GIẢI MĂ NHỮNG BÀI VIẾT CỦA
MỘT DU SINH KƯ TÊN “Nguyễn H”
Văn Qúy Đức
Gần đây, trên một số web, có vài bài bàn về “việc loại trừ cộng sản tại Việt nam”. Tác giả kư tên “Nguyễn H.”, tự nhận là “du sinh” (không nói ở nước nào); tự nhận là “một người yêu nước chân chính” ¹. Trong phần “tự giới thiệu về bản thân”, không nói đến ở lứa tuổi nào, nên khó biết được là “du sinh đầu bạc” hay du sinh đầu xanh” nên chúng tôi xin tác giả Nguyễn H. để chúng tôidùng tiếng “ÔNG” trong xưng hô, cho tiện.
Những bài viết của ông Nguyễn H. lập tức được hồi đáp - Người khen và ủng hộ cũng có và người chê và chửi cũng có.
LỐI NÓI (VIẾT) CỦA CS LÀ: NÓI (VIẾT) VẬY MÀ KHÔNG PHẢI VẬY!
Muốn góp ư, trao đổi quan điểm trong những bài viết của ông Nguyễn H., th́ điều quan trọng hàng đầu là phải GIẢI MĂ được những điều ông Nguyễn H. CẤT GIẤU trong các “con chữ”, được những người làm nghề NÓI và VIẾT của cộng sản VN đă quen dùng.
Thí dụ 1: Ngay phần tự giới thiệu, ông Nguyễn H. viết: “Tôi tên H., sinh ra và lớn lên ở Việt-nam. Gia đ́nh tôi dính dáng nhiều đến chế độ Cộng sản, có hy sinh, mất mát và cũng được hưởng ân huệ của chế độ hiện nay…”
Trong đoạn văn trên, nếu người đọc không nắm được mánh khoé của cộng sản sẽ nghĩ rằng gia đ́nh ông Nguyễn H. vừa là nạn nhân của cộng sản (có hi sinh, mất mát), vừa là kẻ chịu ơn của cộng sản (được hưởng ân huệ). Cái giới thiệu ấy có vẻ RƠ RÀNG, nhưng lại RẤT MƠ HỒ. Người đọc không thể biết tên ông ta là ǵ? Bao nhiêu tuổi? Nếu suy diễn rằng GIA Đ̀NH ông ta “CÓ HI SINH, MẤT MÁT”, nhưng cũng “ĐƯỢC HƯỞNG ÂN HUỆ” th́ chỉ có thể hiểu rằng GIA Đ̀NH ÔNG NGUYỄN H. “có hy sinh, mất má” để BẢO VỆ CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN, nên mới “được hưởng ân huệ”. V́, nếu “sự hi sinh, mất mát” bắt nguồn do là nạn nhân của chế độ cộng sản, th́ làm sao có thể “được hưởng ân huệ”.
Giải mă đoạn văn trên th́ sẽ là: “Ông Nguyễn H. xuất thân trong một gia đ́nh có QUAN HỆ MẬT THIẾT với chế độ cộng sản. Trong gia đ́nh có người hi sinh mạng sống, bị tàn phế v́ bảo vệ chế độ cộng sản. Rất nhiều gia đ́nh có người hi sinh mạng sống hoặc bị tàn phế hoặc hi sinh tuổi trẻ, t́nh yêu v.v… để bảo vệ chế độ cộng sảnh nhưng không được ân huệ của chế độ (như kiểu: “đầu đường thiếu tá bơm xe, giữa đường đại tá bán chè đậu đen! v.v…) như trường hợp của ông Nguyễn H. và gia đ́nh.
Thí dụ 2: Cái phần giới thiệu ở trên, với đoạn văn tiếp theo: “… Về bản thân tôi, khi chưa được ra nước ngoài, cũng như bao bạn bè đồng trang lứa khác đều tự nhủ là Việt-nam đă đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, có một chính phủ tiên tiến và đang trên đường xây dựng Chủ Nghĩa Xă Hội (CNXH). Thế nhưng chỉ sau một thời gian ngắn ở nước ngoài, h́nh tượng tốt đẹp Chủ Nghĩa Cộng Sản (CNCS) đă tan biến trong tôi và nó được thay thế bằng h́nh ảnh của sự kém hiểu biết, không thức thời và tham lam của Đảng CSVN và đảng viên…”, nếu người đọc không kỹ, hoặc không biết cách giải mă th́ sẽ nghĩ về ông Nguyễn H. rằng:
- Gia đ́nh ông ta là nạn nhân của chế độ cộng sản;
- Gia đ́nh ông ta: “CŨNG được hưởng ân huệ của CHẾ ĐỘ HIỆN NAY” (nghĩa là chế độ cộng sản XƯA KIA đă có đổi mới” thành cái CHẾ ĐỘ HIỆN NAY, nên dù từng là nạn nhân nhưng CŨNG được hưởng ân huệ; tóm lại là không c̣n PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ nữa.
- Không chỉ v́ bản thân từ một gia đ́nh cộng sản thực thụ nên ông Nguyễn H. đă mơ hồ “Tự hào là Việt-nam đă đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, có một chính phủ tiên tiến và đang xây dựng chủ nghĩa xă hội”. Ông Nguyễn H. không biết căn cứ vào sự việc cụ thể nào để viết rằng: “bao bạn bè đồng lứa khác đều tự hào…” như ông ta?
- Chỉ một thời gian ngắn ở nước ngoài, ông Nguyễn H. viết rằng: “h́nh tượng tốt đẹp Chủ Nghĩa Cộng Sản (CNCS) đă tan biến trong tôi và nó được thay thế bằng h́nh ảnh.!!
Xin bạn đọc chưa có nhiều kinh nghiệm về cái gọi là “tụi cộng sản VN”, lưu ư đến sự lắt léo trong cách dùng chữ của ông Nguyễn H.. Đó là ông ta TỰ HÀO về việc ở trong nước ĐANG trên đường xây dựng CHỦ NGHĨA XĂ HỘI. Nghĩa là, cái gọi là CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN chỉ là H̀NH ẢNH CỦA SỰ TƯỞNG TƯỢNG, TỒN TẠI trong trí tưởng tượng mà thôi, v́ ngay cái gọi là : “Chủ Nghĩa Xă Hội” - bậc thấp của cái gọi là “Chủ Nghĩa cộng sản” – cũng chưa được thành hiện thực.
Cho nên, khi ra nước ngoài th́ cái “h́nh tượng tốt đẹp Chủ nghĩa cộng sản đă tan biến” trong ông Nguyễn H. v́ chả có nơi nào trên trái đất - ngoại trừ Cuba và Bắc Cao Ly – nói đến Chủ nghĩa xă hội và chủ nghĩa cộng sản!
Những “h́nh ảnh tố đẹp” ấy được “thay thế bằng h́nh ảnh của sự kém hiểu biết, không thức thời và tham lam của đảng CSVN và Đảng viên”. Đó là nhờ sách báo, tin tức, phim ảnh v.v… ở nước ngoài đă hàng giờ, hàng ngày lên án tập đoàn cộng sản xâm lược hiện nay.
Thí dụ 3: Ông Nguyễn H. viết tiếp: “Trong thời gian dài sau đó, sự thực này là một cú sốc đối với tôi. Tôi lớn tiếng trách móc CSVN ở mọi nơi có thể. Tôi luôn t́m thấy điều xấu xa của chế độ này để chê trách. Những ai không cùng quan điểm với tôi đều bị tôi cho là người hèn nhát, bị bùa mê CS.”
Ở đoạn văn trên, ông Nguyễn H. đă biểu diễn rất thành công h́nh ảnh của một anh chàng MÁNH KHOÉ và LÁU LỈNH, mà ông ta đă hạ bút một cách rất vô trách nhiệm rằng: “Tôi nghĩ ràng dân Việt nam mánh khoé chứ không sáng tạo, láu lỉnh chứ không thông minh.” ²
Chỉ cần viết: “Tôi lớn tiếng trách móc CSVN ở mọi nơi.” thế là đầy đủ rồi. Nhưng, ông Nguyễn H. LÁU LỈNH thêm hai tiếng “CÓ THỂ”. Nghĩa là ông ta CHẲNG HỀ LỚN TIẾNG trách móc CSVN, v́:
- Ông ta CÓ THỂ trách móc CSVN trên các diễn đàn ở hải ngoại. Nhưng có ai BIẾT điều đó không? Không, v́ nó chưa bao giờ xảy ra. ÔNG TA CHỈ NGHĨ TRONG ĐẦU LÀ CÙNG.
- Cái điều kiện CÓ THỂ đó của ông Nguyễn H. rất là mung lung, không rơ ràng - giả dụ cái điều kiện nào đó là CÓ THỂ cho mọi người, nhưng với ông Nguyễn H. th́ VẪN LÀ CHƯA CÓ THỂ.
Cho nên khi ông ta viết: “Tôi luôn t́m thấy điều xấu xa của chế độ này để chê trách,” (có nghĩa là cái chế độ hiện nay đang trên đường xây dựng chủ nghĩa xă hội). V́ thế, xin bạn đọc đừng TƯỞNG ông Nguyễn H. CHÊ TRÁCH chủ nghĩa xă hội mà là chê trách cái CHẾ ĐỘ chưa lộ rơ h́nh thù xă hội chủ nghĩa.
Một cách LÁU LỈNH ông Nguyễn H. viết tiếp: “Những ai không cùng quan điểm với tôi đều bị tôi cho là những người hèn nhát, bị bùa mê CS”.
Trong đoạn văn này, khi dùng cụm từ “bị bùa mê CS” th́ có nghĩa là cộng sản có sức hấp dẫn khiến người ta phải say mê. Điều say mê cái HẤP DẪN đâu có ǵ là SAI. Cái lưu manh của tập đoàn cộng sản là chúng sử dụng chủ nghĩa cộng sản làm cái áo che đậy ÂM MƯU và BẢN CHẤT TỰ NGUYỆN LÀM VIỆT GIAN cho chủ nghĩa bành trướng đỏ Nga-xô và Tàu cộng. C̣n Nga-xô và Tàu cộng th́ dùng chủ nghĩa cộng sản che đậy chính sách bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ. Cũng như thế, mấy tên công an cộng sản mặc áo sư để thâm nhập vào dân chúng. Chúng ta phải vạch bộ mặt công an – công cụ chuyên chính của chúng ra, chứ KHÔNG NÊN chửi cái áo cà-sa. Cho nên cần vạch mặt Việt gian của tên gọi là “đảng cộng sản VN”, chứ không dại ǵ mất th́ giờ để chửi chủ nghĩa cộng sản – cái thứ hoang tưởng chưa bao giờ hiện hữu và không bao giờ có thể hiện hữu.
Giải mă đoạn văn mào đầu trên của ông Nguyễn H., chúng tôi chỉ hy vọng bạn đọc thấy được cái LÁU LỈNH của ông Nguyễn H. là làm ra bộ thật thà chứ không thật thà. Có nghĩa là: “nói vậy mà không phải vậy”!
Nếu để bị lừa từ đoạn văn mào đầu, chúng ta sẽ dễ dàng THA THỨ do những lập luận RẤT ẤU TRĨ của ông Nguyễn H. ở các đoạn sau, mà không thấy ông ta cố t́nh ẤU TRĨ, v́ như thế có lợi cho việc xuyên tạc của ông ta.
Bây giờ chúng tôi xin trao đổi thẳng vào các vần đề mà ông Nguyễn H. đặt ra.
Trước khi tŕnh bày lập luận của ḿnh, ông Nguyễn H. khẳng định rằng “đă nghiên chứ rất nhiều tài liệu, từ những học thuyết kinh tế đến ư thức hệ. Cùng với những hiểu biết về Việt nam”.
- Về Dân Chủ: Ông Nguyễn H. viết: Trong lịch sử nước VN, chúng ta chưa có lức nào có dân chủ thực sự. Do vậy cả người lănh đạo (từ trước đến nay) và dân chúng đều hiểu không cụ thể dân chủ là ǵ, chính v́ thế mà ít người coi trọng dân chủ chứ đừng nói là đấu tranh v́ dân chủ.
- Từ ngàn xưa, dưới các chế độ phong kiến, vua là trời, khinh vua (hay khi quân) là tối kỵ. Một lời nói sai là có thể ba đời bị giết. Vua lên nắm quyền đều không muốn dân chúng nói xấu hay khinh dể ḿnh, đồng thời cũng coi thường chúng dân. Làm dân th́ phải biết nghe lời, uốn lưỡi 7 lần trước khi nói, nếu không họa đổ vào đầu. Nói hơi sai c̣n đủ chết chứ đừng nói có ư kiến đóng góp hay xây dựng hay phê b́nh vua quan.
Thử hỏi qua mấy ngàn năm, điều đó có ăn vào máu của người Việt-nam ta không? Chính v́ thế mà đến bây giờ CSVN và dân chúng luôn có những tư tưởng như vậy. CSVN lên nắm chính quyền cũng coi thường dân. Bưng bít sự thật xấu xa, thổi phồng thành tích, bắt bớ đe dọa người bất đồng chứng kiến cũng bắt nguồn từ những quan niệm đó, mặc dù về h́nh thức có khác so với thời phong kiến. Dân chúng cũng vậy, họ cũng không có thời gian hay kiến thức để hiểu thế nào là dân chủ, thế nào là quyền con người nên dễ dàng chấp nhận sự cai quản của đảng cộng sản việt nam…
Ông Nguyễn H. có khoe là ĐĂ NGHIÊN CỨU RẤT NHIỀU TÀI LIỆU. Xin hiểu ư là Đă Nghiên Cứu chứ không phải là đọc lớt phớt. Theo chúng tôi biết chỉ có miền Bắc VN dưới sự đô hộ của tập đoàn việt gian Hồ Chí Minh, chương tŕnh học bị rút ngắn lại ở bậc tiểu học đến hết trung học phổ thông chỉ có 9 năm. Sau năm 1954, nâng lên 10 năm. Đă thế học sinh chỉ có học một buổi 3 đến 4 tiết học, mỗi tiết 45 phút. Chương tŕnh có thêm: học chính trị, học quân sự và đi lao động chân tay. Chẳng biết ông Nguyễn H học ở hệ 9 năm hay 10 năm nên ư kiến của ông viết ra cho phép mọi người thấy:
- Hoặc ông cố t́nh xuyên tạc lịch sử;
- Hoặc kiến thức cơ bản của ông đầy lỗ hổng như tổ ong.
- Hoặc là cả hai, nghĩa là làm cái công việc XUYÊN TẠC LỊCH SỬ với VÀI CỌNG KIẾN THỨC LỖI THỜI!
Chúng tôi cũng hiểu được rằng do sự sinh ra, lớn lên ở phía bắc VN, nên tài liệu ông được nhồi nhét th́:
- Về lịch sử: toàn nói về chỉ gọi là Lịch sử cách mạng VN nghĩa là sự tô hồng cho tập đoàn việt gian Hồ Chí Minh.
- Về chính trị: học một ít lư thuyết hoang tưởng của chủ nghĩa Mác-lê, đă được đơn giản hóa để thành tài liệu học vào chiều thứ ba và thứ năm hàng tuần. ở tất cả các cơ quan dưới sự đô hộ của tập đoàn việt gian Hồ Chí Minh. Trong đó, gồm tất cả một số lao công, “anh chị nuôi” tức nấu bếp v..v..mà học lực chưa qua cấp tiểu học của cái chương tŕnh giáo dục của tập đoàn việt gian Hồ Chí Minh.
Cho nên, chúng tôi rất chân thành chỉ dẫn cho ông Nguyễn H. t́m học lại một số tài liệu lịch sử mà những học sinh có may mắn được các thầy, cô giảng dậy, không bị tập đoàn Hồ Chí Minh đô hộ, coi là b́nh thường. Nghĩa là học sinh ở miền Nam VN dưới chế độ Cộng Hoà, và miền Bắc VN từ 1954 trở về trước, tại các vùng ngoài ṿng phong toả của tập đoàn Việt Gian Hồ Chí Minh.
Thời phong kiến, nói chung, đều có MINH QUÂN và HÔN QUÂN; có QUAN LIÊM và QUAN THAM. Cuối mỗi triều đại đều có HÔN QUÂN và QUAN THAM là nguyên nhân sụp đổ của triều đại để một triều đại khác thay thế.
Vua nhận ḿnh là CON TRỜI (thiên tử) chứ không nhận ḿnh là TRỜI, như ông Nguyễn H viết bậy. Nhận ḿnh là con Trời nhưng Vua cũng gọi dân là THẦN DÂN. Và, nhà Vua có bổn phận có BỔN PHẬN lo cho DÂN ấm no, hạnh phúc, thông qua các thiết chế (luật) và các quan lại. Nhà Vua cũng bị trói buộc bởi thiết chế do ḿnh đặt ra, chứ không phải tùy hứng (loại trừ hôn quân). Vào, mục địch cuối cùng của Vua cũng là làm thế nào cho DÂN GIẦU, NƯỚC MẠNH, BẢO VỆ Và MỞ RỘNG BỜ CƠI (khi điều kiện cho phép).
Dân, tất nhiên là tôn trọng Vua, Quan, qua việc chấp hành luật lệ, như vẫn giữ cho ḿnh (hoặc cộng đồng của ḿnh, tức làng xă) một số QUYỀN mà VUA, QUAN, cũng phải tôn trọng. Đó là LỆ LÀNG, là HƯƠNG ƯỚC, là tín ngưỡng làng xă, tức thờ THÀNH HOÀNG. V́, phần lớn THÀNH HOÀNG là do DÂN TIẾN CỬ và Vua làm nhiệm vụ chuẩn y qua sắc phong.
Vua nhận là CON TRỜI nhưng vẫn phải “tự phê b́nh” với Trời về trách nhiệm chăm lo cho DÂN. Tỷ dụ như khi có hạn hán, lũ lụt, bệnh dịch v..v.. Vua làm lễ TẠ TỘI với TRỜI, tự cắt giảm các thức ăn, đồ mặc, nghe ca hát và cả “ngủ với vợ”! Có đâu như tên Hồ Chí Minh, những năm đầu 40, gầy ốm nằm ở hang Pắc bó (cao Bằng), cả nước chiến tranh đói khổ, nỗi nhục nô lệ… thế mà hắn vẫn cưỡng hiếp cô bé đưa cơm cho hắn – c̣n tuổi vị thành niên - để đẻ ra me-xừ Nông Đức Mạnh bây giờ, mà hắn cũng chẳng hề cưới làm vợ, làm thiếp hay cùng lắm cho cái danh xưng “ex-girlfriend”! Đúng là cháu đích tôn của Sở khanh!!!
Dưới đây chúng tôi xin trích dẫn một vài tài liệu lịch sử của VN mà thôi, để ông Nguyễn H. dễ dàng NGHIÊN CỨU lại, nhưng phải NGHIÊM CHỈNH.
1. Các bộ luật của triều đ́nh (c̣n gọi là luật tục) rất coi trọng các Hương ước, Khoán ước coi đó là bộ phận cấu thành của luật tục.
Thí dụ 1: Hương ước làng Hạ Bằng (Hà Tây) có lệ ăn thề vào ngày mùng Một tháng Giêng hàng năm, rằng: “Không ăn gian nói dối, không lấy cắp của nhau”.
Khoán ước làng Quỳnh Đôi (Nghệ An), điều đầu tiên có ghi: “Cả làng - trên dưới, lớn nhỏ, sau khi ăn thề, làm Khoán ước rằng: Ai trong làng bị người thù oán mượn việc công để trả thù việc riêng, cả làng phải hết ḷng xét xử. Ai lấy ư riêng nói khác, làm trái lời thề, ai cậy có quyền thế, làm trái ư chung, cậy thế lực quan trên bắt người làng, phải bị trói ở đ́nh để LÀNG XÉT XỬ.
Điều 63 (Khoán ước Quỳnh Đôi) ghi: “Người ta phải lấy luân lư làm trọng – Nghĩa là làm cha tính nết phải cho lành, làm con phải thờ cha mẹ cho hiếu, làm anh th́ phải ở với em cho hiền ḥa, làm em th́ ở với anh cho cung kính, chồng nói vợ nghe. Làm người không cư xử như thế th́ chẳng khác sức vật. Ai có lỗi, tùy theo nặng nhẹ, sẽ bị làng phạt”
Điều 88 (Khoán ước Quỳnh Đôi) ghi: “Ai khoẻ mà hiếp người yếu… đánh xé nhau hại đến phong hóa th́ phải phạt”.
Ba điều đầu tiên của Khoán ước Quỳnh Đôi đều chống lại sự bất công, cậy quyền thế ức hiếp người khác, cũng như lên án những kẻ giầu có lợi dụng lúc đói kém để bắt chẹt kẻ khó. Và c̣n 3 điều khác nêu rơ: mọi việc làng phải làm CÔNG KHAI đông đủ trên dưới ở đ́nh; ai có ư kiến khác nêu ra phải được bàn bạc thoả đáng, khi bàn xong, có quyết định rồi th́ không ai được oán trách, phỉ báng.
ĐẤY LÀ BẰNG CHỨNG VỀ DÂN CHỦ Và CÔNG BẰNG, đă có ở nông thôn Việt Nam từ khi chưa có thực dân xanh là Pháp và thực dân đỏ là Nga Xô và Tầu cộng mà tập đoàn việt gian Hồ Chí Minh là công cụ đô hộ của chúng.
Học sinh cấp I không bị nhồi sọ, tẩy năo theo chính sách “trồng người” của tập đoàn Việt Gian Hồ Chí Minh, đều đă từng nghe câu “Phép vua thua lệ làng”!
Thí dụ 2: Sau hai mươi năm bị giặc Minh đô hộ và chiến tranh, trên đống hoang tàn của đất nước như thế, Lê Thái Tổ đă dồn hết tâm sức cho đất nước. Ngài đă ban bố nhiều chỉ dụ quan trọng, trong đó xin trích 2 đạo chỉ dụ nổi tiếng ngay từ 1429.
- Ngày 26-2-1429: Vua ra lệnh cho các quan đại thần và các quan hành khiển rằng: “Nếu thấy các điều lệnh của Trẫm có điều ǵ phương hại đến việc quân, việc nước, hoặc giả là việc ǵ sai dịch không phải lẽ, hoặc giả cho thu thuế khoá nặng nề, hay như ư việc tà dâm bạo ngược… th́ cứ cho tâu xin để trấm sửa lại…
- Ngày 18-10-1429: Vua ra lệnh cho các đại thần, tổng quản và hành khiển trở xuống rằng, cổ nhân có câu: “Quân bất trạch tướng, dĩ kư quốc dữ địch dă (nếu vua không chọn được tướng tài pḥ tá th́ khác nào dâng nước cho giặc). Trẫm không lúc nào không nghĩ đến điều đó. Bởi đêm ngày lo nghĩ nên mới đem việc quân, việc nước quan trọng mà trao phó cho các khanh. Thế mà các khanh cứ điềm nhiên như không, trên th́ phụ ḷng tin dùng của triều đ́nh, dưới th́ chẳng chút đoái thương đến quân dân, sao mà biếng nhác việc quan đến thế? Nay ra chiếu này để răn bảo, nếu không biết tự ḿnh sửa lỗi, lại c̣n tái phạm th́ phép nước c̣n chờ đó, khi ấy đừng nói là trẫm phụ bề tôi cũ có nhiều công lao.
Xin trích tiếp: “Chuộng nhà cửa cung đài cao đẹp tất gây nên thói kiêu sa, theo ư mà trái L̉NG DÂN tất sẽ chuốc lấy sự oán ghét của mọi người. Vậy từ nay, dù gặp ngày khánh tiết, các quan không được dâng biểu, xưng tụng công đức viễn vông, mà cấm ngặt bày vẽ tiệc tùng, yến ẩm sa hoa...”
Triều đại vua Lê như vậy đấy. Vua chưa đi quá biên giới Việt nam lúc đó; xưng là vua mà đâu dám “theo ư mà trái ḷng DÂN”; cấm dâng biểu nịnh hót “tô hồng”. Hoàn toàn khác hẳn với tên Việt gian Hồ chí Minh và tay chân mà ông Nguyễn H. tự khoe là “hiểu biết về Việt-nam”, chắc không thể chối là không biết những việc tạm kê dưới đây:
- Đầu nửa cuối 1954, qua hiệp định Genève 1954 về Việt-nam, tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh giắt díu nhau vào Hà-nội. Hồ chiếm cái “Phủ Toàn quyền” thực dân Pháp ở xưa kia, đổi thành “Phủ chủ tịch”. Bên ngoài cho xây “Lễ đài Ba Đ́nh”; bên trong cho dựng ngôi nhà sàn để lừa mấy anh chị nhà báo, giáo sư... người nước ngoài cũng như một số tín đồ trong băng đảng Việt gian của Hồ, tưởng rằng hắn “tằn tiện” quốc khố, chỉ dùng cho bản thân, “một nguyên thủ”, có mỗi cái nhà sàn mà thôi. Có ai dám vạch ra rằng thực tế là Hồ đă ở rộng hơn “Toàn quyền Đông Dương” của thực dân Pháp “một cái nhà sàn” và “cái Lễ đài Ba Đ́nh”. So với cụ Ngô Đ́nh Diệm, nguyên thủ của VNCH (miền Nam VN) th́ Hồ sa hoa hơn gấp bội lần về cả ăn ở, đi lại. cụ Diệm đâu có “xe hơi bọc thép”, c̣n Hồ, hắn cho mua xe ô-tô Tchaïka bọc thép, máy bay trực thăng, máy bay IL18. Hắn vẫn để bộ râu dê, cố T̀NH ăn mặc xuề x̣a như PHÚ NÔNG nhằm dùng h́nh ảnh chẳng giống con giáp nào để gây ấn tượng với giới báo chí nước ngoài và ḷe bịp những người dân thật thà, lương thiện..
Trong khi cụ Ngô Đ́nh Diệm từ khi về chấp chính đến ngày bị lũ cẩu nô đảo chánh, không có ǵ thay đổi về h́nh thức, th́, họ Hồ mặt mũi ngày càng đỏ au, thân h́nh ph́ nộn. Lũ tay chân thân tín của Hồ cũng vậy. Chúng ăn uống sa hoa, đĩ bợm. Thí dụ cụ thể từ Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm văn Đồng, Vơ nguyên Giáp trở xuống, từ loại Xuân Thủy, Tố Hữu, Nguyễn văn Trân v.v... trở lên. Tất cả bọn chúng đều chiếm những ngôi vi-la to đẹp của Hà-nội. Nhiều tên c̣n bày xây nhà riêng ở khu nghỉ mát, như Tôn Đức Thắng cho xây biệt thự ở Hải Dương, đóng cửa bỏ đấy; Vơ Nguyên Giáp bắt công binh xây vi-la mới ở Đồ Sơn, phá đi xây lại mấy lần mới vừa ư hắn; Chu văn Tấn được cho cai trị vùng gọi là “tự trị Việt Bắc”, cho đánh đường lên núi xây lâu đài riêng, cho cải táng mộ cha mẹ xây mả lớn mồ to v.v.... Hồ Chí Minh c̣n cho lập hệ thóng cung cấp đặc biệt cho hắn và các đệ tử , từ thực phẩm, thuốc men, giải trí, nghỉ ngơi, chữa bệnh, đi lại. Hắn c̣n cho chiếm đất ở khu Hồ Tây, xây một loạt nhà nghỉ cá nhân rất sang trọng cho lũ gọi là ủy viên chính trị bộ, ủy viên ban bí thư và vài tên ủy viên trung ương loại gạo cội như Hoàng Quốc Việt, Nguyễn văn Kính, Trần hữu Dực, Phan trọng Tuệ, Lê quốc Thân v.v... để ăn chơi – nói cho rơ ràng là để chơi gái! Các cô gái trẻ phần lớn gốc Cao Bằng, Lai Châu được tuyển lựa và tẩy năo kỹ càng để thành GÁI ĐIẾM, nhưng cứ hoang tưởng tự hào là làm nhiệm vụ đặc biệt để PHỤC VỤ CHO CÁCH MẠNG!!!
Hồ cũng cho lập ra cái gọi là “câu lạc bộ Ba Đ́nh” và “nhà hàng du lịch” (nhà hàng Ritz cũ ở Hà-nội trước khi giặc Hồ vào Hà-nội, tọa lạc trên Đại lộ Gia Long – Hàng Khay) làm nơi vui chơi cho “cán bộ trung cao” của hắn. C̣n khoản GÁI th́ tùy tiện, tên nắm đầu ngành nào tha hồ “dụ dỗ, mua chuộc, cưỡng bức” nữ cán bộ, công nhân viên chỗ đó. Thí dụ cụ thể:
1) Tố Hữu, bồ bịch với nữ thư kư riêng. Bị bại lộ, Tố Hữu bắt cô ta phải lấy cậu em nuôi là hoạ sĩ L.C.N – Khi nắm chức phó thủ tướng thường trực trong ngụy quyền Hà-nội, Tố Hữu gia ơn cho bồ cũ làm Tổng giám đốc Công ty thuốc Tây (liên doanh với Pháp).
2) Trần danh Tuyên, từng là bí thư thành ủy Hà-nội, xếp lớn của ông Nguyễn minh Cần, khi chuyển qua làm bộ trưởng bộ vật tư của ngụy quyền Hà-nội, đă gọi nữ cán bộ thể dục thể thao của bộ vào văn pḥng định cưỡng hiếp ngay trên bàn làm việc. Nhờ có sức khoẻ, cô bé đó đă thoát tay hắn.
3) Thiếu tướng Nguyễn trọng Vĩnh, ủy viên dự khuyết trung ương cộng đảng (từ khoá 3); ủy viên quân ủy ngụy quân cộng sản Hà-nội, cố vấn đặc biệt cho tổng bí thư Lào cộng Cay-xoong Phôm-vi-hản, nhận diễn viên đoàn xiếc trung ương là Mai Sinh làm “con nuôi”. Vĩnh đưa “con nuôi” về nhà hiếp. Cô diễn viên nổi danh một thời mới 17 tuổi bị dính bầu. Vĩnh cho cô ta vào chỗ ngụy quân cộng sản đóng quân, đẻ xong, lại đưa về đoàn xiếc. Chẳng ai dám “théc méc” v́ sao cô diễn viên bặt tăm cả gần năm trời.
4) Hoàng quốc Việt, kẻ đă làm lễ trao cờ cho Vơ nguyên Giáp ở Tân Trào, 12-1944, h́nh thành trung đội ngụy quân đầu tiên. Hắn giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ngụy quyền cộng sản Hà-nội như: chủ tịch tổng công đoàn, viện trưởng viện kiểm sát tối cao, chủ tịch đoàn chủ tịch mặt trận tổ quốc, ủy viên hội đồng quốc pḥng v.v... Hắn cũng chính thức hai cô bồ; một là Đặng thị Trâm, cháu họ của Trường Chinh, vợ của Nguyễn Ngọc Kha, chánh văn pḥng mặt trận tổ quốc; một nữa là ...H., cô gái trẻ chính hiệu Hà-nội. Hoàng quốc Việt gửi hai cô bồ này cho Xuân Thủy đưa về làm việc tại ṭa báo Cứu quốc. Mụ Đặng thị Trâm giữ chức thư kư công đoàn. Là cán bộ dưới quyền của Việt, nên chồng mụ Trâm nhắm mắt giả mù.
5) Hoàng Tùng, khi giữ chức tông biên tập báo Nhân Dân, cơ quan nói láo của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, t́m cách đẩy phó của hắn là thép Mới (tức Hà văn Lộc) đi thâm nhập lănh thổ của VNCH. Hắn cấu kết với em ruột Thép Mới là Hồng Hà để cưỡng bức vợ Thép Mới là C.P.K. Thép Mới từ Nam ra, không dám làm ǵ Hồng Hà và Hoàng Tùng mà chỉ ly dị vợ. Vợ Thép Mới đau khổ đội đơn khiếu tố đến Lê Duẩn và Trường Chinh, nhưng cả hai đều bỏ mặc. Không những thế, trong đại hội cộng đảng khóa 4, chúng c̣n cho Hoàng Tùng cái chức bí thư trung ương đảng và Hồng Hà cái ghế ủy viên trung ương kiêm tổng biên tập báo Nhân Dân thay cho Hoàng Tùng.
Thí dụ về “người thực việc thực” như trên, viết cả đời không hết.
Nói là “hiểu biết về Việt-nam”, không thể nào ông Nguyễn H. dám chối là dưới chế độ thực dân đỏ tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh cai trị, phụ nữ đa phần phải “làm điếm” theo một kiểu nào đó, mà ông không được nghe nói đến.
Ở nông thôn, muốn được chứng nhận để ra thành thị làm việc, học hành, hầu hết phải hiến thân cho cấp ủy ở xă. Nếu không cứ mút mùa làm ruộng và bị đẩy đi thanh niên xung phong.
Ở nhà máy, công trường cũng thế, không cần phải có thay nghề cao (nếu có càng tốt), chỉ cần hiến thân cho cấp ủy là được lên lương, được vào biên chế chính thức, được là cảm t́nh đoàn thanh niên hay cảm t́nh đảng để có cơ hội đi học nghề ở Đông Âu.
Ngay các cơ quan văn hóa, thể dục thể thao cũng vậy. Thuở trước 1975, cả Hà-nội ai mà chẳng biết nhà văn nữ mới vào nghề là Nguyễn thị N.T. đă phải chiều ḷng “ngài biên ủy” Xuân Tŕnh ngay trên bàn viết văn ở cơ quan tuần báo Văn Nghệ (phố Trần Quốc Toản, Hà-nội).
Các ca sĩ U.O. và nhà thơ X.Q. cùng nhiều người trẻ khác khi muốn vào ngưỡng cửa văn học, nghệ thuật, đều phải qua tay tổng thư kư hội Liên Hiệp văn học nghệ thuật là Nguyễn Đ́nh Thi. Các diễn viên múa, kịch nói và cải lương th́ phải qua tay giám đốc sở văn hoá thông tin Hà-nội là Nguyễn Bắc - kẻ cho đánh bắt các “Cụ Rùa” ở hồ Gươm lên để nhậu.
Ngơ Ngác như nhà thơ Lưu trọng Lư cũng bắt nữ nghệ sĩ Đàm Liên của đoàn tuồng khu 5 lên bờ đê Quảng Bá mần thịt. Bị du kích Quảng Bá bắt quả tang, nhưng, vụ trưởng vụ sân khấu Lưu trọng Lư được đích thân thủ tướng ngụy quyền cộng sản Hà-nội là Phạm văn Đồng can thiệp, được thoát nạn, về làm chủ tịch hội sân khấu VN, chỉ phải nộp cống nàng Đàm Liên cho thủ Đồng mà thôi!!!
Lôi ra khỏi cái vỏ “cộng sản” “cách mạng” th́ Hồ chí Minh và các đồng chí của hắn là như vậy đấy, thưa du sinh Nguyễn H.!
(c̣n tiếp)