Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
Quay trở về Trang nhất Hi-tech Điều tra Forum Gbook Tin tức Lưu trữ Tiếp tục SME Việt Nam
Update | 07/12/2003
Chương trình trợ giúp và phát triển
Chính phủ
Bộ kế hoạch và đầu tư
Hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ủy ban nhân dân tỉnh và thành phố
Hệ thống phát triển DNN&V
Cấp nhà nước
Cấp tỉnh và thành phố
Cấp địa phương
Cơ chế chính sách
Quyết định 12/2003/QĐ-TTg
Quyết định 185 QĐ/BKH
Quyết định 504 QĐ/BKH
Nghị định của chính phủ 90/2001/NĐ-CP
Tổ chức kinh doanh
Sơ đồ thành lập kinh doanh
Hình thức pháp nhân
Đăng ký kinh doanh
Cán bộ va nhân lực
Tài khoản nhà băng
Giấy phép kinh doanh
Đơn đặt hàng của nhà nước
Vốn đầu tư
Giải thể doanh nghiệp
Thuế, Kế toán và Ưu đãi

Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2003(Tóm tắt báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ tại phiên họp thường kỳ tháng 11 - 2003)


    I. Về các hoạt động kinh tế.
    (1). Tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp tiếp tục được duy trì ở mức cao, nhất là khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
    Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 11 ước tăng 16,1% so với cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 11,5% (Trung ương 11,2%; địa phương 12,1%); khu vực ngoài quốc doanh tăng 18,2% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,3%.
    Một số nét nổi bật của sản xuất công nghiệp trong tháng 11 là sản lượng các sản phẩm tiêu dùng tăng khá mạnh do thị trường xuất khẩu tiếp tục được mở rộng và nhu cầu trong nước tăng lên; một số sản phẩm tiêu dùng chủ yếu như bột ngọt, sữa hộp, bia, đường mật các loại, thủy sản chế biến, quạt điện dân dụng, tivi và ô tô các loại,... đều tăng trên 19-20% so với cùng kỳ. Tiến độ thực hiện các công trình xây dựng vào những tháng cuối năm đã được đẩy nhanh làm cho nhu cầu vật liệu xây dựng tăng lên, kéo theo sản xuất xi măng, gạch xây, sứ vệ sinh, gạch lát, thép cán đều tăng nhanh (sứ vệ sinh tăng 73%, xi măng tăng trên 19%, gạch xây tăng 15% và gạch lát tăng gần 47%). Một số loại động cơ cũng tăng mạnh do có thị trường xuất khẩu, như động cơ diezel tăng 99%, động cơ điện tăng 132%, máy biến thế tăng 97%. Tuy nhiên, vẫn có một số sản phẩm có sản lượng giảm so với cùng kỳ; đặc biệt là thuốc ống (giảm 17,9%), thuốc viên (giảm 1,1%) mặc dù giá thuốc đã tăng lên rất mạnh trong 10 tháng đầu năm và tiếp tục tăng trong tháng 11.
    Tính chung 11 tháng, giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng 16% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước tăng 14,4%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 12,3% (Trung ương tăng 12,5%, địa phương tăng 12%); khu vực ngoài quốc doanh tăng 18,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,3%.
    Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có tốc độ tăng trưởng cao trong 11 tháng năm 2003 so với cùng kỳ là than sạch khai thác tăng 19%, thủy sản chế biến tăng 18%, sứ vệ sinh 46%, gạch xây 20%, quạt điện dân dụng gần 41%, bột ngọt 21%, bia 17%, đường mật các loại 39%, quần áo dệt kim 30%, quần áo may sẵn 41%, động cơ diezen 153%, động cơ điện gần 26%, tivi các loại 31%, ô tô các loại 38%.
    Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có tốc độ tăng trưởng khá mặc dù vẫn thấp hơn tốc độ bình quân chung của toàn ngành công nghiệp là điện tăng 14,4%, thép cán tăng 12%, thuốc lá bao gần 14%, giấy bìa các loại 11%, xi măng 13,6%, phân hoá học 11,2%, gạch lát 14,2%, sữa hộp gần 16%.
    Tuy nhiên, vẫn có một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có tốc độ tăng trưởng chậm so với cùng kỳ năm trước như dầu thô khai thác chỉ tăng 3,6%, xe máy các loại 8%, vải lụa thành phẩm tăng 7,4%, ắc quy 6,8%, xà phòng các loại 6,9%, máy biến thế tăng 3,4%, Xút NaOH 1,4%.
    Ngoài ra, còn có một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng giảm so với cùng kỳ như thuốc trừ sâu giảm 1,7%, thuốc viên các loại giảm 1,7%, thuốc ống các loại giảm 17,2%, máy công cụ giảm 4,1%, xe đạp hoàn chỉnh giảm 30,3%.
    Nhìn chung, giá trị sản xuất công nghiệp tại các địa phương trong 11 tháng đều tăng khá so với cùng kỳ, như Hà Nội tăng 27,7%, Đà Nẵng 22%, Bình Dương 36,2%, Đồng Nai 20,4%, Vĩnh Phúc 34,1%, Thanh Hoá 18,5%, Khánh Hoà 20,8%, Cần Thơ 19,5%, Hà Tây 18%, Hải Dương 20%, Hải Phòng 16,9%, Quảng Ninh tăng 18,2%.
    Một số địa phương có qui mô và tỷ trọng sản xuất công nghiệp lớn nhưng tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp 11 tháng thấp so với trung bình cả nước, như Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 6,2%, thành phố Hồ Chí Minh tăng 15,2%, Phú Thọ tăng 10,3%.
    (2). Sản xuất nông nghiệp tiếp tục duy trì ổn định, nuôi trồng thủy sản tăng trưởng khá.
    Sản lượng lúa đông xuân năm nay cả nước ước đạt 16,76 triệu tấn, tăng gần 4 vạn tấn so với vụ đông xuân năm 2002, trong đó miền Bắc đạt 6,6 triệu tấn (tăng 13,6 vạn tấn), miền Nam đạt 10,1 triệu tấn (giảm 9,7 vạn tấn). Nếu tính cả 1,4 triệu tấn lương thực có hạt khác thì sản lượng lương thực có hạt vụ đông xuân năm nay đạt 18,2 triệu tấn tăng 25,8 vạn tấn so với vụ đông xuân năm trước.
    Đến nay, các địa phương đã thu hoạch xong 2.247 nghìn ha lúa hè thu , bằng 96,7% diện tích gieo cấy. Năng suất bình quân 40,6 tạ/ha, sản lượng ước đạt 9,12 triệu tấn, trong đó các địa phương miền Nam đã thu hoạch 2.088 nghìn ha, bằng 96,5% diện tích gieo cấy, sản lượng đạt gần 8,5 triệu tấn. Tổng sản lượng lúa hè thu năm nay ước tăng khoảng 2 % so với năm trước.
    Đến ngày 15/11/2003, các địa phương đã gieo cấy được 2.011 nghìn ha lúa mùa , bằng 94,5% kế hoạch năm và tương đương với cùng kỳ năm 2002; trong đó các địa phương miền Bắc gieo cấy 1.242 nghìn ha, bằng 89,6% kế hoạch năm. Đến hết tháng 10/2003, đã thu hoạch được hơn 1 triệu ha lúa mùa, năng suất khoảng 46,2 tạ/ha, sản lượng đạt gần 4,7 triệu tấn. Riêng các tỉnh miền Bắc đã thu hoạch được 888 nghìn ha, bằng 72% diện tích gieo cấy.
    Từ đầu năm tới nay, trên địa bàn cả nước không xảy ra các dịch sâu bệnh hại lúa lớn. Tuy nhiên, vẫn xảy ra một vài dịch sâu gây hại cục bộ tại một số địa phương như đồng bằng sông Cửu Long bị rầy nâu, rầy lưng trắng phá hoại khoảng 4.560 ha; một số tỉnh trung du, ven biển, miền trung và Tây nguyên bị dịch sâu đục thân 2 chấm. ở phía Nam, chuột đã phá hỏng khoảng 9,6 nghìn ha lúa và ốc bươu vàng phá hoại khoảng 54,3 nghìn ha lúa khác.
    Tính chung, diện tích lúa cả năm 2003 ước đạt 7.444 nghìn ha, giảm 61 ngàn ha so với năm 2002. Năng suất lúa cả năm ước đạt 46,6 tạ/ha, tăng 0,7 tạ/ha, sản lượng đạt khoảng 34,7 triệu tấn, tăng 22 vạn tấn. Nếu tính thêm 2,85 triệu tấn ngô thì tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2003 ước đạt 37,5 triệu tấn, tăng 1,5% so với 2002 (tương đương 55,9 vạn tấn).
    Nuôi trồng thủy sản : do thời tiết thuận lợi, quản lý giống, thức ăn, dịch bệnh tốt và các hộ nông dân tích cực áp dụng các công nghệ mới đi đôi với đa dạng hoá các loài thủy sản nước ngọt nuôi trồng nên sản lượng nuôi trồng thủy sản tiếp tục tăng trưởng nhanh; đặc biệt trong vụ tôm sú, tôm hùm lồng năm nay các tỉnh đều đạt năng suất và sản lượng cao. Sản lượng nuôi trồng thủy sản tháng 11/2003 ước đạt 100 nghìn tấn; tích lũy từ đầu năm đến hết tháng 11 đạt hơn 977 nghìn tấn, bằng 89,7% kế hoạch năm và tăng 11,9% so với cùng kỳ năm 2002.
    Khai thác hải sản: trong tháng 11, gió mùa đông bắc, mưa to và bão đã tác động xấu đến hoạt động khai thác hải sản tại một số tỉnh miền Trung. Tuy nhiên, tại nhiều địa phương khác, thời tiết tương đối thuận lợi nên hiệu quả khai thác thủy sản đạt khá; tại Phú Yên sản lượng khai thác cá ngừ đại dương tăng 2 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Các tỉnh thuộc khu vực Bắc Bộ bắt đầu vào vụ cá bắc; mật độ cá xuất hiện tương đối dày, thuận lợi cho việc đánh bắt bằng các tàu công suất lớn và bám biển dài ngày. Ước sản lượng khai thác hải sản tháng 11 đạt 110 nghìn tấn, nâng sản lượng 11 tháng lên 1.377 nghìn tấn, bằng 98,4% kế hoạch năm và tăng 3,4% so với cùng kỳ.
    Sản lượng thủy sản tháng 11 ước đạt 210 nghìn tấn; tính chung từ đầu năm đến hết tháng 11 đạt 2.354 nghìn tấn, bằng 94,6% kế hoạch năm và tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2002.
    (3). Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ tiếp tục tăng lên; thị trường nội địa phát triển ổn định; hoạt động du lịch đang ngày càng sôi động.
    Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tháng 11 ước đạt 26,9 nghìn tỷ đồng, tăng 1,2% so với tháng 10; tính chung 11 tháng đạt khoảng 281 nghìn tỷ đồng, tăng 12% so với cùng kỳ, trong đó khu vực kinh tế nhà nước đạt 47 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,8% tổng mức bán lẻ hàng hoá; kinh tế tập thể đạt 2,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,9%; kinh tế cá thể đạt 181 nghìn tỷ đồng, chiếm 64,5%; kinh tế tư nhân đạt gần 45 nghìn tỷ đồng, chiếm 16%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 5 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,8%. Như vậy, tỷ lệ tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ ngày tiếp tục tăng lên.
    Nhìn chung, thị trường nội địa trong tháng 11 tiếp tục ổn định. Mặc dù tháng 11 là thời điểm giáp hạt cuối năm, nhu cầu gạo hàng hoá cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu đều tăng nhưng giá lương thực tăng không lớn. Giá các mặt hàng vật liệu xây dựng tiếp tục ổn định tuy đang trong mùa xây dựng. Tốc độ tiêu thụ nhiều loại hàng hoá tiếp tục được đẩy nhanh.
    Trong tháng 11, các cơ quan quản lý thị trường tiếp tục tăng cường kiểm tra các mặt hàng lưu thông trên thị trường. Tuy nhiên, do chỉ còn khoảng 2 tháng nữa là tới Tết Nguyên đán nên hoạt động thương mại đang gia tăng nhanh; trong đó buôn lậu và gian lận thương mại tiếp tục tăng lên và ngày càng phức tạp. Trong nửa đầu tháng 11, đã xử lý gần 3.400 vụ vi phạm quy định thương mại, tăng 5,9% so với nửa đầu tháng 11. Tổng số tiền thu được qua xử lý các hoạt động buôn lậu và gian lận thương mại trong 11 tháng qua ước tới 300 tỷ đồng.
    Hoạt động du lịch trong tháng 11 khá sôi động. Các địa phương đã triển khai rộng rãi việc trang hoàng băng rôn, áp phích quảng bá SEA Games 22; đồng thời chuẩn bị tốt cơ sở vật chất để đón khách nước ngoài đến tham quan, du lịch nhân dịp sang dự SEA Games 22. Bên cạnh việc tiếp tục nâng cấp các khách sạn, tổ chức in ấn sách, ảnh và tài liệu tuyên truyền SEA Games 22, các địa phương đã chú trọng tuyên truyền vệ sinh an toàn thực phẩm và phòng tránh cháy nổ tại các địa điểm diễn ra thi đấu SEA Games 22 và những nơi có khách nước ngoài ở. Tại Hà Nội, đã tổ chức thành công Lễ hội du lịch quốc tế tại Hồ Hoàn Kiếm; tại Đà Lạt, đã khai mạc Tuần lễ hội kỷ niệm 110 năm Đà Lạt hình thành và phát triển, thu hút được hàng chục nghìn du khách trong nước và quốc tế tới tham quan.
    Lượng khách quốc tế đến Việt Nam tiếp tục tăng mạnh trong những tháng gần đây. Trong tháng 11, ngành du lịch đã đón trên 230 nghìn khách quốc tế, tăng 15% so với tháng 10. Tính chung 11 tháng, số khách quốc tế đến Việt Nam đạt gần 2,1 triệu lượt người, bằng 87,2% so với cùng kỳ và bằng 74,6% kế hoạch năm. Số khách nội địa 11 tháng ước đạt 11,5 triệu lượt người, bằng 97,5% so với cùng kỳ và bằng 88,8% kế hoạch năm. Doanh thu du lịch toàn xã hội 11 tháng ước đạt 19.200 tỷ đồng, bằng 89% so với cùng kỳ và gần 77% so với kế hoạch năm.
    Hoạt động vận tải hàng hoá và hành khách trong tháng 11 tiếp tục xu thế phục hồi đã hình thành trong những tháng gần đây. Đặc biệt, tốc độ phục hồi trong tháng 11 đã tăng lên khá mạnh do các hoạt động kinh tế và xã hội cuối năm đang tăng lên, đồng thời công tác chuẩn bị cho SEA Games 22 đang đi vào giai đoạn nước rút. Tính chung cả 11 tháng, vận tải hàng hoá tăng 6,9% về tấn và 4,5% về tấn-km so với cùng kỳ năm trước; vận tải hành khách tương ứng tăng 4,5% về lượt hành khách và 3,9% về lượt hành khách-km.
    (4). Kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng cao; nhập siêu tiếp tục xu hướng giảm dần.
    Kim ngạch xuất khẩu tháng 11 ước đạt khoảng 1,66 tỷ USD, bằng trung bình của 10 tháng và tăng 0,4% so với tháng 10; trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu (kể cả dầu thô) đạt 830 triệu USD, tăng 0,7% so với tháng 10.
    Tính chung cả 11 tháng, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 18,29 tỷ USD, vượt 2,7% kế hoạch năm và tăng 21,8% so với cùng kỳ năm trước; trong đó kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 9,1 tỷ USD, vượt 12,3% kế hoạch năm và tăng 29,6% so với cùng kỳ năm trước. Nếu không kể dầu thô thì kim ngạch xuất khẩu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 5,7 tỷ USD, vượt 18,8% kế hoạch năm và tăng 38,9% so với cùng kỳ năm trước.
    Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu có tỷ lệ tăng trưởng về kim ngạch cao trong 11 tháng đầu năm so với cùng kỳ là dệt may tăng 37,8%, giầy dép 21,1%, dây điện và cáp điện 60,7%, sản phẩm gỗ 35,5%, hàng điện tử 45,8%, máy vi tính và linh kiện 34,7%, xe đạp và phụ tùng xe đạp 35,9%, hạt điều 35,6%. Các mặt hàng có mức tăng trưởng về lượng cao so với cùng kỳ là than đá tăng 14,9%, gạo 23,7%.
    Các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng chậm là sản phẩm nhựa tăng 12,9%, thủy sản 12,7%, hàng thủ công mỹ nghệ 11,5%. Mặt hàng cao su xuất khẩu có khối lượng tăng 3,8% so với cùng kỳ. Riêng đối với mặt hàng dầu thô, khối lượng xuất khẩu chỉ tăng 1,9%.
    Các mặt hàng có khối lượng hoặc kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ chủ yếu là nông sản, như về lượng, lạc nhân giảm 19,4%, chè giảm 23,6%, cà phê giảm 8,8%; về kim ngạch, hàng rau quả giảm 24,7%, hạt tiêu giảm 4,8%.
    Mặc dù kim ngạch xuất khẩu trong 11 tháng qua tăng trưởng vào loại kỷ lục kể từ năm 1998 đến nay, xuất khẩu nước ta vẫn bộc lộ nhiều điểm yếu kém cần sớm được điều chỉnh; điển hình là tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa trên tăng khối lượng hàng xuất khẩu, ít chú trọng tới nâng cao chất lượng và tỷ lệ chế biến hàng xuất khẩu để tăng giá hàng xuất khẩu; hoặc chỉ chú trọng xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ, làm giảm kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này vào các thị trường EU và Nhật Bản...
    Kim ngạch nhập khẩu tháng 11 ước đạt 2,05 tỷ USD, giảm 3,1% so với tháng 10; trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu 780 triệu USD, chỉ tăng 2 triệu USD so với tháng 10.
    Tính chung cả 11 tháng, kim ngạch nhập khẩu ước đạt 22,65 tỷ USD, tăng 28,8% so cùng kỳ năm 2002; trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu 7.973 triệu USD, vượt 13,9% kế hoạch năm và tăng 33,3% so với cùng kỳ năm 2002.
    Các mặt hàng chủ yếu có kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh trong 11 tháng là máy vi tính và linh kiện 91%; vải các loại 31,6%; tân dược 18,7%; máy móc thiết bị 48,1%; nguyên liệu dệt may da 18,3%; hoá chất 26,2%, linh kiện điện tử 18%. Các mặt hàng chủ yếu có khối lượng nhập khẩu tăng là linh kiện và phụ tùng ô tô tăng 56,6%; giấy các loại 25,4%. Riêng 2 mặt hàng phân bón và chất dẻo nguyên liệu có khối lượng nhập khẩu tăng chậm, lần lượt là 9,5% và 9,1%.
    Các mặt hàng có khối lượng nhập khẩu giảm so với cùng kỳ là ô-tô nguyên chiếc giảm 24,2%, xăng dầu giảm 1,3%, thép các loại giảm 8,2% (riêng phôi thép giảm 22,1%), bông các loại giảm 3,4%, sợi các loại giảm 17,4%. Kim ngạch nhập khẩu linh kiện xe máy giảm 21,6%.
    (5). Thực hiện vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước tiếp tục tăng khá, đến hết tháng 11 đã vượt kế hoạch cả năm. Nhiều công trình được đẩy nhanh tiến độ, nhất là các công trình trọng điểm; đến nay đã cơ bản hoàn thành tất cả các hạng mục công trình phục vụ SEA Games 22.
    Đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước tập trung 11 tháng đầu năm, thực hiện vốn ngân sách nhà nước tập trung đạt 102,1% kế hoạch năm (cùng kỳ năm trước chỉ đạt 93,1%), trong đó các Bộ, ngành Trung ương đạt 108,8% kế hoạch năm; các địa phương đạt 94,7% kế hoạch năm.
    Một số Bộ, ngành trung ương thực hiện vốn đầu tư trong 11 tháng cao so với kế hoạch năm là Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (108%), Bộ Giao thông Vận tải (116,4%), Bộ Thủy sản (93,8%), Bộ Giáo dục và Đào tạo (90,3%), Bộ Y tế (95,7%).
    Tiến độ thực hiện kế hoạch năm của các Bộ Văn hoá và Thông tin, Bộ Công nghiệp thấp, đến hết tháng 11 mới đạt khoảng 86% kế hoạch năm.
    Theo báo cáo của Bộ Giao thông Vận tải, đến nay đã hoàn thành nhiều công trình quan trọng trong kế hoạch 2003 như đoạn Quảng Ngãi - Nha Trang trên Quốc lộ 1, cầu Quốc lộ 1 giai đoạn II-3, đoạn Nội Bài - Bắc Ninh và Hòn Gai - Cửa Ông trên Quốc lộ 18, đoạn Quảng Ninh - Ninh Bình trên Quốc lộ 10, 37 cầu giao thông nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long, thông hầm đường bộ Hải Vân, các nút giao thông đường Xuyên á, đoạn từ km 0 đến km 145 Quốc lộ 1B, nâng cấp đoạn ngã ba Pháp Vân - Văn Điển, cảng Cái Lân (phần xây lắp)... Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tiến độ thực hiện các công trình thủy lợi khá cao, đến hết tháng 11 đã hoàn thành 124,8% kế hoạch năm; hiện tượng nợ khối lượng từ các năm trước chuyển sang diễn ra ở hầu hết các công trình thủy lợi.
    Riêng đối với một số tỉnh miền Trung, do trong những tháng trước đây bị mưa lũ, ngập lụt kéo dài, tiến độ thực hiện các dự án bị chậm lại; hiện nay thời tiết đã thuận lợi hơn trong khi nguồn vật liệu xây dựng dồi dào và giá cả ổn định, nên tiến độ thi công đang được đẩy mạnh, nhất là đối với các dự án hạ tầng giao thông và thủy lợi.
    Giải ngân ODA trong 11 tháng ước đạt khoảng 1.380 triệu USD, bằng 80% kế hoạch năm, là năm có mức giải ngân thấp nhất trong giai đoạn gần đây; trong đó vốn vay đạt khoảng 1.230 triệu USD, vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 150 triệu USD. Trong tổng mức giải ngân ODA, riêng vốn vay ODA của ba nhà tài trợ lớn nhất (JBIC, Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu á) đã chiếm khoảng 85% (1.050 triệu USD).
    Từ đầu năm đến ngày 25/11/2003, nguồn vốn ODA được hợp thức hoá bằng việc ký kết các Hiệp định với các nhà tài trợ đạt 1.668 triệu USD, trong đó vốn vay đạt 1.280 triệu USD và vốn viện trợ không hoàn lại đạt 387 triệu USD. Riêng trong tháng 11, đã ký một số hiệp định với Nhật Bản, Đức và Pháp, trị giá khoảng 31,2 triệu USD.
    Đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong tháng 11 có thêm 33 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký là 49 triệu USD; tính chung 11 tháng cả nước có 578 dự án được cấp giấy phép đầu tư mới với tổng số vốn đăng ký là 1.420 triệu USD, giảm 18,6% về số dự án và tăng 4,3% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2002.
    Trong tháng 11, có 16 lượt dự án tăng vốn với tổng số vốn tăng thêm là 27 triệu USD; tính chung 11 tháng, có 321 lượt dự án tăng vốn với tổng số vốn tăng thêm là 889 triệu USD, tăng 1,6% về số dự án và giảm 6% về vốn so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, trong 11 tháng, tổng số vốn cấp mới và tăng thêm đạt 2.309 triệu USD, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm 2002.
    Trong tháng 11, đã đưa vào thực hiện được 200 triệu USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; tính chung 11 tháng đưa vào thực hiện được khoảng 2.450 triệu USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2002.
    Hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (không kể ngành dầu khí) trong 11 tháng năm 2003 phát triển khá. So với cùng kỳ năm trước, doanh thu của các doanh nghiệp thuộc khu vực này tăng 45,7%; kim ngạch xuất khẩu tăng 39%; nộp ngân sách đạt 445 triệu USD, tăng 6%. Đến nay, khu vực này đang tạo ra việc làm cho 660 nghìn lao động, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước.
    Do hiệu quả hoạt động kinh doanh của nền kinh tế đang tăng lên, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh ngày một nhiều. Đến hết tháng 10, cả nước có thêm gần 21,4 nghìn doanh nghiệp mới đăng ký kinh doanh với tổng số vốn đăng ký đạt 43,9 nghìn tỷ đồng, tăng 18% về số doanh nghiệp và 41,5% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2002. Trong 10 tháng đầu năm, đã có gần 10,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký bổ sung vốn với tổng số vốn bổ sung gần 14 nghìn tỷ đồng, tăng gần 200% về số doanh nghiệp và 32% về vốn đăng ký so với cùng kỳ.
    (6). Thu ngân sách nhà nước tiếp tục tăng trưởng ổn định, giá cả thị trường tiếp tục ổn định.
    Thu ngân sách nhà nước lũy kế đến 15 tháng 11 đạt 92,4% dự toán năm và xấp xỉ bằng cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2002 đạt 92,9%); trong đó, thu nội địa (không kể dầu thô) đạt 89,6% dự toán năm; thu từ dầu thô đạt 108,1% dự toán năm; thu từ xuất nhập khẩu đạt 87,1% dự toán năm.
    Trong các nguồn thu, nổi bật là thu từ dầu thô đến giữa tháng 11 đã vượt 8,1% dự toán năm do giá dầu thô thế giới tiếp tục tăng lên (bình quân trong tháng 11 đạt khoảng 219,3 USD/tấn, tăng 44,3 USD/tấn so với dự toán đầu năm và tăng 6,6 USD/tấn so với tháng 10). Trong khi đó, thu từ xuất nhập khẩu giảm đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái (cùng kỳ đạt 94,5% dự toán năm).
    Trong tổng thu nội địa, thu từ khu vực kinh tế nhà nước đạt 80,2% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đạt 93% dự toán năm; thu thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh đạt 95,1% dự toán năm; thu phí và lệ phí đạt 90,9% dự toán năm; thu từ người có thu nhập cao đạt 97,6% dự toán năm.
    Chi Ngân sách Nhà nước lũy kế đến 15 tháng 11 đạt 86,8% dự toán năm và xấp xỉ so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2002 đạt 87%); trong đó chi đầu tư phát triển đạt 87,2% dự toán năm (riêng chi cho đầu tư xây dựng cơ bản đạt 87,8% dự toán năm); chi phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội đạt 89,2% dự toán năm; chi trả nợ và viện trợ đạt 89,8% dự toán năm.
    Giá cả thị trường trong tháng 11 tiếp tục ổn định; chỉ số giá tiêu dùng tăng 0,6% so với tháng 10. Đáng chú ý là việc tăng giá chỉ xảy ra đối với nhóm hàng lương thực (tăng 2,8%), trong khi giá tất cả các nhóm hàng khác đều ổn định (tăng hoặc giảm dưới 1%). Chỉ số giá vàng trong tháng 11 tăng 3% do giá vàng thế giới tiếp tục tăng; chỉ số giá đô la tăng 0,5%.
    Tính chung trong 11 tháng, chỉ số giá tiêu dùng tăng 2,2% so với tháng 12/2003 (cùng kỳ tăng 3,7%), trong đó các nhóm hàng có chỉ số giá tăng cao hơn mức trung bình là đồ uống và thuốc lá (2,9%), may mặc, mũ nón và giày dép (2,9%), nhà ở và vật liệu xây dựng (3,5%), giáo dục (4,8%) và đặc biệt là dược phẩm, y tế (20,8%). Có 2 nhóm hàng có chỉ số giá tiêu dùng giảm là phương tiện đi lại, bưu điện (giảm 2,2%), và văn hoá, thể thao, giải trí (giảm 1,5%). Riêng các nhóm hàng lương thực, thực phẩm, thiết bị và đồ dùng gia đình có chỉ số giá 11 tháng cơ bản ổn định. Chỉ số giá vàng tăng 20,5%; chỉ số giá đô la tăng 1,7%.
II. Các hoạt động trong lĩnh vực xã hội
    (1). Giáo dục, đào tạo : Trong tháng 11, ngành giáo dục đã tổ chức các đoàn đi kiểm tra tình hình triển khai năm học mới tại một số địa phương. Nhìn chung, công tác giáo dục tại các địa phương đến nay đã đi vào nền nếp; việc giảng dạy theo chương trình và sách giáo khoa mới được tiến hành thuận lợi, bước đầu đã đảm bảo các yêu cầu về chất lượng.
    Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã tổ chức hội nghị tập huấn về chuẩn giáo viên tiểu học và hướng dẫn đánh giá giáo viên theo chuẩn. Hiện đang triển khai thí điểm công tác này tại 10 tỉnh, thành (Sơn La, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Quảng Bình, Phú Yên, Hải Phòng, Bến Tre, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Phước, Kon Tum); mỗi địa phương có khoảng 220 giáo viên tham gia. Dự kiến sau khi kết thúc đợt thí điểm vào cuối tháng 12/2003, sẽ mở rộng phạm vi đánh giá chuẩn giáo viên cho khoảng 25 nghìn giáo viên của 10 địa phương trên.
    Trong tháng 11, ngành giáo dục tiếp tục hoàn thiện các văn bản sửa đổi, bổ sung quy chế công tác học sinh, sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, đồng thời khẩn trương hoàn thiện thông tư hướng dẫn thực hiện quy chế văn bằng, chứng chỉ đại học và cao đẳng. Ngành cũng đang tiến hành tổng kết, đánh giá tình hình tuyển sinh năm học 2003-2004 và phương hướng, nhiệm vụ tuyển sinh năm học 2004-2005. Do vấn đề phát triển giáo dục đang được đại biểu Quốc hội và xã hội đặc biệt quan tâm, trong tháng 11, lãnh đạo và các cơ quan chức năng của ngành giáo dục đã tập trung trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội và dư luận xã hội.
    Các địa phương đang tiếp tục triển khai thực hiện chương trình kiên cố hoá trường học đợt 1. Tiến độ triển khai đã được đẩy nhanh hơn; một số địa phương đã bắt đầu khởi công đồng loạt nhiều công trình. Một số địa phương đã khánh thành, đưa vào sử dụng các phòng học mới, bước đầu giảm số phòng học tạm, học ca ba. Bên cạnh việc tích cực triển khai đợt 1, các địa phương đang chuẩn bị các phương án để triển khai tiếp đợt 2 ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án phân bổ vốn đợt 2.
    (2) Khoa học và công nghệ : Trong tháng 11, ngành khoa học và công nghệ tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện kết luận của Hội nghị TW 6 khoá IX về khoa học và công nghệ; hoàn thiện một số văn bản về quản lý nhà nước như: Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ; xử phạt vi phạm hành chính; quy chế tổ chức và quản lý hoạt động khoa học xã hội và nhân văn...
    Trong tháng 11, ngành khoa học và công nghệ cũng đã tổ chức hội nghị toàn quốc tổng kết đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 18/CP của Chính phủ và bàn kế hoạch phát triển công nghệ sinh học đến năm 2010. Bên cạnh đó, đã tổ chức thẩm định các đề tài, dự án sản xuất thử nghiệm cấp Nhà nước sau khi trúng tuyển và đề tài hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ theo Nghị định 119/CP của Chính phủ, dự kiến sẽ triển khai thực hiện trong năm 2004.
    Công tác điều tra cơ bản năm nay có nhiều tiến bộ đáng kể. Tính đến hết tháng 11, các Bộ, ngành và địa phương đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong năm. Một số kết quả quan trọng nhất của công tác điều tra cơ bản năm nay là đã khai quật khảo cổ học khu vực dự kiến xây dựng Nhà Quốc hội và Hội trường Ba Đình (mới) và phát hiện được nhiều cổ vật có giá trị lịch sử; thực hiện điều tra cơ bản về nguồn nước cho các vùng dân tộc khó khăn ở miền núi; đo và vẽ các loại bản đồ cho 4 tỉnh miền núi đặc biệt khó khăn và khu vực Tây Nguyên; điều tra và xử lý các số liệu về khí tượng, thủy văn để tăng chất lượng dự báo khí tượng, thủy văn phục vụ hoạt động kinh tế và đời sống dân cư; xây dựng mô hình tính toán dự báo bão lũ và tăng cường trang thiết bị mạng lưới quan trắc và thông tin khí tượng thủy văn phục vụ công tác chỉ đạo phòng chống bão lũ; đẩy nhanh tốc độ điều tra cơ bản các vùng kinh tế trọng điểm, các tỉnh miền núi và hải đảo; tổ chức khảo sát một số địa phương, vùng để cập nhật thông tin, số liệu. Bên cạnh đó, ngành đã và đang tiếp tục thực hiện các điều tra cơ bản thường xuyên khác như điều tra tài nguyên rừng và biển, các nguồn năng lượng, khoáng sản, đất đai, chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt...
    (3) Công tác dân số, gia đình và trẻ em : Trong tháng 11, ủy ban dân số, gia đình và trẻ em đã phối hợp với các địa phương tiếp tục giải quyết vấn đề trẻ em lang thang, tập trung vào số trẻ em lang thang ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đến 20/11, thành phố Hà Nội đã đưa được 82 em về gia đình và đã tập trung được 156 em khác để bàn giao cho các tỉnh. ủy ban cũng đã tiếp tục phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức quyên góp quần áo, sách giáo khoa cho trẻ em vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo.
    Trong tháng 11 đầu năm, Quỹ Bảo trợ trẻ em đã hỗ trợ 1879 cháu khuyết tật, trẻ em nạn nhân chất độc da cam ở 20 tỉnh được tham gia luyện tập, phẫu thuật nụ cười, phẫu thuật di tật và phục hồi chức năng... Hiện nay, Quỹ đang chuẩn bị hỗ trợ trẻ em vùng lũ lụt, mưa bão miền Trung nhằm khắc phục một phần thiệt hại do thiên tai gây ra.
    (4) Giải quyết việc làm : các địa phương tiếp tục phát triển hình thức hội chợ việc làm để tạo thêm việc làm mới cho người lao động. Từ đầu năm đến cuối tháng 11, cả nước đã giải quyết việc làm cho trên 1,35 triệu lượt người, trong đó riêng tháng 11 đã tạo thêm được khoảng 15 vạn việc làm mới.
    Công tác đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài tiếp tục được đẩy mạnh. Các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá lao động và chuyên gia Việt Nam tiếp tục được tăng cường nhằm ổn định và mở rộng thị trường cũ và phát triển thêm một số thị trường mới.
    Trong tháng 11, đã đưa được thêm 8.580 người đi làm việc ở nước ngoài, trong đó lao động nữ chiếm 55,4%. Các nước tiếp nhận nhiều lao động nước ta là Đài Loan (4.350 người), Malaixia (3.350 người), Nhật Bản (410 người) và Hàn Quốc (150 người). Tính chung 11 tháng đã đưa được khoảng 74.640 người đi làm việc ở nước ngoài (nữ chiếm 35%), chủ yếu sang các thị trường Đài Loan (26.980 người), Malaixia (39.620 người), Nhật Bản (2.260 người), Hàn Quốc (4.180 người). Như vậy, đến cuối tháng 11, số lao động đi làm việc ở nước ngoài đã vượt 35,7% so với kế hoạch năm.
    (5). Y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng : Do triển khai tốt công tác phòng chống dịch tại các tỉnh trọng điểm, trong 11 tháng, cả nước đã không xảy ra dịch bệnh lớn; chỉ có một số trường hợp quy mô hẹp tại một vài địa phương. Đặc biệt, trong năm 2003 đã không xảy ra trường hợp bệnh dịch hạch nào. Hiện nay, Bộ Y tế đang tiếp tục tăng cường giám sát Hội chứng cúm và các trường hợp nghi ngờ SARS và các bệnh truyền nhiễm khác, đồng thời đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khỏe và diễn tập y tế phục vụ SEA Games 22.
    Khảo sát tình hình tại 30 tỉnh thành lập Quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo cho thấy, mặc dù công tác khám chữa bệnh cho người nghèo theo Quyết định 139/TTg của Thủ tướng Chính phủ đã được chỉ đạo triển khai tích cực nhưng kết quả thực hiện còn thấp. Hiện nay, vẫn còn 4/30 tỉnh chưa có danh sách đầy đủ số đối tượng được hưởng bảo hiểm y tế (Hà Giang, Trà Vinh, Long An và Kon Tum). Việc in ấn và phát thẻ BHYT rất chậm; mới có 6/30 tỉnh phát được 100% thẻ BHYT.
    Trong tháng 11, đã phát hiện thêm 1.290 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV cả nước lên 72,8 nghìn người, trong đó có 11,1 nghìn bệnh nhân AIDS. Đến nay đã có 6.250 người tử vong vì AIDS.
    (6) Công tác bảo trợ xã hội: Trong tháng 11, thiên tai đã xảy ra tại một số tỉnh miền Trung (Phú Yên, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Quảng Ngãi, Bình Định, Quảng Nam và Lâm Đồng), gây ảnh hưởng lớn tới sản xuất nông nghiệp và cuộc sống của dân cư. Tính đến ngày 20/11/2003, thiên tai đã làm 64 người chết, 36 người bị thương, 3 người mất tích, gần 64,5 nghìn ngôi nhà bị ngập, 1.733 nhà bị sập hoàn toàn, hơn 3 nghìn ngôi nhà và hàng trăm phòng học bị hư hỏng nặng. Về sản xuất nông nghiệp, thiên tai đã làm khoảng 45 nghìn ha lúa và rau bị ngập và hư hại, 321 nghìn m2 đê, kè, kênh mương bị sạt lở, hàng trăm héc ta nuôi trồng thủy sản bị hư hại, 26 tầu, thuyền đánh cá bị vỡ và chìm. Tổng thiệt hại do thiên tai gây ra ước khoảng trên 445 tỷ đồng và có trên 153 nghìn người cần cứu trợ xã hội.
    Tính chung 11 tháng, thiên tai đã làm 211 người chết, 239 người bị thương, 3 người mất tích, gần 1 triệu người cần cứu trợ, trên 244 nghìn ngôi nhà bị ngập, hàng chục nghìn ngôi nhà khác bị hư hỏng, trên 205 nghìn ha lúa hoa màu bị ngập. Tổng trị giá thiệt hại do thiên tai gây ra khoảng 1.608 tỷ đồng.
    Trước những diễn biến bất thường về thời tiết trong tháng 11 gây thiệt hại về người và của cho nhiều tỉnh miền Trung, Bộ Lao động-TBXH đã phối hợp với các Bộ ngành, địa phương tổ chức cứu trợ đột xuất cho các địa phương bị thiệt hại. Các địa phương đã hỗ trợ nhu yếu phẩm và tiền cho các gia đình có người chết, người bị thương, nhà sập, đảm bảo không để người dân bị đói, đã bước đầu hỗ trợ sửa chữa, xây mới nhà cửa để người dân sớm ổn định cuộc sống. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số Bộ, ngành, địa phương đã phát động phong trào quyên góp ủng hộ đồng bào bị thiên tai một các thiết thực và kịp thời theo đúng truyền thống "lá lành đùm lá rách" của dân tộc.
    Từ đầu năm đến nay, các địa phương đã huy động được 12,5 tỷ đồng, cứu đói cho 832 nghìn lượt người. Chính phủ trích 214,7 tỷ đồng từ quỹ dự phòng cứu trợ cho 23/24 địa phương bị thiên tai, cấp 200 nhà bạt cho Bình Định, 3.600 tấn gạo cho 6 tỉnh miền Trung và Tây Nguyên (Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum và Bình Định).
    (7) Công tác xoá đói giảm nghèo : Trong tháng 11, Ngân hàng Chính sách xã hội (Ngân hàng CSXH) đã tổ chức 3 đoàn công tác liên ngành đi kiểm tra, đánh giá tình hình cho vay các hộ nghèo tại các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An, Lâm Đồng và Đắc Lắc. Để đẩy mạnh công tác cho hộ nghèo vay vốn, NHCSXH thống nhất với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn những vấn đề liên quan đến hợp đồng ủy thác cho vay hộ nghèo đã được ký kết giữa 2 ngân hàng đồng thời tăng cường vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội trong việc giải ngân vốn tín dụng ưu đãi cho vay hộ nghèo. Ngân hàng CSXH cũng đã chỉ đạo các Chi nhánh và Phòng giao dịch triển khai cho vay các đối tượng chính sách khác, như cho vay giải quyết việc làm, cho vay đối với học sinh sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, cho vay đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài, cho vay mua nhà trả chậm ở đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên...
    Ngân hàng CSXH cũng đã nâng mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo từ 5 triệu đồng lên 7 triệu đồng/hộ. Riêng đối với các dự án chăn nuôi đại gia súc sinh sản, chăn nuôi lấy thịt, lấy sữa, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm, nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản... đã áp dụng mức cho vay tối đa 10 triệu đồng/hộ nếu dự án có hiệu quả, đảm bảo khả năng thu hồi gốc và lãi đúng hạn. Ngân hàng CSXH cũng đã qui định mức cho vay tối đa không quá 10 triệu đồng/người đối với các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngoài.
    (8). Phát thanh truyền hình : Công tác phát thanh truyền hình tháng 11 tập trung phản ánh nội dung kỳ họp thứ tư Quốc hội khoá XI và tuyên truyền quảng bá SEA Games 22. Bên cạnh đó, các phương tiện thông tin đại chúng cũng đã dành nhiều thời lượng phát thanh, phát hình và trang báo đưa tin về tình hình thiên tai trong cả nước và phong trào ủng hộ người dân vùng lũ lụt.
    Đến nay, công tác chuẩn bị Trung tâm Truyền hình quốc tế (IBC) đã cơ bản hoàn thành đúng tiến độ. Trung tâm sẽ thu, nhận tín hiệu từ tất cả 32 địa điểm thi đấu, sau đó phân chia tín hiệu tới những nơi cần thiết, đồng thời ghi lại để làm tư liệu và điều phối việc phát sóng quảng bá trong nước và quốc tế.
    Trong tháng 11, Đài Tiếng nói Việt Nam đã thực hiện hơn 3,9 nghìn giờ chương trình và 26,7 nghìn giờ phát sóng phát thanh.
    (9). Thể dục thể thao : Công tác chuẩn bị cho SEA Games 22 tiếp tục diễn ra một cách khẩn trương. Đến nay, trên toàn quốc đã hoàn thành phần lớn các công trình thi đấu phục vụ SEA Games. Đối với một số công trình chưa hoàn thành, tiến độ xây dựng đang được đẩy nhanh. Dự kiến tiến độ thi công các công trình thi đấu, công trình giao thông và các công trình phụ trợ khác sẽ được thực hiện đúng kế hoạch.
    Việc thực hiện kế hoạch tập luyện nhằm duy trì và nâng cao trình độ chuyên môn cho vận động viên tiếp tục được đẩy mạnh.
    Trong tháng 11, Ban Tổ chức SEA Games 22 đã tổ chức các cuộc họp báo thông báo chương trình, nội dung và những vấn đề liên quan đến vé xem SEA Games để tạo thuận lợi cho nhân dân và các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Công tác tuyên truyền SEA Games kết hợp với quảng bá hình ảnh Việt Nam đang được triển khai rộng khắp trên toàn quốc và ra các nước trong khu vực.
    (10) Tình hình trật tự an toàn giao thông: Công tác trật tự an toàn giao thông tiếp tục được đẩy mạnh trong phạm vi cả nước. Trong tháng 11, các Bộ, ngành và địa phương đã kết hợp tốt việc tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục ý thức giữ gìn trật tự an toàn giao thông với việc kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm luật lệ giao thông. Nhờ những biện pháp trên, tình hình trật tự an toàn giao thông trên toàn quốc tiếp tục có nhiều chuyển biến rất tích cực. Tại phần lớn các địa phương, tai nạn giao thông tiếp tục được kiềm chế.
    Nhìn chung, tình trạng tai nạn giao thông trong tháng 10 tiếp tục giảm so với tháng 9. Trong tháng 10, trên cả nước đã xảy ra 1.495 vụ tai nạn giao thông, làm 907 người chết và 1.421 người bị thương, so với tháng 9 đã giảm được 5,8% số vụ tai nạn giao thông và 14,4% số người bị thương. Tuy nhiên, số người chết do tai nạn giao thông tháng 10 tăng 4% so với tháng 9.
    Tính chung 10 tháng đầu năm, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 17.343 vụ tai nạn giao thông, làm 9.691 người chết và 17.607 người bị thương; so với cùng kỳ năm 2002 đã giảm được 27,2% số vụ tai nạn giao thông, 8,4% số người chết và 33,6% số người bị thương.
    Tóm lại, tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2003 tiếp tục xu hướng phát triển tích cực. Tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng lên, nhất là khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định; nuôi trồng thủy sản tăng trưởng khá. Khu vực dịch vụ tiếp tục khôi phục lại đà tăng trưởng với tốc độ tăng ngày càng cao; thị trường nội địa phát triển ổn định; hoạt động du lịch đang ngày càng sôi động. Kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng nhanh. Thực hiện vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước tập trung tiếp tục tăng khá, đến hết tháng 11 đã vượt kế hoạch cả năm. Nhiều công trình được đẩy nhanh tiến độ, nhất là các công trình trọng điểm; đến nay đã cơ bản hoàn thành tất cả các hạng mục công trình phục vụ SEA Games 22. Thu ngân sách nhà nước tiếp tục tăng trưởng ổn định, tốc độ tăng chi ngân sách được đẩy nhanh; hoạt động tiền tệ và lãi suất ngày càng phù hợp với hoạt động kinh tế và xã hội; giá cả thị trường tiếp tục ổn định. Các hoạt động xã hội tiếp tục phát triển theo chiều hướng tích cực.

Theo Vụ tổng hợp kinh tế quốc dân





Điều tra xã hội "Doanh nghiệp nhỏ trong mắt người dân Việt Nam 2003-2004"
dành cho
Người tiêu dùng
Các chuyên gia
                              ©  Copy right 2003
                              Web-master: Hoàng Dương Lân
                                 Editor: Nguyễn Ngọc Mai
                                  Web-design: Trần Quốc Đạt