ, th́ gọi là mười
hạnh thiện”.
CHƯƠNG 5
CHUYỂN
NẶNG THÀNH NHẸ
Phật dạy: “Người ta có những
tội lỗi mà không biết tự hối, sớm dứt tâm tội lỗi ấy đi, th́ tội lỗi sẽ tới
ḿnh, như nước chảy về biển, dần dần thành sâu rộng. Nếu người ta có tội lỗi,
tự biết là trái, đổi ác làm lành tội tự tiêu diệt, như người đau, được mồ
hôi xuất ra, dần dần được giảm bớt”.
CHƯƠNG 6
NHẪN ÁC
KHÔNG GIẬN
Phật dạy: “Người ác nghe có
người nào làm thiện, cố ư tới làm nhiễu loạn. Trường hợp ấy, ông nên tự ngăn
cấm, không nên giận trách. Người kia đem điều ác tới, họ tự vời lấy điều ác”.
CHƯƠNG 7
ÁC LẠI
BẢN THÂN
Phật dạy: “Có người nghe ta
giữ đạo, làm việc rất nhân từ, cố ư tới nhục mạ Phật. Phật im lặng không đối
đáp. Người mạ nhục ấy ngưng, Đức Phật hỏi: “Ông đem lễ biếu người nào đó,
người ấy không nhận, lễ ấy, ông đem về chứ?” Người kia đáp: “Tôi đem về!”.
Phật dạy: “Nay ông mạ nhục
tôi, tôi không nhận, ông tự mang lấy tai họa, nó quay về thân ông. Việc làm
ấy, như vang ứng tiếng, bóng theo h́nh, hoàn toàn không tránh khỏi được. Vậy,
cẩn thận chớ làm điều ác”.
CHƯƠNG 8
TUNG, NHỔ
TỰ-NHƠ
Phật dạy: “Người ác hại người
hiền, như ngửa mặt lên trời mà nhổ, nước bọt, nhổ không đến trời, lại rớt
xuống ḿnh; ngược gió tung bụi, bụi không bay tới người kia, bụi cuộn lại
ḿnh. Người hiền không thể hủy hoại được mà tai họa quyết sẽ làm hoại diệt
ḿnh”.
CHƯƠNG 9
VỀ GỐC
GẶP ĐẠO
Phật dạy: “Yêu đạo bằng cách
nghe nhiều th́ đạo khó gặp được. Giữ chí bền chắc, vâng làm theo đạo, đạo ấy
rất lớn”.
CHƯƠNG 10
HỶ-THÍ
ĐƯỢC PHÚC
Phật dạy: “Thấy người ta làm
đạo bố thí giúp đỡ người ta bằng sự hoan hỷ, được phúc rất lớn”. Có vị Sa Môn
hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn, phúc ấy có hết không?”
Phật dạy: “Như lửa của một bó
đuốc, vài ngàn trăm người, đều đem đuốc đến lấy lửa, lấy về, nấu cơm chín,
trừ nhà tối, mà lửa của bó đuốc ấy vẫn như cũ. Việc được phúc cũng thế”.
CHƯƠNG 11
CÚNG CƠM
DẦN HƠN
Phật dạy: “Cho cơm một trăm
người ác, không bằng đăi cơm một người thiện. Đăi cơm ngàn người thiện,
không bằng đăi cơm một người giữ ngũ giới; đăi cơm vạn người giữ ngũ giới,
không bằng cúng cơm một vị Tu đà hoàn; cúng cơm một trăm vạn vị Tu đà hoàn
không bằng cúng cơm một vị Tư đà hàm; cúng cơm một ngàn vạn vị Tư-đà-hàm,
không bằng cúng cơm một vị A na hàm; cúng cơm một ức vị A na hàm, không bằng
cúng cơm một vị A La Hán; cúng cơm mười ức vị A La Hán, không bằng cúng cơm
một vị Bích chi phật; cúng cơm trăm ức vị Bích chi phật, không bằng cúng cơm
một vị trong tam thế chư Phật; cúng cơm ngàn ức vị trong tam thế chư Phật,
không bằng cúng cơm một vị Vô Niệm, Vô Trụ, Vô Tu, Vô Chứng”.
CHƯƠNG 12
KHÓ,
KHUYÊN GẮNG TU
Phật dạy: “Người ta có hai
mươi việc khó: “Bần-cùng, bố thí, khó. Sang trọng, học đạo, khó. Bỏ mạng,
quyết chết (cho chính đạo), khó. Được thấy kinh Phật, khó. Sinh gặp đời Phật,
khó. Nhẫn sắc, nhẫn dục, khó. Thấy tốt, không cầu, khó. Bị nhục, không giận,
khó. Có thế không màng, khó. Chạm việc, vô tâm, khó. Học rộng, xét sâu, khó.
Trừ diệt ngă mạn, khó. Không khinh người chưa học, khó. Tâm làm việc b́nh
đẳng, khó. Không nói thị phi, khó. Gặp bậc thiện tri thức, khó. Học đạo,
kiến tính, khó. Tùy căn cơ mà hóa độ người, khó. Thấy cảnh không động, khó.
Khéo giải những phương tiện, khó.”
CHƯƠNG 13
HỎI VỀ
TÚC-MỆNH
Có một vị Sa Môn hỏi Phật:
“Bạch Thế Tôn bởi nhân duyên ǵ mà biết được thân mệnh của kiếp trước và
biết được chí đạo?”
Phật dạy: “Tâm
trong sạch, chí vững bền có thể biết được chí đạo. Ví như, lau gương bụi
sạch đi th́ sáng c̣n lại. Dứt ham muốn, không t́m cầu, sẽ biết được thân
mệnh của kiếp trước”.
CHƯƠNG 14
HỎI VỀ
THIỆN, ĐẠI
Có vị Sa-Môn hỏi Phật: “Bạch
Thế Tôn, ǵ là “thiện”? Ǵ là “tối đại” (rất lớn)?
Phật dạy: “Hành đạo,
giữ được lẽ chân thực là “thiện”, chí và đạo hợp là “đại”.
CHƯƠNG 15
HỎI VỀ
LỰC, MINH
Có vị Sa Môn hỏi Phật: “Bạch
Thế Tôn, ǵ là “đa lực” (nhiều nghị-lực)? Ǵ là “tối minh” (rất sáng)? Phật dạy:
“Nhẫn nhục đa lực (nhiều nghị lực), v́ không ôm ấp những điều ác, có thêm sự
an vui, khang kiện. Người chịu nhẫn nhục, không làm điều ác, quyết được
người ta tôn kính. Tâm nhơ diệt hết, trong sạch không c̣n chút vết uế nhiễm,
đó là “tối minh” (rất sáng). Kể từ khi chưa có trời đất cho đến ngày nay,
những ǵ sở hữu trong mười phương, không có ǵ là không thấy, không có ǵ là
không biết, không có ǵ là không nghe, được “nhất thiết trí”, đáng gọi là
“minh” vậy.
CHƯƠNG 16
XẢ ÁI ĐẮC
ĐẠO
Phật dạy: “Người ta ôm-ấp tâm
ái-dục, sẽ không thấy được đạo. Ví như nước lắng, tḥ tay khuấy lên, mọi
người tới xem, soi h́nh vào nước, đều không trông thấy bóng-dáng của ḿnh.
Người ta đem ái-dục giao xen lẫn nhau, th́ vẩn đục trong tâm nổi lên, nên
không thấy được đạo. Sa-Môn các ông, nên bỏ ái - dục. Cấu-nhiễm của ái-dục
hết, th́ đạo có thể thấy được”.
CHƯƠNG 17
SÁNG LẠI,
TỐI RỜI
Phật dạy: “Người thấy được
đạo, ví như người cầm bó đuốc vào trong nhà tối, bóng tối liền mất, mà chỉ
c̣n có ánh sáng. Người học đạo thấy chân đế, vô minh liền diệt, mà chỉ
“minh” (ánh sáng) thường c̣n”.
CHƯƠNG 18
NIỆM...
VỐN KHÔNG
Phật dạy: “Giáo pháp của ta,
tuy niệm nhưng không chấp niệm, phi niệm, hành nhưng không chấp hành, phi
hành; ngôn nhưng không chấp ngôn, phi ngôn; Tu nhưng không chấp tu, phi tu.
Người hiểu được th́ được gần đạo, mà người mê th́ bị xa đạo vậy! Đường ngôn
ngữ dứt, không thể bị bó buộc bởi sự vật. Thế nhưng, sai đi hào ly th́ mất
đi trong giây lát”.
CHƯƠNG 19
QUÁN GIẢ VÀ CHÂN
Phật dạy: “Xem trời đất, niệm
phi thường, xem thế giới, niệm phi thường, quán tính linh giác tức là bồ đề.
Hiểu biết như thế th́ đắc đạo nhanh chóng vậy!”
CHƯƠNG 20
CÁI TA
VỐN KHÔNG
Phật dạy: “Nên nghĩ, bốn đại
trong thân này, mỗi đại đều tự có cái tên, nhưng chúng đều không có cái TA.
Cái TA đă không, th́ chúng đều là như huyễn vậy”.
CHƯƠNG 21
THANH-DANH HẠI M̀NH
Phật dạy: “Người ta hướng
theo t́nh dục t́m cầu thanh danh. Thanh danh rực rỡ th́ thân đă tàn vậy!
Tham lam cái danh thường của thế gian mà không học đạo, thực là uổng công và
mệt nhọc thân h́nh vậy! Ví như đốt hương, tuy người ngoài ngửi được mùi
hương, nhưng hương th́ tàn lụi! Ngọn lửa dục đem lại nguy hiểm cho thân, mà
nhất là nghiệp quả sau này vậy!”
CHƯƠNG 22
TÀI, SẮC
VỜI KHỔ
Phật dạy: “Đối với người ta,
tài và sắc không bỏ được, ví như lưỡi dao có mật, chút mật trên lưỡi dao,
không đủ một bữa ăn ngon nhưng, tiểu nhi liếm vào th́ có cái tai họa cắt
lưỡi!”
CHƯƠNG 23
CÁI NGỤC
VỢ CON
Phật dạy: “người nào hệ lụy
vào vợ, con nhà cửa, c̣n nặng hơn bị giam trong lao ngục. Lao ngục c̣n có
khi được phóng thích, nhưng vợ con không có ư niệm xa ĺa được. T́nh yêu đắm
vào sắc dục như thế, há không sợ c̣n đeo đuổi măi sao? Tuy có tai hoạn như
sao vào miệng hổ, tâm phải cố gắng ǵn giữ, nén dẹp. Tự d́m ngập vào bùn nhơ
là kẻ phàm-phu. Hiểu suốt được cửa ái dục ấy, để ra khỏi, là bậc La Hán xuất
trần!”
CHƯƠNG 24
SẮC DỤC
CHƯỚNG ĐẠO
Phật dạy: “Về ái dục không có
ǵ tệ hại hơn sắc. Sắc tạo ra sự ham muốn và, sự nguy hiểm lớn lao của nó,
không có ǵ vượt ngoài nó được! May nó chỉ có một, nếu có hai cùng như nó,
th́ khắp mọi người trong thiên hạ này không ai có thể làm đạo được!”
CHƯƠNG 25
LỬA DỤC
ĐỐT M̀NH
Phật dạy: “Người ham đắm ái
dục, cũng như người cầm đuốc đi ngược chiều gió thổi, quyết-định sẽ xẩy ra
tại hoạn cháy tay”.
CHƯƠNG 26
THIÊN-MA QUẤY PHẬT
Thiên-thần đem dâng ngọc nữ
cho Phật, muốn làm suy hoại tâm ư Phật. Phật dạy: “Túi da bọc các đồ nhơ!
Ngươi đến đây làm chi? Đi! Ta không dùng!”
Thiên thần càng thêm
cung kính và nhân đó hỏi về ư đạo. Đức Phật liền v́ Thiên thần ấy giải
thuyết về đạo lư, tức th́, Thiên thần ấy chứng được quả Tu Đà Hoàn.
CHƯƠNG 27
KHÔNG
CHẤP, ĐẮC ĐẠO
Phật dạy: “Người làm đạo cũng
như cây gỗ trôi trên mặt nước, theo ḍng nước mà đi, không chạm vào hai bên
bờ, không bị người ta vớt lấy, không bị quỷ thần ngăn trở, không bị ḍng
nước xoáy đứng lại, cũng không bị mục nát. Được như thế, Ta bảo đảm cây gỗ
ấy, quyết định vào được biển”.
“Người học đạo, không bị t́nh
dục mê hoặc không bị mọi thứ bất chính quấy nhiễu, tinh tiến hướng theo đạo
vô vi, Ta bảo đảm người ấy, quyết định đắc đạo vậy!”
CHƯƠNG 28
ĐỪNG
BUÔNG Ư-MĂ
Phật dạy: “Cẩn thận, đừng tin
ư của ngươi. Ư của ngươi không thể tin được. Cẩn thận, đừng hội ngộ với sắc,
hội ngộ với sắc th́ họa sinh. Khi chứng được quả A La Hán rồi, mới có thể
tin được ư của ngươi!”
CHƯƠNG 29
CHÍNH-QUÁN NGĂN SẮC
Phật dạy: “Cẩn thận, đừng
trông nữ sắc, và cũng không nên cùng tṛ chuyện. Nếu cùng nói chuyện, nên
chính tâm nhớ nghĩ: “ta là Sa Môn, ở trong đời vẩn đục, phải như hoa sen
không nhiễm bùn nhơ. Tưởng người già như mẹ, người lớn như chị, người trẻ
như em và người nhỏ như con, mà sinh ra tâm độ thoát, liền diệt được ác niệm”.
CHƯƠNG 30
XA L̀A
LỬA DỤC
Phật dạy: “Người làm đạo như
mặc áo cỏ khô, lửa tới nên tránh. Người làm đạo thấy sắc dục, quyết nên xa
tránh!”
CHƯƠNG 31
TÂM VẲNG
DỤC DIỆT
Phật dạy: “Có người lo ngại
không ngưng được tâm dâm dục, muốn chặt đứt âm bộ của ḿnh. Phật bảo người
ấy rằng: “Nếu muốn chặt đứt âm bộ của ḿnh, không bằng chặt đứt tâm của ḿnh!
Tâm như cơ quan chỉ đạo các công việc, cơ quan này ngưng công việc th́ những
người tùy ṭng cũng đều nghỉ. Tâm tà không ngưng, th́ chặt đứt âm bộ có ích
ǵ?”
Đức Phật liền v́ người ấy nói
bài kệ rằng:
“Dục sinh ở ư ngươi,
Ư bởi tư tưởng sinh.
Hai tâm đều vẳng lặng,
Chẳng sắc cũng chẳng
hành”.
Đức Phật dạy tiếp: “Bài kệ ấy
là do đức Phật Ca Diếp nói ra!”
CHƯƠNG 32
TA KHÔNG,
SỢ DIỆT
Phật dạy: “Người ta từ ái dục
sinh ra lo và từ ái dục sinh ra sợ. Nếu ĺa ái dục, th́ c̣n lo ǵ? sợ ǵ?”
CHƯƠNG 33
TRÍ SÁNG
PHÁ MA
Phật dạy: “Người làm đạo, ví
như một người chiến đấu cùng muôn người, mặc áo giáp ra ngoài cửa, ư hoặc
khiếp nhược, hoặc nửa đường lui về, hoặc chống cự mà chết, hoặc thắng trận
trở về. Sa Môn học đạo, phải nên giữ vững tâm ḿnh, tinh tiến dũng nhuệ,
không sợ cảnh trước mắt, phá diệt mọi ma, mà được đạo quả”.
CHƯƠNG 34
TRUNG-B̀NH, ĐẮC ĐẠO
Có vị Sa Môn, ban đêm tụng
kinh Di Giáo của Đức Phật Ca Diếp, tâm vị ấy có vẻ buồn rầu hồi hộp, suy
nghĩ, phàn nàn và muốn rút lui. Đức Phật hỏi vị ấy rằng: “Trước kia ông ở
tại gia thường làm nghề ǵ?”
- Vị ấy đáp: “Con thích gảy
đờn cầm.
- Đức Phật hỏi: “Dây
đờn chùng th́ sao?
- Vị ấy đáp: “Tiếng
không kêu”.
- Đức Phật hỏi: “Dây
đờn căng th́ sao?”
- Vị ấy đáp: “Tiếng
gắt vậy”.
- Dây đờn giữ được mức
trung-b́nh, tức là không căng, không chùng th́ sao?
- Vị ấy đáp: “Các
tiếng của nó sẽ âm vang khắp vậy”.
Phật dạy: “Vị Sa Môn học đạo
cũng thế, nếu tâm điều hợp, đạo có thể chứng được vậy. Đối với đạo, nếu quá
hăng hái, hăng hái th́ thân mệt; nếu thân mệt th́ ư sinh năo; nếu ư sinh năo
th́ sự thực hành bị lùi; sự thực hành đă lùi th́ tội ắt sẽ thêm vậy. Chỉ giữ
được thanh tịnh, an lạc, th́ đạo mới không mất vậy”.
CHƯƠNG 35
NHƠ SẠCH
SÁNG C̉N
Phật dạy: “Như người rèn sắt,
bỏ sét đi th́ thành đồ vật, đồ vật tinh hảo. Người học đạo, bỏ tâm cấu nhiễm
đi th́ công hạnh liền thanh tịnh vậy”.
CHƯƠNG 36
MỞ-MANG
HƠN LÊN
Phật dạy: “Con người ra khỏi
đường ác, được trở lại làm người cũng khó. Đă được làm người, bỏ thân nữ
được thân nam cũng khó. Đă được làm thân nam, nhưng được sáu căn đầy đủ cũng
khó. Được sáu căn đầy đủ, nhưng được sinh nơi trung quốc cũng khó. Được sinh
nơi trung quốc, nhưng được gặp đời có Phật cũng khó. Được gặp đời có Phật,
nhưng gặp được đạo cũng khó. Đă gặp được đạo, nhưng khơi dậy được tín tâm
cũng khó. Khơi dậy được tín tâm nhưng phát bồ đề tâm cũng khó. Phát được bồ
đề tâm, nhưng đạt được bậc Vô Tu, Vô Chứng cũng khó”.
CHƯƠNG 37
NIỆM GIỚI
GẦN ĐẠO
Phật dậy: “Phật tử xa Ta vài
ngàn dậm, nhưng nhớ nghĩ đến giới luật của Ta, Phật tử ấy quyết định sẽ được
đạo quả. Phật tử nào ở ngay bên tả bên hữu Ta, tuy thường thấy Ta, nhưng
không thuận theo giới luật Ta dạy, cuối cùng cũng không được đạo quả ǵ”.
CHƯƠNG 38
CÓ SINH
CÓ DIỆT
Đức Phật hỏi một vị Sa
Môn: “Mệnh người ta sống trong khoảng bao lâu?”
- Vị ấy thưa:
“Trong khoảng vài ngày”.
- Phật dạy: “Ông
chưa biết đạo”. Ngài lại hỏi một vị Sa Môn khác: “Mệnh người ta sống
trong khoảng bao lâu?”
- Vị ấy thưa: “Vào
khoảng một bữa ăn”.
- Phật dạy: “Ông
chưa biết đạo”. Ngài lại hỏi một vị Sa Môn khác: “Mệnh người ta sống
trong khoảng bao lâu?”
- Vị ấy thưa:
“Trong khoảng hô hấp”.
- Phật dạy: “Hay
thay, ông biết đạo vậy”.
CHƯƠNG 39
DẠY BẢO
KHÔNG SAI
Phật dạy: “Người học đạo Phật,
đức Phật nói điều ǵ, đều nên tin thuận. Ví như ăn mật, ăn ở giữa hay ở bên
cũng đều ngọt. Kinh của Ta nói ra cũng như thế!”.
CHƯƠNG 40
HÀNH ĐẠO
TẠI TÂM
Phật dạy: “Vị Sa Môn hành đạo,
đừng nên làm như con trâu kéo cối đá. Thân tuy hành đạo, nhưng tâm đạo không
hành. Tâm đạo nếu hành, th́ dùng hành đạo làm ǵ!”
CHƯƠNG 41
TRỰC TÂM
XUẤT DỤC
Phật dạy: “Người làm đạo, ví
như con trâu mang đồ nặng, lại đi vào chỗ bùn sâu rất mệt, nhưng không dám
ngoái trông bên tả, bên hữu, chờ khi đi ra khỏi đám bùn lầy, mới có thể nghỉ
ngơi. Vị Sa Môn nên quán sát t́nh dục, c̣n tệ hơn bùn lầy. Trực tâm niệm đạo,
được khỏi khổ vậy”.
CHƯƠNG 42
SUỐT SỰ
BIẾT HUYỄN
Phật dạy: “Ta coi ngôi vị
vương hầu, như hạt bụi qua kẽ hở; coi của báu vàng ngọc như ngói, sỏi; coi
trang-phục lụa nơn, như giẻ rách; coi cơi đại thiên như một hạt ha tư; coi
nước ao A nậu như giọt dầu thoa chân; coi môn phương tiện như đống hóa bảo;
coi vô thượng thừa như mơ thấy vàng, lụa; coi Phật đạo như bông hoa trước
mắt; coi thiền định như cột núi Tu Di; coi niết bàn như cơn tỉnh ngủ ban
ngày; coi sự xoay, thẳng như sáu con rồng múa; coi lư b́nh đẳng như nơi nhất
chân pháp giới; coi sự hưng hóa như cây bốn mùa”.
HẾT
Top |