 |
|
 |
 |
Miếng trầu là đầu
câu chuyện
Có lẽ cách đây một khoảng thời gian, chúng
ta thường bắt gặp h́nh ảnh những
cụ bà ngồi bên thềm nhà têm trầu, quét vôi;
những cụ bà ấy gặp nhau th́ mời nhau
một miếng trầu cho câu chuyện về con cái,
nhà cửa làng xóm thêm phần đậm đà. H́nh
ảnh trầu cau đă đi vào văn hóa Việt
Nam như một cái ǵ đó rất gần gũi, thân
quen..Thế nhưng ngày nay, h́nh ảnh ấy có
lẽ hiếm hoi như lá mùa thu vậy. Tuy nhiên,
trầu cau vẫn là một lễ vật không thể
thiếu trong những đám cưới, đám
hỏi của người Việt Nam nói chung và dân
tộc Kinh nói riêng.
Theo phong tục Việt nam, miếng trầu tuy rẻ
tiền nhưng chứa đựng nhiều t́nh
cảm ư nghĩa, giàu nghèo ai cũng có thể có, vùng
nào cũng có. Miếng trầu đi đôi với
lời chào, người lịch sự không ăn
trầu cách mặt nghĩa là đă tiếp th́
tiếp cho khắp:
Tiện đây ăn một miếng trầu
Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là
"Đầu tṛ tiếp khách" là trầu, ngày xưa
ai mà chẳng có, hoạ chăng riêng Tú Xương
mới
Bác đến chơi nhà ta với ta
Quí nhau mời trầu, ghét nhau theo phép lịch sự
cũng mời nhau ăn trầu nhưng "cau sáu ra
thành mười".
Đặc biệt "trầu là đầu câu
chuyện" giao duyên giữa đôi trai gái:
Lân la điếu thuốc miếng trầu,
đường ăn ở dễ chiều ḷng bạn
lứa
Trầu vàng nhá lẫn trầu xanh
Duyên em sánh với t́nh anh tuyệt vời.
Mời trầu không ăn th́ trách móc nhau:
Đi đâu cho đổ mồ hôi
Chiếu trải không ngồi trầu để không
ăn.
Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
Khi đă quen hơi bén tiếng, trai gái cũng mượn
miếng trầu để tỏ t́nh, nhất là các
chàng trai nhờ miếng trầu mà tán tỉnh:
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm
chiêu.
Một thương, hai nhớ, ba sầu
Cơm ăn chẳng được, ăn trầu
cầm hơi.
"Có trầu, có vỏ, không vôi" th́ môi không
thể nào đỏ được, chẳng khác ǵ
"có chăn, có chiếu không người năm
chung".
Cho anh một miếng trầu vàng
Mai sau anh trả cho nàng đôi mâm.
Yêu nhau chẳng lấy được nhau
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già.
Miếng trầu không đắt đỏ ǵ "ba
đồng một mớ trầu cay" nhưng "miếng
trầu nên dâu nhà người".
Ngày nay để răng trắng nhiều người
không biết ăn trầu nữa, nhất là ở thành
phố, nhưng theo tục lệ nhà ai có con gái
gả chồng, sau khi ăn hỏi xong cũng đem
cau trầu cau biếu hàng xóm và bà con nội ngoại.
V́ miếng trầu là tục lệ, là t́nh cảm nên
ăn được hay không cũng chẳng ai
chối từ
Thời xưa, ăn trầu c̣n sợ bị bỏ
"bùa mê", "bùa yêu" nên người ta có
thói quen:
Ăn trầu th́ mở trầu ra
Một là thuốc độc hai là mặn vôi.
Các cụ càng già càng nghiện trầu, nhưng không
c̣n răng nên "đi đâu chỉ những
cối cùng chày" (Nguyễn Khuyến). Cối chày
giă trầu làm bằng đồng, chỉ bỏ
vừa miếng cau, miếng trầu, miếng vỏ nhưng
trạm trổ rất công phu, ngày nay không c̣n thấy
có trên thị trường nên các cụ quá phải
nhở con cháu nhá hộ.
V́ trầu cau là "đầu tṛ tiếp khách"
lại là biểu tượng cho sự tôn kính,
phổ biến dùng trong các lễ tế thần,
tế gia tiên, lễ tang, lễ cưới, lễ
thọ, lễ mừng... Nên têm trầu cũng đ̣i
hỏi phải có mỹ thuật, nhất là lễ cưới
có trầu têm cánh phượng có cau vỏ trổ hoa,
"cau già dao sắc" th́ ngon. Bày trầu trên
đĩa, hạt cau phải sóng hàng, trầu vào
giữa, điaz trầu bày 5 miếng hoặc 10
miếng, khi đưa mời khách phải bưng hai
tay. Tế gia tiên th́ trầu têm, c̣n tế lễ thiên
thần th́ phải 3 là trầu phết một tí vôi
trên ngọn lá và 3 quả cau để nguyên .
Theo Phong tục Việt Nam |
|
 |
|
 |
|
>>>Free Online Virus Scan
>>>World Time
|