Thi tập Hoa Nở Vườn Lê của Nữ Sĩ Lê Bạch Lựu
hay là
Tâm t́nh đất khách của tác giả với quê hương
GS Lê Mộng Nguyên
Qua cơn tuyết phủ mưa sầu
Vườn Lê nay đă đổi màu xanh tươi
Đơm hoa kết trái nẩy trồi
Hương thơm ngào ngạt, ngát trời tha hương
Tơa ra khắp cả mười phương
Hoa Lê rạng rỡ, muôn đường trắng trong
Vốn xưa ḍng dơi nho phong
Sắc hoa lộng lẫy, cơi ḷng hả hê
Hương Quê thắm đượm vườn Lê
Theo làn gió thoảng, bay về cố hương
Bài thơ mở đầu của nữ sĩ Lê Bạch Lựu lấy tên Hoa Nở Vườn Lê mà cũng là nhan đề của thi tập thứ năm do tác giả ấn hành (2002) của nhà thơ hiện cư ngụ tại Montréal (Québec, Gia Nă Đại) từ 1983 (được gia đ́nh con băo lănh) và từ dạo ấy, theo Vài nét về tác giả : Lê Bạch Lựu làm thơ, viết văn, hợp tác với các báo chí, các hội đoàn cổ vơ sứ mạng phục vụ cộng đồng và phát huy nền văn hóa và lịch sử của Việt Nam tại hải ngoại... Đọc thi bản HNVL, ta có cảm tưởng thi tập HNVL là cuộc hành tŕnh tư tưởng (không bao giờ chấm dứt) tiếp theo những sáng tạo bằng thơ cùng một tác giả đă xuất bản : Đời Sống Tha Hương (Montréal, 1989), Hương Quê (Montréal, 1990), Hồn Non Nước (Montréal, 1994) và Hương Lan Vườn Ngọc (Montréal, 1998). Phải chăng nhà thơ của chúng ta (mặc dầu lưu lạc nơi đất khách, mặc dầu chỉ ghi lại trên giấy nỗi ḷng của ḿnh trước phong cảnh và đại sự nước người), bao giờ cũng vẫn hướng về cố hương trong linh hồn và lư tưởng ? Trong lai cảo nữ sĩ gửi đến cho tôi, có một ảnh đẹp tác giả đứng trong vườn, trước cây lê đầy hoa trắng nở, với dáng điệu thanh cao, đà
i các, tuy mỉm cười nhưng buồn dịu như vương vấn tâm t́nh và nhung nhớ của một quá khứ buồn đau :Mây bay buồn nhớ mênh mang
Cánh chim bạt gió dặm ngàn tha hương
Châu Giang, cố quận mến thương
Ḍng sông nước chảy vấn vương t́nh sầu
Nhớ Vườn Lê, nhớ trái dâu
Nhớ hàng Phượng vỹ bên cầu gió bay
Nhớ cây gạo đỏ hoa đầy
Tuổi thơ sống giậy ḷng ngây ngất buồn
(Nắng Chiều, Chiều thu Montréal 2000)
Thật vậy ! Tác giả "Hoa Nở Vườn Lê" v́ sinh trưởng bến Châu Giang (Hà Nam, Phủ Lư, Bắc Việt), cho nên mỗi lần nhớ lại thời tươi trẻ, người không do dự làm sống lại nơi chôn nhau cắt rốn qua hoài niệm và lời thi ca tríu mến, trong sáng như nắng hè, thơm ngát như hoa mùa chớm nở. Tôi không biết Hà Nam có phải là nơi ỏơgạo trắng nước trongơơ hay không, tôi không biết người con gái Châu Giang có phải là gái đẹp lẳng lơ đa t́nh như người con gái Bắc Ninh hay không, nhưng khi đọc mấy ḍng thơ sau trích bài "Quê Tôi", tôi mường tượng h́nh ảnh làng xóm ven bờ sông xanh hay đồng ruộng man mác trong kư ức một kẻ lưu vong đă
từ lâu :Quê tôi có bến Châu Giang
Bên hàng Phượng Vĩ huy hoàng đẹp tươi
Trên sông hoa Lục B́nh trôi
Lững lờ theo gió chảy xuôi theo gịng
Và lẽ dĩ nhiên : "Với bao cảnh đẹp mông mênh, Có con dê chạy, ṿng quanh tỉnh thành, Hàng cây táo, ổi ngon lành, Là nơi gái lịch trai thanh hẹn ḥ". Khung cảnh thiên đường này không c̣n nữa bắt đ
ầu từ năm 1954 là năm tác giả phải di cư vào miền Nam, và nước VNCH đă trở thành đất nước thanh b́nh của nữ sĩ. Nhưng đau lắm thay ! Mảnh đất tự do c̣n lại cũng phải chịu nhiều nông nỗi gian truân và dân chúng phần đông phải trở thành những kẻ trầm luân của Đại-dương :Quê tôi, đang sống thần tiên
Bị làn sóng đỏ chiếm liền khinh khi,
Khiến cho tôi phải ra đi
Tỵ nạn xa xứ ḷng th́ nhớ quê.
Từ ngày ly hương (1983) và nương náu tại Montréal là nơi xứ lạnh t́nh nồng, nhà thơ Lê Bạch Lựu không bao giờ quên được chốn sinh thành Bắc Việt đang quằn quại dưới gông cùm xă hội chủ nghĩa (mỗi lần người hoài niệm lại quăng đời hạnh phúc thanh b́nh thuở ấu thơ) :
Bến Châu Giang hướng về cảnh cũ
Kỷ niệm xưa nay chửa phôi phai
Nhà Huyên ở phố Tân Khai
Trong thời thơ ấu lược cài đầu xanh
Than ôi ! "Kỷ niệm xưa thật mơ màng, Tha hương đầu bạc ḷng càng luyến thương" (Kỷ Niệm Xưa), từ "Mơ Về Quê Cũ" ("Đêm qua mơ thấy quê ta, Con tàu đưa tới nhà ga Nam Ḥa"), nhà thơ quyết định trở về "T
hăm Cố Hương" (Châu Giang) năm 1999, trở lại làng xưa phố cũ (một cách chính thức, trong khuôn khổ chính sách "Đổi Mới" và Kinh Tế Thị Trường của Hà Nội), th́ nỗi buồn và thất vọng (trái với h́nh ảnh trong mộng xuân) lại càng sâu đậm hơn :Chiều nay trở lại bến Châu Giang
Thăm cố hương xưa luống ngỡ ngàng
Tại sao ? Bởi v́ cũng như trên toàn lănh thổ VN từ ngày 30 tháng tư 1975, nơi quê quán của tác giả ỏơHoa Nở Vườn Lêơơ đă đổi thay nhiều, từ cảnh đến người, thật là thê thảm cho kẻ lưu vong nay trở về nơi cố quận mà tâm hồn cảm thấy xa lạ như trên đất khách quê người :
Phố đă đổi tê
n, ḷng xao xuyếnNhà thời thay chủ, dạ hoang mang
Con đ̣ năm cũ không c̣
n nữaCô lái ngày xưa đă bỏ làng
Thân thích bạn bè đều vắng bóng
Tim ta tan nát lệ đôi hàng
Với những vần thơ minh mẫn, nữ sĩ Lê Bạch Lựu đă sùng bái quê hương thứ hai của ḿnh là miền Nam dân chủ tự do từ ngày 20 tháng 7 năm 1954 (Hiệp Định Genève) cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 :
Quê hương tôi có bốn mùa hoa nở
Đón xuân về rực rỡ ánh Hoàng Mai
Quê Hương Tôi
Làm sao quên được thủ đô đầy ánh sáng : "Sài G̣n Ḥn Ngọc Viễn Đông, Có nhà Hát Lớn trước ḍng Thủ Thiêm" ; làm sao quên được : "Đền thờ Thánh Mẫu ở liền, Bên ḍng sông chảy qua miền Hậu Giang" mà cứ mỗi năm trong Đêm Giáng Sinh, dân chúng (bất cứ trai gái hay già trẻ) ai ai cũng có mặt ngoài đường, tấp nập đồng tiến về "Thánh Đường Đức Bà" đặng nguyện cầu cho đất nước tự do... Thật đúng như ông Nguyễn Ḥa Lợi đă viết trong Đặc San Xuân Canh Th́n 2000 của Hội Tuổi Vàng Rồng Vàng ở Montréal : "... Sài G̣n là quê hương chung của chúng ta, v́ đều được đồng hóa, được sống an lành, hạnh phúc, cho đến tháng 4-1975, kẻ trước người sau, lần lượt lên máy bay, tàu sắt, rồi tàu cây, tàu đánh cá, đi chui hay đi bán chánh thức, đă đau ḷng gạt nước mắt, phú cho định mệnh, liều mạng ra đi tới nơi vô định, với băo táp, đói khát, hải tặc đày đọa thân xác. Sà
i G̣n là quê hương thứ hai của người lục tỉnh miền Nam, của người Trung, người Bắc, của người Việt Nam. Dù xa ĺa Sài G̣n đă bao nhiêu năm rồi, người Việt chúng ta vẫn luôn luôn thương nhớ Sài G̣n, nhớ những người thân c̣n ở lại, nhớ cảnh vật, nhà cửa, đường phố mà thường ngày ḿnh đă đi qua và thuộc ḷng nơi sanh sống... (Sài G̣n Hoài Cảm, tr. 20-37, Đặc San HTVRV).Cùng trong một ư niệm : làm sao quên được ỏơCố Đô Huếơơ với ỏơSông Hương nước chảy lững lờ, Bên bờ thiếu nữ đ
ứng chờ trăng lênơơ hay : "Chùa Thọ Lộc, chợ Đông Ba, Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương", hoặc thành phố rất mộng mơ :Đà
Lạt ôi ! thật nên thơ !Bên hồ Than-thở đ
ón chờ trăng lênTrăng soi ḍ
ng nước ảo huyềnChứa bao tâm sự của miền núi cao
... Xa xa dưới ánh nắng tà
Đồi thông xanh mướt chim ca vang trời
Thong dong lưng ngựa ta ngồi
Thả giây cương tới bên đ
ồi rau xanhMơ Về Đà Lạt
Làm sao quên được : "Nha Trang cát trắng dừa xanh, Nhớ về quê mẹ đầy t́nh mến thương, Sóng reo dạo khúc Nghê Thường, Bên ḥn Phu Vọng tiêu tương đợi chờ" (Nha Trang). Thơ Lê Bạch Lựu là một tán dương ca "Hồn Non Nước" (tương tự nhan đề một tác phẩm xb năm 1994), nước Việt Nam muôn thuở, nước : "Việt Nam, hơn bốn ngàn năm, Hiến Văn sáng rực giang san Việt Hùng" :
Hồn thiêng non nước đâu đây
Nhắc ta nhớ lại những ngày liệt oanh
Việt Nam sáng rạng sử xanh
Con Hồng cháu Lạc vốn ngành Tiên Long
Để họa
"Thơ Là Ǵ ?" của Song Hường, tác giả "Hoa Nở Vườn Lê" cho ta biết ... THƠ :Là bướm lượn bay dưới nắng trời
Là muôn hoa nở thắm màu tươi
Là hồn dân tộc bay theo gió
Là bóng quê hương đẹp tuyệt vời
Là gió heo may ḷng xúc cảm
Là mùa thu đến lá vàng rơi
Là trăng dơi bóng hồ than thở
Là khúc trường ca cu
ộc đổi đờiHọa : Thơ Là Ǵ ?
Thật đúng như bà DE STAEL (1766-1817) đă viết (và tôi đă nhiều lần trích đăng dịch khi nói về thơ phái nữ :Thơ phải là phản ảnh, bằng cách ứng dụng những màu sắc, âm thanh và tiết điệu, của tất cả những vẻ đẹp trên thế gian, thơ Lê Bạch Lựu là một vườn hoa, Hoa Nở Vườn Lê và như tác giả đă viết (Lời Nói Đầu cho thi tập "Hồn Non Nước", 1994) : "Vườn thơ của tôi đă mở, xin bạn đọc tự do bước vào. Gặp hoa, xin người thưởng thức; nếu lỡ chân giẫm phải gai, xin niệm t́nh tha thứ; chỉ xin người hiểu cho rằng, những lời tôi muốn nói ra, tôi đă
diễn tả với tất cả chân thành, và ḷng trân trọng"...Chân thành và trân trọng : phải chăng là hai đức tính của tác giả thi phẩm rất quyến luyến này, lúc nào cũng chỉ biết "Sớm tối chăm lo cây với cảnh, Chiều nh́n trăng gió vịnh thơ chơi" để ḥa nhịp trái tim với t́nh đ
ất nước, gia đ́nh, bạn hữu :Thấm thoát xuân nay bảy tám rồi
Trời thương Phật độ sắc c̣
n tươiChu du bốn bể, chân chưa mỏi
Ngoạn cảnh năm châu, mắt sáng ngời
78 Tuổi Tự Vịnh, Montréal 2001,
và chính ngay tại nơi người trú ngụ, trong lúc đi thăm viếng nhà thờ Saint Joseph, thấy hoa đủ màu sắc, hương thơm ngát tỏa trên giàn : Thược-dược, Tử-la-lan (Pensée), Cúc, Hướng-dương, Đại-đóa (Cúc đại-đóa), Phong-lan, Quỳnh trắng đỏ..
. tâm hồn b́nh tĩnh, an dật, trong chốc lát nhà thơ Lê Bạch Lựu có cảm tưởng như hai chàng Lưu Nguyễn lạc núi Thiên-thai, trong một giấc mơ Nghê Thường :Đây cảnh Đà
o-nguyên của thế gianHoa Tiên đua nở gió mây ngàn
Mông mênh mây nước ḷng thanh thản
Bạn với thiên nhiên đẹp tuổi vàng
Đào Nguyên
Một khi tỉnh mộng, nhà thơ lại bùi ngùi tưởng nhớ miền Đông Nam Á xa xôi, nơi người đă
gửi gắm nỗi ḷng những kẻ ra đi, có lẽ không bao giờ trở lại :Mây bay buồn nhớ mênh mang
Cánh chim bạt gió dặm ngàn tha hương
Châu Giang, cố quận mến thương
Ḍng sông nước chảy vấn vương t́nh sầu
Nắng Chiều
Với "Hoa Nở Vườn Lê" (như Minh Châu Thái Hạc Oanh với Quê Hương Là T́nh, 1991), nữ sĩ Lê Bạch Lựu đă đ
ạt được mục đích bất vụ lợi của ḿnh là phục vụ quê hương đau khổ bằng những lời thơ rung động quả tim, xúc cảm tự đáy ḷng của tất cả đồng bào xa xứ, như th́ thầm, như nhắn nhủ :Chúng ta ḍng giống Tiên Rồng
Cùng nhau đoàn kết để cùng dựng xây
Hồn thiêng sông núi đ
âu đâyGiúp ta thu ngắn chuỗi ngày lưu vong
Hồn Non Nước.
Lê Mộng Nguyên (Paris)
Trích đăng trên trang nhà www.daichung.com - Đai Chúng số 115 - Ngày 1 tháng 2 năm 2002