Bài Thơ Thần – Nam Quốc Sơn Hà
Sưu khảo Trúc Lâm Lê An B́nh
Về bài thơ Thần – Nam quốc sơn hà, chúng tôi sưu khảo được hai sự nghiên cứu. Một là của Giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát (tức Thầy Thích Trí Siêu) với tựa đề Pháp Thuận và bài thơ Thần nước Nam sông núi; hai là tiểu thuyết lịch sử Nam Quốc Sơn Hà tập 5 của Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ. Nội dung của bài thơ th́ không khác biệt ǵ mấy, tuy nhiên xuất xứ cũng như thời điểm xuất hiện của bài thơ Thần th́ có sự khác biệt. Chúng tôi đă đánh máy lại và tŕnh bày tiếp theo dưới đây để cho các vị học giả cao nhân có ḷng nghiên cứu về lịch sử nước Việt rộng đường tham khảo.
Trân trọng
---------------------------------------------
Trích : Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam tập 2, tác giả giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát, do Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam tại SàiG̣n, xuất bản năm 2001.
Trang 473-486 :
Pháp Thuận và bài thơ Thần nước Nam sông núi.
V́ thế, những năm tháng ấy là một giai đoạn đấu tranh khó khăn khốc liệt giữa một bên là một quốc gia rộng lớn, đông người, đă có gần hai thập kỷ ḥa b́nh để phát triển và một bên là một đất nước nhỏ bé, ít người hơn nhiều lần và thời gian ḥa b́nh cũng chưa được bao lâu. Triều đ́nh nhà Tống có lẽ tính toán trên cơ sở một nhận định như thế, nên đă cho tiến hành cuộc chiến tranh năm 981. Lê Đại Hành hiểu rơ ư đồ và tính toán của địch cũng như tiềm lực của ta. Do đó, ông đă chủ động tiếp xúc và vận động toàn dân, trong đó có cả những nhân tài của đất nước tham gia vào cuộc chiến tranh này. Nếu không làm được t́nh h́nh đất nước có thể đă đi theo một ngơ quanh khác của lịch sử.
Cuộc tiếp xúc và vận động do Lê Đại hành thực hiện có thể diễn ra dưới nhiều dạng khác nhau. Ông đă trực tiếp gặp thiền sư Vạn Hạnh, tính toán về tương quan lực lượng giữa giặc và ta để xem diễn tiến cuộc chiến sẽ diễn ra trong bao lâu. Ông cũng đă nhờ đại sư Khuông Việt đến núi Vệ Linh cầu nguyện cho cuộc chiến chóng thành công. Và đặc biệt chính bản thân vua Lê Đại hành đă làm lễ tế đền hai vị anh hùng Trương Hống và Trương Hát của cuộc chiến tranh giải phóng do Triệu Việt Vương lănh đạo vào những năm 548-570 và sự ra đời của bài thơ Thần nổi tiếng Nước Nam sông núi, mà Lĩnh nam chích quái 2 tờ 74-75 đă ghi:
«Triều hoàng đế Đại Hành nhà Lê năm Tân Tỵ Thiên Phúc thứ nhất (981), Tống Thái Tổ sai bọn tướng quân Hầu Nhân Bảo, Tôn Hoàn Hưng đem quân xâm lược nước Nam, đến sông Đại Than. Vua Lê Đại Hành và tướng quân Phạm Cự Long đóng quân ở sông Đô Lỗ để chống lại. Hai bên đối lũy giữ nhau.
Vua Đại Hành ban đêm mơ thấy hai người thần vái ở trên sông nói: «Anh em thần, một người tên Trương Hống, một người tên Trương Hát, trước thờ Triệu Việt Vương thường theo chinh phạt bọn giặc dữ, mà có được thiên hạ. Đến sau, Lư Nam Đế chiếm nước, nghe tiếng anh em thần, cho vời đến. Thần về nghĩa không thể đến, uống thuốc độc mà chết. Thượng đế thương kẻ có công, mà khen ḷng trung nghĩa một tiết, ban cho Tướng quan thần bộ, thống lĩnh kỷ binh. Nay thấy quân Tống vào cơi, làm khổ sinh linh nước ta, nên bọn thần đến gặp xin cùng vua đánh bọn giặc này, để cứu sinh dân».
Vua Đại Hành kinh ngạc thức dậy gọi bề tôi hầu cận nói: «Đây là thần giúp ta vậy». Bèn liền lập tức rước thuyền vua đốt hương làm lễ xin rằng: «Thần nhân có thể giúp ta thành được công nghiệp này th́ việc phong thưởng và cúng đơm muôn đời sẽ không hết». Vua cho giết sinh lao để tế, đem các món áo mũ tiền giấy và voi ngựa đốt đi để ban cho. Đêm ấy lại mơ thấy hai thần nhân cùng mặc áo mũ đă ban, đến trước vua vái tạ. Đến đêm hôm sau, vua mơ thấy một thần nhân đem quỉ bộ áo trắng từ phía nam B́nh Giang tới, và một vị thần nhân đem quỉ bộ áo đỏ từ sông Như Nguyệt xuống. Cả hai đều nhắm trại giặc mà đánh.
Ngày 23 tháng 10, vào lúc canh ba của đêm, khi trời tối mịt, gió lớn mưa dồn nổ ra, quân Tống tan vỡ. Thần mập mờ đứng trên không trung, cao tiếng ngâm:
Nước Nam sông núi vua Nam ở
Rành rẽ phân chia tại sách trời
Giặc nghịch sao nay dám đến phạm
Chúng bay chuốc bại ngay chắc thôi
(Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên dĩ định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư)
Quân Tống nghe thế chen nhau tứ tán, mỗi chạy trốn, bị bắt sống không thể kể xiết. Quân Tống đại bại rút lui. Vua Đại Hành đem quân về mừng thắng trận, phong thưởng cho hai thần nhân, người em là Uy Địch Đại Vương, lập đền tại Tam Kỳ Giang ở Long Nhăn, sai dân Long Nhăn và B́nh Giang phụng thờ, lập đền ở sông Như Nguyệt, sai dân ven sông phụng thờ, đến nay vẫn c̣n”.
Đây có thể là nguồn thông tin đầu tiên về bài thơ Thần Nước Nam sông núi và nguồn thông tin này cho ta thấy bài thơ Thần đă được đọc lên trong cuộc chiến tranh 981 và có liên hệ với vua Lê Đại Hành. Sau này tác giả Thiên Nam vân lục cũng thống nhất coi bài thơ ấy do thần đọc lên trong cuộc chiến tranh đó, dù đă cho hai vị thần này là những bộ tướng của Ngô Quyền, chứ không phải của Triệu Việt Vương. Tuy nhiên, khi Ngô Sĩ Liên đă đưa bài thơ ấy vào trong Đại Việt sử kư toàn thư 3 tờ 9b2-8, th́ ông đă gắn cho cuộc chiến năm 1076 của Lư Thường Kiệt. Từ đó mới xuất hiện một ngoa truyền đây là bài thơ của Lư Thường Kiệt:
“Thế truyền rằng, Thường Kiệt dựng rào dọc sông để cố giữ. Một đêm quân sĩ bỗng nhiên nghe trong đền Trương tướng quân có tiếng to ngâm rằng:
Nước Nam sông núi vua Nam ở
Rành rẽ phân chia tại sách trời
Giặc nghịch sao nay dám đến phạm
Chúng bay chuốc bại ngay chắc thôi
(Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên dĩ định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư)
Rồi sau quả như thế. Trương tướng quân anh em hai người. Anh tên Hống, em tên Hát, đều là danh tướng của Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương bị Lư Nam Đế đánh bại mà mất nước. Nam đế cho vời ra làm quan. Hai người đều nói: “Trung thần không thờ hai vị vua đă hại chúa ḿnh”, rồi bèn bỏ trồn ở núi hù Long. Nam Đế nhiều lần mời không đáp, ra lệnh:”Ai lấy được thủ cấp th́ trọng thưởng cho ngàn vàng”. Hai người đều uống thuốc độc mà chết.
Năm Tấn Vương nhà Ngô khi đánh giặc Lư Huy châu Tây Long, đóng quân ở cửa Phù Lan, chiêm bao thấy hai người theo giúp quân vua, nói rằng: “Thiên đế thương là kẻ trung thần không thờ hai vua, bổ cho làm Tham hà long quân phó tuần Vũ Lạng nhị giang và Chi man nguyên tuần giang đô phó sứ. B́nh định giặc rồi, Nam Tấn Vương phong anh làm Đại dương giang đô hộ quốc thần vương, dựng đền ở cửa sông Như-Nguyệt. C̣n em th́ làm Tiểu đương giang đô hộ quốc thần vương, dựng đền ở cửa sông Nam Quân, tức đền thờ này”.
Đây là hai nguồn tư liệu chính liên hệ với bài thơ Thần của chúng ta. Ngô Sĩ Liên cho thấy, ông đă lấy thông tin từ “thế truyền”, tức những lời lưu truyền ở đời, để đưa vào Đại Việt sử kư toàn thư. Mà những lời lưu truyền này chắc chắn đă tồn tại trước thời Ngô Sĩ Liên. Tập hợp đầu tiên các truyện ấy ta có Lĩnh Nam Chích Quái, nếu không phải của Trần Thế Pháp, th́ cũng của một tác giả thời Trần mạt, tức nửa cuối thế kỷ thứ 14. Điều này có thể chứng minh, một cách dễ dàng, khi phân tích các truyện có trong các truyền bản của Lĩnh nam chích quái hiện được bảo lưu.
Chẳng hạn, trong số 22 truyện của nó, có hai cặp truyện chắc chắn là rút ra từ Thiền uyển tập anh. Đó là là cặp truyện Từ Đạo Hạnh Nguyễn Minh Không và cặp truyện này trong các truyền bàn hiện có hầu như hoàn toàn thống nhất với các văn cú của truyện bốn vị thiền sư có trong Thiền uyển tập anh. Thiền uyển tập anh ta đă biết là phải ra đời vào năm 1337. Do thế, tác giả Lĩnh nam chích quái đă sao lại truyện của bốn vị thiền sư vào trong sách của ḿnh. Đúng là ông đă làm công tác “chích quái”, tức là nhặt lấy những truyện lạ từ các sách khác để tạo nên tác phẩm của ḿnh.
Từ đó, truyện hai vị thần Long Nhân và Như Nguyệt, dù ngày nay ta không có được may mắn như trường hợp truyện bốn thiền sư, chắc chắn cũng phải được tác giả Lĩnh nam chích quái đă trích dẫn từ một văn bản nào đó, mà ngày nay ta chưa thể t́m ra được. (Có người do không nghiên cứu kỹ càng nên đă viện dẫn bừa băi về nghĩa chữ chích, rồi khen đại là tác giả Lĩnh nam chích quái đă có sự gia công đóng góp của ḿnh. Phân tích truyện bốn thiền trên cho ta kết quả hoàn toàn ngược lại. Tác giả Lĩnh nam chích quái đă trích dẫn sao y nguyên văn bốn truyện vừa nêu, dù từ Thiền uyển tập anh hay bất cứ một nguồn nào khác). Dẫu vậy, nếu so với Đại Việt sử kư toàn thư. V́ thế, bài thơ Thần phải được coi là xuất hiện dưới thời vua Lê Đại Hành trong cuộc chiến tranh năm 981, chứ không phải là trong cuộc chiến tranh năm 1076 với Lư Thường Kiệt.
Xác định thời điểm ra đời của bài thơ như thế, không những phù hợp với nội dung và ư nghĩa của bài thơ như một tuyên ngôn độc lập, mà c̣n phù hợp với cung cách chỉ đạo chiến tranh của vua Lê Đại Hành. Về nội dung và ư nghĩa, bài thơ Thần đúng là một bản tuyên ngôn cho nhà nước Trung quốc biết về sự độc lập của đất nước Việt Nam và của nhà nước đang làm chủ đất nước ấy, mà từ thời Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán năm 939 cho đến khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi hoàng đế vào năm 968, những người lănh đạo nước ta chưa có cơ hội để công bố. Cho nên, nếu coi bài thơ Thần ấy xuất hiện vào năm 1076 th́ thật cũng lạ lùng là nước ta độc lập đă gần hai thế kỷ mới có tuyên ngôn độc lập sao?
C̣n về cung cách chỉ đạo chiến tranh, ta đă thấy vua Lê Đại Hành nhờ đại sư Khuông Việt đến núi Vệ Linh cầu nguyện, để cho cuộc chiến tranh đi đến thắng lợi hoàn toàn. Khoan nói chi tới việc lời cầu nguyện ấy có được thần linh đáp ứng hay không. Chỉ cần nói rằng mỗi một việc nhờ đi cầu nguyện như thế, vua Lê Đại Hành đă muốn thông qua nó để tác động lên tinh thần quân sĩ. Đây là một công tác tư tưởng chuẩn bị cho một cuộc chiến gay go sắp tới. Và gay go thật khi quân đội ta đang đối diện với quân đội của một nước to lớn hơn nhiều và đă có những lần thành công đè bẹp được sức chiến đấu của quân đội ta trong những thế kỷ trước.
Do thế, yêu cầu công tác tư tưởng là một yêu cầu cấp bách để chuẩn bị cho quân đội chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Từ đó, sự có mặt của hai vị anh hùng Trương Hống, Trương Hát của Triệu Việt vương và sự xuất hiện bài thơ Thần là một tất yếu. V́ vậy, chúng tôi nghĩ rằng bài thơ Thần đă xuất hiện trong cuộc chiến tranh 981, như Lĩnh nam chích quái đă ghi. Nhưng bản Lĩnh nam chích quái về sau như bản Tục loại của Đoàn Vĩnh Phúc chép vào năm Quang Bảo thứ nhất (1500) đă theo Đại Việt sử kư toàn thư và chép bài thơ ấy liên hệ với Lư Thường Kiệt trong cuộc chiến 1076. Tân đính hiệu b́nh Việt điện u linh tập đó Gia Cát Thị thực hiện vào năm Cảnh Hưng Giáp Ngọ (1447) cũng làm thế, nhưng đă cho ta một bài thơ gần như khác hẳn
Nam bắc phong cương biệt cư
Tinh phân chẩn dực tại thiên thư
Kinh thôn lang phệ chân vô yếm
Hội kiến trần thanh tảo thái hư
(Cơi bờ Nam Bắc mỗi riêng nơi
Chẩn Dực sao chia tại sách trời
Sói cắn ḱnh nhai đâu thấy chán
Bụi dơ quét sạch thấy trời tươi)
Bài thơ này có khả năng Gia Cát Thị đă lấy từ một bản nhuận sắc của truyền bản A.2914 của Lĩnh nam chích quái hiện đang được bảo lưu tại thư viện Viễn Đông Bác Cổ, nay là thư viện Hán Nôm:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như kim bắc lỗ lai xâm phạm
Hội kiến hải trần tận tảo trừ
Do thế, theo chúng tôi biết nên trả bài thơ Thần về cho cuộc chiến tranh năm 981 và chúng ta đă có đủ cơ sở để làm như thế. Đây không phải là một kết luận mới. Hai bộ sử viết bằng tiếng Việt vào thế kỷ thứ 16 và 17 là Việt sử diễn âm và Thiên nam ngữ lục đều thống nhất có cùng một kết kuận. Việt sử diễn âm đă dành một đoạn dài về lai lịch của bài thơ này, viết:
Tháng bảy có Tống binh sang
Toàn những tướng mạnh binh cường ba muôn
Đến thành Phù Lỗ đóng vây
Quân ta quân nó đôi bên ngất trời
Chưa phân thắng phụ về ai
Ngày rằm tháng chạp vua nằm chiêm bao
Thấy đôi thần nhân băi nào
Trương Hống Trương Hát bước vào quỳ thưa
Chúng tôi thần đế ngày xưa
Phụng thờ nhà chúa bấy giờ chẳng sai
Tiên Hoàng có sắc chỉ bày
Đ̣i về phong chức cho tôi tước quyền
Trung thần bất sự nhị quân
Chúng tôi tự vẫn làm thần đạo ngay
Thượng đế thấy vậy thương thay
Phong cho chúng tôi rày Quỉ bộ thần quân
Đại hành thức dậy mừng thay
Giết trâu liền có minh tài tế khao
Đêm sau vua lại chiêm bao
Thấy mặc áo mới liền vào tạ ơn
Có một người đứng án tiền
Lĩnh được trăm áo vàn vàn quỷ binh
Lấy ra chưng đất Nam B́nh
Đại Hành sực thức gẫm t́nh mới hay
Nửa đêm thấy một cơn mây
Bạo phong hắc ám gió bay vội vàng
Tống binh mất vía trở dường
Chúng quỷ đánh găy đao thương liền cờ
Bỗng nghe mảng tiếng không hư
Thần nhân hiện xuống có thơ ngâm rằng
Thi vân:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc lỗ cảm xâm phạm
Hội kiến phong trần tận tảo trừ
(Việt sử diễn âm, AB 110)
Thiên nam ngữ lục có vẻ tiếp thu quan điểm tác giả Việt sử diễn âm, v́ bài thơ Thần hai bản chép tương đối giống nhau:
Bấy giờ binh mă sửa sang
Địch cùng Nhân Bảo là thằng giặc Ngô
Mười buôn binh mạnh thẳng đua
Qua miền Giang Bắc, đấy là Phù Lan
Đêm thấy hai ngài đến màn
Xưng danh là Hát, xưng danh là Hồng
Giúp đời Triệu Việt có công
Thuở chẳng như ḷng, ẩn nội Phù Lan...
Ơn trên Thượng đế xét thương
Quyền cho chúa tể giữ phương yên này
Bây chừ bệ hạ đến đây
Nguyện ra giúp nước phá này giặc Ngô
Phán rằng: Tướng quan y như
Công nên thời lập miếu thờ trả ơn
Ngày sau Nhân Bảo ra quân
Trên không nghe tiếng người ngâm thơ rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm
Hội kiến phong trần tận khử trừ
(Thiên Nam ngữ lục, trong Lê Mạnh Thát, Chân Nguyên thiền sư toàn tập III. Tu thư Phật học Vạn Hạnh, 1983, tr. 465-467).
Vấn đề tiếp theo là dù thơ Thần đi nữa th́ cũng phải do con người làm ra, phải thông qua một con người để đọc lên. Vậy, ai có khả năng có thể làm ra bài thơ này? Để trả lời câu hỏi này, ta thấy trong số những người tham mưu vào bộ chỉ huy của vua Lê Đại Hành trong cuộc chiến tranh năm 981 không ai có nhiều điều kiện gần gũi hơn Pháp Thuận, đặc biệt khi truyện Pháp Thuận đă xác nhận ông là người tham gia “vận trù kế sách” ngay từ lúc vua Lê Đại hành sáng nghiệp.
Hơn nữa, nếu những văn thư ngoại giao dưới triều Lê Đại Hành là do Pháp Thuận soạn thảo, như trên đă chứng tỏ, th́ việc Pháp Thuận sáng tác bài thơ Thần ấy là một kết luận hợp lư. Ngoài ra, Pháp Thuận đă có một hệ tư tưởng chính trị hoàn chỉnh phát biểu trong bài thơ Vận nước dưới đây. Đây là hai yếu tố khác cho phép xác nhận khả năng Pháp Thuận đă sáng tác hai bài thơ ấy. Thêm vào đó, bài thơ này ḥa nhập một cách nhuần nhuyễn và thể hiện khuynh hướng nổi bật của ḍng văn học đây đă chi phối gần 300 năm phát triển của nền văn học Việt Nam với sự tập trung cao độ của vấn đề nóng bỏng nhất của dân tộc thời bấy giờ là vấn đề làm chủ đất nước.
Từ khi Định Không khai sáng ra ḍng văn học này, nó liên tục làm chủ sự phát triển của văn học Việt Nam giai đoạn ấy. Đó là nền văn học phục vụ cho cuộc đấu tranh chính trị v́ chủ quyền của đất nước, v́ quyền sống của người dân, v́ sự hưng thịnh của Phật giáo. Chưa bao giờ trong lịch sử văn học nước ta lại có một sự nhất quán cao độ như thế về cảm thức thời sự của những cây bút anh tài. Ḍng văn học này đă qui tụ xung quanh nó một loạt các nhà thơ lớn của dân tộc từ Định Không cho đến Vạn Hạnh, qua La Quí, Khuông Việt, Pháp Thuận, Đa Bảo. Cho nên bài thơ Thần ra đời vào giai đoạn ấy nằm trong xu thế chung của lịch sử văn học Việt Nam ở giai đoạn đó.
Giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát.
---------------------------------------------
Trích: Nam Quốc Sơn Hà tập 5, Yên tử cư sĩ Trần Đại Sỹ, Đại Nam xuất bản 1996 tại Hoa Kỳ Trang 175-178:
Ngày mùng bốn tháng giêng.
Bỗng nhiên vào đêm mùng ba sang ngày mùng bốn, khi trống lệnh vừa điểm ba tiếng, báo hiệu tắt đèn đi ngủ, th́ có tiếng từ ngôi đền thờ bên kia sông Như-Nguyệt vọng sang rơ ràng, bằng giọng Biện-kinh:
Chư tướng sĩ Tống nghe đây.
Ta là Đại dương giang đô hộ quốc thần vương Trương Hống và Tiểu dương giang đô hộ quốc thần vương Trương Hát. Ngọc Hoàng thượng đế sai chúng ta trấn ở sông Như-Nguyệt này. Đêm qua, thiên sứ giáng trần, trao cho chúng ta bộ Thiên-thư nghị chế, truyền ta đọc cho chư tướng sĩ nghe“.
Tiếng thần vang đi rất xa, rơ ràng, lọt vào tai binh tướng Tống. Đến đoạn nói về Nam-thùy Tống, tiếng càng rơ, chậm hơn:
“Đây là nguyên văn Thiên-thư nghị chế:
“Ta đă sai con thứ làm vua Nam-phương tức Viêm-đế. Cương vực Nam, Bắc phân ra mấy ngh́n năm có dư. Hóa cho nên bọn Nam-man biết phận, cung tay quy phục Thiên-triều, hàng năm tiến cống đầy đủ, không dám xâm phạm cương thổ Trung-nguyên. Chư thiên tử ngồi trấn Hoa-hạ cũng nhân đó mà ban bố ân đức xuống khắp trời Nam. Thế mới đúng là mệnh ta dội xuống, khiến cho cương Nam, Bắc phân ra không bị thay đổi. Kẻ nào không tuân mệnh ta, th́ ta sẽ sai thiên binh, thiên tướng giết chết không tha“.
Tướng sĩ Tống kinh hoàng vô cùng, th́ lại có tiếng thần đọc thơ:
Nam quốc sơn hà, Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên-thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan, thủ bại hư.
(Nước Nam là một nơi Vua nước Nam cai trị, điều đó đă chép trong bộ Thiên-thư nghị-chế. Chúng bay là bọn giặc, dám trái mệnh trời đến xâm phạm, th́ sao tránh khỏi bị bại?)
...
Ghi chú của thuật giả (Trần Đại Sỹ)
Hai thần Trương-Hát, Trương-Hống được thờ ở rất nhiều nơi. Cho đến nay, trải hơn ngh́n năm lịch sử, nhiều đền bị phá hủy. Hiện (1995) những đền sau đây vẫn c̣n trơ gan với tuế nguyệt:
- Đ́nh Bích-động, ở làng Bích-động, nay là xă Dỉnh-sơn, huyện Việt-yên, tỉnh Hà-bắc, thờ hai ngài làm thần thành hoàng. Tài liệu: Bắc-giang tỉnh thần tích.
- Đ́nh Châu-xuyên, ở thôn Châu-xuyên, xă Thọ-chân, tổng Thọ-xương, phủ Lạng-giang, tỉnh Bắc-giang, nay là tỉnh Hà-Bắc, thờ hai ngài làm thần thành hoàng. Tài liệu: Bắc-giang tỉnh thần tích.
- Đại Đương-giang thần từ, ở phố Như-nguyệt, xă Tam-giang, huyện Yên-phong, tỉnh Hà-bắc, chính là nơi lập chiến lũy Như-nguyệt, thời Lư. Thoát-hiên Đặng Minh-Khiêm có thơ vịnh như sau:
Sát mă quân vương nhập thủy tần,
Đệ huynh nhẫn tác sự thù nhân.
Nguyệt-giang thanh dạ cao ngâm hậu,
Nam-quốc càn khôn tận tảo trần.
Ngạn-Xuyên dịch như sau:
Ruổi ngựa nhà vua nhảy biển trầm,
Anh em quyết chẳng chịu vong ân.
Nguyệt-giang đêm vắng thơ vừa dứt,
Trời đất Nam-bang sạch bụi trần.
Tài liệu: Đại-Việt sử kư toàn thư (Lư kỷ, Nhân-Tông kỷ), Việt điện u linh, Thiên Nam vân lục liệt truyện, Hoàng Việt nhất thống địa dư chí, Trương tồn thần sự tích, Đại Việt địa chí.
Tam-giang thần từ, tại xă Loa-lâu, huyện Tư-nông, tỉnh Thái-nguyên, nay là tỉnh Bắc-thái.
Tài liệu: Bắc thành địa dư chí, Đại Nam nhất thống chí.
Yên Tử cư sĩ Trần Đại Sỹ