BÀ KHANH
Hoa Đá

Như thường lệ, sau khi niệm kinh sáng , ông bà Khanh cùng nhau dùng điểm tâm trong yên lặng, có lẽ dư âm của câu kinh tiếng kệ vẫn còn vang vọng trong tâm hồn của mỗi người.

Điểm tâm xong, ông Khanh ra công viên đi bộ, còn bà Khanh thì tập thể dục ở nhà, vì đã vài lần cả hai ông bà cùng rủ nhau ra công viên bách bộ, nhưng ông thì cho rằng bà đi chậm, còn bà thì nghĩ rằng ông đi nhanh. Thôi thì để ông ra công viên còn bà thì tập tại gia vậy.

Oâng Khanh về hưu trên một năm nay, vui sống cuộc đời nhàn nhã với cây kiểng, vườn tược như kẻ hàn sinh; ngoài ra thì ông cũng đọc sách, niệm kinh và đi chùa. Lâu lâu ông cũng lãnh sứ mệnh lái xe đem hồng, táo là những hoa trái trong vườn đến cho bạn bè lân cận, hoặc đi mua bó hành mớ tỏi mà bà Khanh cần đến cho bửa cơm chiều. Bản tính ông Khanh hiền hòa, hiếu khách và vô tư; đối xử tốt với tất cả mọi người, nên bạn bè ai cũng nể nang thương kính.

Bà Khanh, tên con gái là Bích Chi, lấy chồng từ thuở hai mươi. Từ ngày lập gia đình đến nay đã bốn mươi năm, cái tên Bích Chi ít khi được nhắc đến, ngoại trừ khi gặp chị em ruột thịt hay bạn bè thân thiết củ. Mặc dầu vậy, bà Khanh vẫn thích được người ta gọi mình bằng Bích Chi, vì cái tên đó thường hay nhắc nhớ thời niên thiếu, là những năm tháng êm đềm, tươi đẹp của người con gái trong trắng nơi chốn quê nghèo.

Lập gia đình với hai bàn tay trắng, nhưng với truyền thống cầu tiến trong thanh đạm, chất phác, cương trực và đoan chính của cha ông, hai người đã tạo nên được một sự nghiệp đáng nể, do chính công lao của mình. Đó là sáu người con: hai gái, bốn trai. Tất cả đều ngoan ngoản, hiếu thảo và lễ độ và yêu thương mọi người, mọi vật theo gương đạo đức của song thân. Trên phương diện tài sản thì cho đến năm 1975, họ đã tậu được ba căn nhà ở Huế, Qui Nhơn và Saigon. Ngoài ra, họ cũng là chủ nhân của một đồn điền mía tại Krong Pha, mà chỉ mới mùa mía đầu tiên họ đã thu lại số vốn đã xuất ra. Đó là của nổi, còn của chìm thì ai mà biết được. Trên phương diện tín ngưởng thì đây là một gia đình có căn bản đạo đức đáng ngưỡng mộ. Oâng bà Khanh vẫn niệm kinh mỗi buổi sáng, đi chùa đều đặn; các cậu con trai hằng tháng vẫn giữ chay mười ngày mặc dầu đã có gia đình, ngoại trừ cậu út; riêng hai cô con gái thì lấy chồng là người công giáo nên họ theo đạo Chúa với sự thông cảm của gia đình, mặc dầu ông Khanh không kém nghiêm khắc về lễ giáo.

Trong biến cố 30-4-1975, gia đình này đã có đủ phương cách để xuất ngoại, vì ông Khanh đã là nhân viên của sở Thông Tin Hoa Kỳ. Thế nhưng họ đã không đi được vì hai người con trai lớn đang ở vào tuổi động viên, cái tuổi tai hại khiến cho cả gia đình không đành ra đi để lại hai con, mặc dầu họ đã trưởng thành. Trong thời gian ở lại với chế độ cộng sản, ông bà Khanh cũng đã ra công đấu trí để chống đỡ những đòn thù của cộng sản đối với dân miền Nam. Riêng bà Khanh thì quyết tâm bảo bộc gia đình như mẹ gà che chở đàn con trong đôi cánh tuy mong manh nhưng hữu hiệu của mình. Tình mẫu tử đã biến một người đàn bà yếu đuối thành một anh thư mưu lược, can đảm và khí phách trong việc chuẩn bị và vượt biên, đưa toàn gia đình đến bờ tự do, mang theo một số bà con, bạn hữu mà không đòi hỏi một phí khoản nào.

Ở đời, lắm khi ở hiền mà không gặp lành. Nhưng trong trường hợp này quả thật ở hiền thì gặp lành. Ai đã từng vượt biên, dù có thành công hay không, đều biết rõ cảnh mất còn chỉ cách nhau trong đường tơ kẻ tóc. Từ việc tránh né mạng lưới công an canh phòng cẩn mật, đến lúc chống đỡ phong ba bão táp vô tình ngoài biển khơi, chưa kể tình trạng đói khát hoặc có thể gặp nạn hải tặc. Cho đến khi, dù có được lên bờ thì cũng gặp lắm thủ tục rắc rối. Họ đã chấp nhận ra đi và đã đến bờ tự do.

Nhớ lại lúc tàu mắc cạn giữa đêm khuya, tất cả thanh niên đều nhảy xuống biển phụ nhau đẩy tàu, may mà tàu ra được khỏi cạn, mọi người leo lên tàu tiếp tục hành trình trong niềm hân hoan. Nào ngờ khi nhìn lại đàng sau, bà Khanh bắt gặp một chấm đen nhấp nhô trên làn sóng, lòng sanh nghi, bà cho kiểm điểm lại mới thấy thiếu một người, mà người đó chính là cậu Dũng, con mình. Nhờ đó mà tàu quay lại vớt cậu lên để ngày nay gia đình ông bà Khanh hằng ghi nhớ ơn cứu độ của Trời Đất đối với gia đình mình. Nếu không thì hôm nay đã phải khóc thương cho một người con bạc phước. Cậu Dũng nay đã thành công trên đường học vấn và cũng vừa lập gia đình với một người vợ hiền trong ngày qua. Ngày ấy không những là ngày trọng đại của đôi uyên ương Loan-Dũng mà còn là ngày đáng ghi nhớ của mọi người trong gia đình.

Hôm nay, trời trong sáng, gió thu rung nhẹ cánh hồng, bà Khanh ngồi ngắm hoa mà lòng hướng về dĩ vảng. Những hình ảnh từ con sông, cái hoái, từ đường cái quan đến ngả ba cuối xóm, từ Thượng Tứ đến Văn Lâu, các địa danh như Quảng Trị, Mỹ Chánh, Đà Nẳng, Qui Nhơn, Saigon, Cần Thơ…là những nơi mà đường đời đã dẩn qua, cho đến một cuộc vượt biên thí mạng. Nay được thanh thản ngồi đây hồi tưởng. Trăm ngàn hình ảnh đỗi đời khó tưỡng , ngổn ngang quay lại.

Sống trên phần đất tự do này, con cái thành nhân, gia đình đoàn tụ là một đặc ân mà bao người mơ tưởng. Nhìn lên thì mình quả không bằng ai, nhưng nhìn xuống thì mình vẫn còn hơn nhiều người. Thế nhưng bao công lao xây dựng trong bấy lâu nay bổng dưng hoàn tay trắng, làm sao không chạnh lòng người cô thế. Cuộc đời mong manh như cảnh phù vân. Bao nhiêu công sức tạo dựng mà không giữ nổi, khiến nay có mai không. Còn chăng là một gia đình đầm ấm với tình sâu nghĩa nặng, là những chuổi ngày niên thiếu trong tuổi dậy thì nơi quê mẹ.

Ngày đó, người ta gọi mình là Bích Chi, tên con gái lúc chưa lấy chồng, cái tên gắn liền với nơi chôn nhau cắt rốn. Tuy nay sống tại Thung Lũng Vàng, thuộc một quốc gia có thể gọi là tân tiến nhất thế giới, nhưng bà Khanh luôn luôn tưởng nhớ tới nơi đã sinh ra và lớn lên tại một thôn dả xa xôi, cách nơi đang tạm dung này đến nửa vòng trái đất. Làm sao quên được ngôi nhà lá bên xóm đường quan của một đại xã thuộc huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, cách thành phố Huế khoảng tám cây số về phía Đông, nơi đây đã cùng cha mẹ, anh chị em chung sống, trải qua những ngày êm đẹp nhất của cuộc đời.

Làng có mười bốn xóm, nhưng xóm đường quan quan trọng hơn cả. Không những đây là đường giao thông huyết mạch của dân làng mà còn là của tất cả mọi người ở các làng lân cận. Những dân ở các làng dưới như Qui Lai, Kim Bòng, Vĩnh Lại, Vĩnh Lộc, Lại Aân, Triêm Aân muốn lên thành phố Huế, hoặc những dân làng trên như Tiên Nộn, Vọng Trì, Thanh Tiên muốn về cửa Thuận An đều phải băng qua xóm đường quan này vì đây là đường bộ lưu thông độc nhất cho cả xã, gồm nhiều làng. Thứ đến xóm đường quan lại có nhiều nóc gia nhứt của một số đông thân hào và chức sắc trong làng cư trú. Trong số đó có một Lý Trưởng, hai ông Bộ Hộ Tịch, ba ông Bác Phẩm, ba ông Cửu Phẩm, một ông Thập, hai "chuyên viên" là hai ông thợ mộc và hai nông gia. Các xóm khác có những "nhân sĩ" tước vị cao hơn như Hường Lô Tự Khanh, Lãnh Binh, Lục Phẩm và Thất Phẩm nhưng nhân khẩu lại ít hơn.

Ngoài ra, xóm đường quan còn có một "xưởng kỹ nghệ" là một lò rèn ở sát ngã ba cuối xóm. Nơi đây là trục giao thông của ba hướng, lên thành phố Huế, về chợ Sình, Lại An và qua chợ Nọ, Dương Nổ. Đầu xóm đường quan có cái cầu Sắt bằng bê tông cốt sắt, bắt ngang con hoái đào (lạch nhỏ) dọc phía Tây của làng, giáp với làng Thanh Tiên. Hai bên cầu Sắt là địa điểm "thương mãi" nhộn nhịp, gồm sáu tiệm chạp phô, một quán thợ bạc, một quán may, một tiêm hớt tóc và một "xưởng" làm kẹo. Đây còn là địa điểm dân chúng các làng tụ họp để vui xuân trong những ngày Tết, hay họp chợ khi chợ chính thức ở cuối làng bị mưa bão hay ngập lụt.

Nhà bà Khanh ở ngay xóm đường quan, nên gia đình bà biết mặt biết tên rất nhiều người ở các làng khác. Vì hầu như ngày ngày cũng chỉ những khuôn mặt quen ấy qua lại hai lần, xuôi ngược buôn bán để mưu sinh. Riêng bà Khanh khi còn nhỏ, ngày ngày năm bảy lần, cũng sử dụng đường cái quan này để đến chợ hay cầu Sắt mua sắm những vật dụng cần thiết do cha mẹ sai bảo, hay vui đùa với các bạn bè ở cuối xóm. Và khi lớn lên, chân bà Khanh cũng đã trở thành chai sạn bởi hằng ngày phải dẫm lên mặt đường cái quan kia với đôi vai nặng trĩu vì quang gánh thóc lúa, rơm rạ hay hàng hóa trong những năm gia đình gặp khó khăn về kinh tế; mọi người đói khổ vì giặc giã. Bà Khanh thường tự bảo, hồi đó tuy nhọc nhằn nhưng lòng vẫn cảm thấy vui, vì lúc ấy gia đình đoàn tụ, cha mẹ, anh chị em đầy đủ. Nay tuy có cuộc sống sung túc hơn, nhưng phụ mẫu đã ra người thiên cổ, còn anh chị em mỗi người mỗi nơi, đứa ở Mỹ, kẻ ở Canada, bốn anh chị em đang còn kẹt lại quê nhà. Đối với các anh chị em, bà Khanh thương yêu nhất người em gái út. Mỗi lúc nhớ tới người em thân yêu này, lòng bà quặn đau. Trong lúc các anh chị em lớn đều lập gia đình, chỉ bà Khanh và cô em gái út còn độc thân, nên hai chị em càng yêu thương và gắn bó nhau hơn.

Nhớ lúc còn nhỏ, vào những ngày Tết Nhứt hay hội hè, thường cùng em là Bích Yêm, hai chị em se sua trong bộ áo quần mới, cổ đeo kiềng bạc, chân đi guốc quai xanh đỏ, nắm tay nhau cùng đi đến cầu Sắt là nơi tụ tập của dân chúng các làng để cùng hòa mình vào cuộc vui Xuân, hoặc đi theo các đám rước từ đầu đến cuối làng trong những dịp tế tự hằng năm. Thích thú nhất là được ngắm các bô lão mặc những quốc phục đặc biệt thụng xanh, các trai tráng vận những áo quần dấu đỏ, chân quấn xà cạp đủ màu, khiêng chiêng trống hoặc cầm cờ đuôi nheo ngủ sắc. Đoàn rước nghiêm chỉnh tiến bước rập ràng theo tiếng chiêng trống hay tiếng hô lệnh của một vị bô lão. Cuộc rứơc kiệu được chấm dứt khi đoàn ngoài đã đến Văn Thánh, là ngôi đền tế tự của làng, được xây cất ở cuối làng. Giờ đây mọi người, cờ xí lọng tàng và chiêng trống được đem vào bên trong đền và cuộc tế lễ chính thức mới bắt đầu và diễn tiến qua đêm cho đến ngày hôm sau. Trong lúc các bô lão và chức sắc đang bận hành lễ, thì một số dân làng, đa số là thanh niên, thiếu nữ và trẻ con vui đùa ở chợ cạnh ngôi đền, vì ngày này cảnh chợ tấp nập nhất trong năm. Dân chúng các làng kế cận đến họp chợ rất đông đảo, một phần họ đến đây để xem tế tự, nhưng phần chính là xem "hát bội" do đoàn hát dân dả của mấy anh em gia đình họ Đinh, Khai, Đó, Lài trình diễn.

Bà Khanh cũng không thế nào quên được những năm 1946, 1947 khi những người lớn hăng say lên đường chống Pháp. Lúc ấy, bà ở tuổi 13, 14, tóc để đuôi gà, sau đó mới cắt ngắn thành tóc "Búp Bê", ở lại thôn xóm cùng gia nhập đoàn thể Thiếu Nữ, tham gia các công tác vệ sinh, làm đẹp sạch xóm làng và công tác văn nghệ mua vui cho dân làng. Chính ở ngã ba cuối xóm là nơi tụ tập hằng đêm của các đoàn thể Thanh Niên và Thiếu Nữ để "trình diễn văn nghệ. Nói cho văn vẻ chứ thật ra là chỉ để đồng ca với nhau những bản hành khúc hay diễn một vài vỡ hài kịch giải trí cho dân làng. Một vỡ kịch ăn ý nhất hồi đó là vỡ kịch "Vô Lý và Hiện Ngụy" do hai anh em nhà họ Trần, người cùng xóm, phụ diễn. Bà Khanh nhớ mãi, vì vai chính là một chàng trai 16, 17 tuổi thủ diễn. Chàng ta người nhỏ thó, mặt mày non choẹt, trông dáng hiền lành nhưng diễn xuất rất hay và nhất là có lối đối đáp rất lém lỉnh khi kịch cương hay bí lối.

Bà Khanh mĩm cười với sự nhận xét con nít ngộ nghĩnh của mình khi nhìn lại trong gương, thấy tóc nay đã hoa râm; nay đã là bà nội, bà ngoại rồi, thì chắc rằng những người thanh niên kia lớn tuổi hơn, người mất người còn, gia đình họ có lẽ đùm đề hơn. Và nghe đâu chàng trai "kịch sĩ" kia nay đã làm "chức to" rồi, hoạt động xã hội và bác ái rất hăng say. Thế mới biết thời gian qua rất nhanh.

Cuộc đời của bà Khanh và gia đình cũng năm chìm bảy nổi như hầu hết những gia đình tỵ nạn Việt Nam khác. Nhưng tâm hồn bà phẳng lăïng trong gần nửa thế kỷ qua, sống đầm ấm bên chồng con và cháu chắt. Bổng nhiên, trong thời gian gần đây, lòng bà Khanh hết sức xao xuyến vì vừa được tin tức của người bạn trẻ năm xưa, kẻ đã để lại trong lòng bà một vết thương, cho đến giờ phút này bà vẫn không hiểu được nguyên do. Và hầu như bà đã quên hẳn sau khi bước lên xe hoa.

Tiếp đến, bà nhận một gói quà. Lòng hồi hộp, hai tay run run vừa mở gói quà, trong lúc mắt bà chăm chú nhìn vào địa chỉ ghi ở ngoài. Đó chỉ là gói kẹo "mè xửng", món quà hết sức tầm thường nhưng đầy ý nghĩa, đã gợi lên biết bao kỷ niệm thời thơ ấu, khi hai người mới quen nhau, sống ở xứ Huế, quê nghèo.

Những năm tháng chiến tranh, cơm ăn không đủ no, áo mặc không đủ ấm, còn dư tiền đâu để ăn vặt; thế mà thời gian chàng học Pellerin ở luôn nội trú, thỉnh thoảng về thăm nhà, thường mua kẹo mè xửng này biếu bà, là món kẹo bà thích nhất. Tình cảm giũa cô thôn nữ tuổi 14 và chàng học sinh tuổi 17 diễn tiến một cách hồn nhiên và hết sức tốt đẹp. Rồi vì thời cuộc chiến tranh, chàng gia nhập Không Quân và du học nước ngoài; kể từ đó mất liên lạc luôn, trong lúc bà vẫn ở lại hương thôn mõi mòn trông đợi. Cuối cùng, ai đành yên phận nấy với bề gia thất suốt năm mươi năm qua.

Vì lịch sự xã giao và cũng để tỏ chút tài mọn về gia chánh, chính tay bà đã làm hai món ăn Huế đặc biệt, là chả lụa và nem chua, gửi biếu lại theo như địa chỉ đã ghi ở gói quà. Bà đã gửi bằng phương cách "gửi qua đêm" (overnight), để khỏi hư hại hai món ăn công phu này. Nhưng lý do chính là ước mong gói quà này đến tay người nhận sớm, để có thể nghe giọng nói xưa qua tiếng điện thoại.

Không những bà Khanh được nghe những lời cám ơn của người xưa, mà còn nhận được lời nhắn gửi sẽ đến thăm bà và gia đình bà trong những ngày tới. Tuy đã là bà nội bà ngoại, ngoài lục tuần rồi, nhưng trong suốt thời gian chờ đợi để gặp mặt, bà Khanh cũng hết sức hồi hộp. Ngày bà cùng chồng ra phi trường đón khách, bà Khanh rất bối rối, không biết phải ăn mặc trang điểm như thế nào. Nếu không được chồng nhắc nhở thì bà Khanh đã không nhận ra được người bạn củ thời niên thiếu. Vì thời gian cách biệt quá lâu, hình dáng quá thay đổi. "Chàng" nay là một ông cụ già, tóc bạc phơ, đi đứng bệ vệ, ăn nói chững chạc, khác hẳn năm xưa. Duy chỉ còn giọng nói không mấy thay đổi. Nay cùng ngồi một xe mới hay là người quen biết. Giả dụ rằng, nếu có chạm trán nhau ngoài đường, cũng chỉ nói lời xin lỗi rồi quay đi như người xa lạ. Suốt lộ trình từ phi trường về đến nhà, bà Khanh hết sức thắc mắc về sự thay đổi hình dáng bên ngoài của người bạn củ; vì lịch sự, thay vì hỏi thẳng, bà đã hỏi về mình có gì thay đổi về diện mạo. Bà được trả lời rằng không, "vẫn như xưa". Một câu trả lời giản dị nhưng chứa đựng biết bao ý nghĩa, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Vì hiểu ý trêu chọc nhau nên cả ba cùng cười xòa.

"Chàng" dự tính đến thăm bà Khanh cùng chồng và gia đình, rồi đến trọ qua đêm tại nhà một người bà con. Nhưng ông bà Khanh đã khẩn khoản mời ở lại tại nhà ông bà hai hôm, để có dịp hàn huyên và để giới thiệu các con cái và cháu chắt ở quanh quẩn trong vùng.

Nhân dịp này, nỗi lòng thắc mắc giữa "chàng và nàng"(ông cụ và bà cụ thì đúng hơn)ôm ấp bấy lâu, nay mới có cơ được giải tỏa. Bà Khanh muốn biết nguyên do vì sao ngày ra đi, "chàng" đã không có một lời hẹn ước. "Chàng" giải thích , vì đã chọn làm người lính Không Quân, đời sống hết sức bấp bênh, sống rày, chết mai, nên không dám có lời hẹn ước, sợ sẽ để khổ lụy cho nhau. Chuyện hôn nhân sẽ tính liệu sau. Nhưng sau khi tốt nghiệp từ ngoại quốc trở về, nghe tin "nàng" đã có chồng. Tuy "chàng" thất vọng nhưng cũng mừng vì nay "nàng" đã có nơi nương tựa và gia thất đầm ấm. Còn "nàng" thì bảo, vì ngày ra đi "chàng" đã không có lời hẹn ước, cũng không nói rõ thời gian xa cách;"nàng" mõi mòn trông ngống, cuối cùng phải vâng lời cha mẹ bước lên xe hoa. Lý do giản dị chỉ có thế. Nhưng bấy lâu nay bà Khanh mang nặng tự ti mặc cảm, cho rằng "chàng" không muốn kết hợp vì môn đăng hộ đối về gia thế và học vấn.

Những ngày tháng sau đó, bà Khanh sống rất yên vui vì nỗi u uất trong lòng đã được giải tỏa, như vừa cất khỏi gánh nặng ra khỏi bờ vai. Oâng bà Khanh dự định đến thăm người bạn già này vào dịp hè năm tới. Nhưng hôm trong năm, gần Tết, ông bà Khanh đột ngột nhận được tin người bạn già này đau nặng đang nằm điều trị tại nhà thương. Và chỉ trong một thời gian rất ngắn, ông ta đã qua đời.

Trong những lúc riêng tư, bà Khanh đã có những giây phút chạnh lòng nhớ tới người bạn trai năm xưa. Nhiiều lần bà tự hỏi "Tại sao lại còn gặp nhau sau gần năm mươi năm xa cách biền biệt? Đáng vui hay đáng buồn?" Vui buồn lẫn lộn. Nhưng chuyện gặp mặt lại đối với bà Khanh là một niềm an ủi vô biên vì những điều thắc mắc trong lòng bà bấy lâu, nay đã được giải đáp thỏa đáng, bà Khanh không còn nghĩ ngợi mung lung nữa, và nhận thức rằng "hôn nhân không thể cưởng cầu", cũng có thể nói cách khác là duyên số. Ngay cả việc người bạn củ ra đi về miền vĩnh cửu cũng do số Trời. Hơn nữa, ra đi vào lứa tuổi trên sáu mươi cũng là sự việc đương nhiên. Chúng ta phải chấp nhận thực tế.

Rồi bà Khanh quay về hiện tại với một mái gia đình đầm ấm, con bầy cháu đống, là những gì quý báu nhất Trời đã ban cho bà. Còn chuyện cảm tình thời niên thiếu, ở tuổi dậy thì, chẳng qua là một chút thi vị của cuộc đời mà thôi. Bà Khanh quay nhìn ra ngoài, ánh nắng dịu hiền gần tắt, báo hiệu một ngày sắp qua. Giờ này con cái làm việc sắp tan sở, ông Khanh đi đón các cháu sắp về, bà vội vàng đứng lên, không còn nghĩ vẩn vơ nữa, vào nhà bếp chuẩn bị nấu ăn. Vì nay bửa cơm chiều đối với bà rất quan trọng, là dịp sum họp của mọi người trong gia đình. Đây cũng là một phương cách hữu hiệu bảo vệ hạnh phúc gia đình và thắt chặt giây liên kết giữa các thế hệ trong một gia đình, ông bà, con cái và cháu chắt, nên không thể chểnh mãng được. Biết bao gia đình tỵ nạn khác muốn có một gia đình đầm ấm, hạnh phúc như vầy mà không được. Nghĩ tới đây, bà cảm thấy hân hoan, bắt tay vào việc một cách vui vẻ. Bà chỉ nghĩ làm sao nấu ăn thật ngon để được nhìn thấy những nét mặt vui tươi của chồng con và tiếng líu lo cùng khua chén bát của cháu chắt trong lúc quây quần bên các bửa cơm gia đình.

Hoa Đá