BẠN GIÀ
htth

Tình bạn, hay tình bằng hữu, xuất phát từ sự giao lưu tình cảm trong xã hội giữa những người không thuộc gia đình, có thể trong vòng bà con, trong số anh em cùng sống thời niên thiếu trong một vùng nào đó, khi cùng học một trường, khi đi chơi thể thao… Ra đời, còn có bạn đồng nghiệp. Vào tù thì thêm bạn tù. Làm ăn cũng có được bạn cùng kinh doanh tin tưởng với nhau. Ai cũng muốn có thêm bạn, và ai cũng sợ mất bạn. Nhất là về già, chẳng những số bạn càng hiếm hoi, mà các bạn già thường bỏ ta đi về bên kia thế giới mà nhiều khi không báo trước.

Khi còn nhỏ, ở bậc tiểu học, tôi sống trong một xã có ít người trong thân quyến, nhưng có rất nhiều bạn. Ngày ngày, sau khi tan học, chúng tôi chơi tán u, bắn cu-li, bắn chim, câu cá, và nhất là đá banh. Mỗi trò chơi cho tôi một số bạn riêng. Tấm sông cũng là một cái thú. Chẳng những lội được mà còn lội được xa, lặn được lâu, nhảy từ cầu bắt ngang sông xuống sông. Vì còn bé, chúng tôi ở trong thôn quê, không có cái lịch sự mà ngày nay các trẻ con thường được cha mẹ dạy bảo, nên chúng tôi trần truồng như nhọng, cả nam lẫn nữ. Sau này, khi đã lớn, gặp lại mấy chị, gợi lại hồi nhỏ mình cùng tấm sông, vui đáu để. Khi tuổi quá năm mươi, tôi trở về làng củ, gặp lại bạn hồi còn học lớp ba trường làng, thì than ôi, nhiều người đã ra đi, người thì đã trong hàng ngủ "cách mạng", họ đã chết vì chiến tranh, có thể cũng vì bom đạn do tôi thả xuống. Có người cũng đã từng đi tù như tôi, nay phải đi trình diện ở quận hàng tháng. Có người thuộc gia đình liệt sĩ của CS vì nhờ con đã chết nay được nhà nước CS ưu đãi. Người thế này, người thế khác, nên những người bạn năm xưa, nay gặp nhau không chém giết nhau cũng là điều may mắn rồi, có đâu mà tâm sự.

Khi vào trung học ở tỉnh lẽ, tôi cũng được một số bạn. Thay vì tấm sông nhỏ ở xã, tôi lại thích vướt sông Cửu Long qua bên kia cù lao. Đôi khi vào lúc nước rông, mặt sông như mênh mông rộng, nước chảy siết, nhất là lúc ta nhìn vào bờ khi ra đến giữa sông. Chẳng có mấy bạn giám theo tôi phiêu lưu qua Cồn Rồng để hái bần, lặn xuống mấy xác tàu Tây bị chìm hồi đệ nhị thế chiến để mò tôm, bắt tép, bắt cá. Thích sống cuộc sống hoang giả dường như do hoàn cảnh sớm đã mồ côi cha. Nhớ cha khi còn đã luyện tôi nên tự lực cánh sinh dù nhà thuộc gia đình khá giả. Do đó, tôi chỉ thích sống với những bạn giám làm giám chịu, thích mạo hiễm, cái gì cũng thích thử để biết, biết sông dài sông rộng, và mỗi lần đã vượt được mình, đó là lúc chúng tôi vui thích nhất. Lẽ dĩ nhiên, lúc nào mẹ tôi cũng căn dặn, chọn bạn mà chơi, gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Theo các bạn chơi thể thao, nhiều người đáng bậc cha chú mình, nhưng đó là những người bạn đồng đội, đánh quần vợt, đánh bóng chuyền, và đội của chúng tôi lúc nào cũng vui vẻ, nhớ nhau khi thiếu một tên. Có người làm thầy giáo tiểu học, có người làm sở điền địa, có người làm tóa bố… Đó là những người bạn thích lối sống lành mạnh, chơi cho đỗ mồ hôi, xong rồi về nhà tấm rửa, ăn cơm chiều. Đi học thì xóm của tôi có mấy bạn vào trường cùng đi theo một con đường. Aên mặc giản dị, quần short trắng hoặc xanh dương, áo sơ mi trắng, chân đi guốc. Chúng tôi lếch guốc ngoài đường làm trên đường mà chúng tôi đi ngang qua, ai cũng biết là bọn tôi đã đi qua là mấy giờ rồi. Theo sau là lủ con gái cười nói ồn ào, ngày nào cũng tấp vào cái đuôi của bọn tôi. Rồi thằng này nói con kia nó theo mầy, thằng kia nói nó theo tao…Vào trường, chúng tôi vào cửa trước, còn cửa sau thì dành cho giáo sư. Một hôm, thằng Yêm đứng ngay cửa sau mà dương ná bắn chim nhắm lên cây có con cu đang đứng gáy. Ngay lúc đó giáo sư Nghĩa bước vào trước mặt mà nó không hay biết. Bổng:"Trò bắn tôi hả?".-"Thưa thầy, không!" Rồi nó rón rén theo thầy vào lớp, làm chúng tôi cười một bửa no nê. Lên năm thứ Tư Trung Học, má tôi cho tôi vào trường ở nội trú, vì đó là năm thi Thành Chung (diplôme). Vào đó, tôi lại thêm một số bạn. Là nhạc sĩ Anh Việt viết bài Bến Củ ban đêm, thỉnh thoảng nghe tiếng guitar của anh lở to tiếng thì chúng tôi lại "suyệt" một hồi dài. Nhớ thầy gác vẫn nhu mì nằm yên không nói, thầy đó là cha của chuẩn tướng Trần Bá Di (TLSĐ9BB) sau này. Bạn bè Trung Học của tôi còn nhiều. Có anh Dương Kích Nhưỡng tốt nghiệp về Thủy Điện ở Grenoble, về làm Tổng Trưởng Công Chánh, và lúc làm đập Danhim, tôi chắc là anh ấy đã có dịp thi thố tài năng. Như Anh Việt thì sau cũng leo lên được CHT/Quân Cụ. Còn anh Trường là người nằm cạnh tôi cũng lên được Tổng Trưởng Giáo Dục. Các bạn khác thì vô số bác sĩ, dược sĩ,nha sĩ…. Khi đã vào Không Quân, có hôm tôi về thăm một thầy dạy tôi hồi tiểu học, gặp thầy nay đã là hiệu trưởng trường Trung Học, trẻ nhất nước. Oâng nói với tôi:"Thầy có hai đứa học trò mà thầy thương. Nhưng nay thì trò bên này, trò lại bên kia". Thầy ám chỉ anh Sự đã đi theo CS và dường như đang hoạt động tại Saigon. Cũng có thằng bạn thích đá banh ba da vào buổi trưa, trước giờ vào lớp ở tiểu học, nay nó là HSQ dưới quyền của tôi. Có nhiều bạn mà chỉ lên đến 30 tuổi, chúng tôi đã không còn thân nhau nữa, vì nghề nghiệp, vì xu hướng chính trị. Lâu lâu có dịp họp Liên Trường (Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký, Collège de My Tho, Collège de Cần Thơ), chúng tôi thường trêu nhau,"chó cò "(collège de Cần Thơ) hay "chó mực"(collège de My Tho). Nhớ có lần, thầy Lược đứng lên phát biểu:"Tôi tham gia buổi họp hôm nay với tư cách học trò củ". Chừng đó tôi mới biết là thầy trước kia cũng học cùng trường với mình. Có một bàn toàn các anh lớn tuổi cở anh Nguyễn Văn Ba (TMP/NV), toàn là dân biểu quốc hội cùng ngồi chung với anh, ghê quá. Thật không dè, anh ấy cũng học cùng trường và trước tôi đến 4 lớp.

Nhưng những bạn củ mà tôi nhớ nhiều nhất là anh Trương Cao Đức, nay hồi hưu ở Pháp sau khi giao sự nghiệp Nha sĩ lại cho các con của anh. Vì chúng tôi cùng luyện thi với nhau, hết brevet và diplôme rối tới Bacc 1ière partie. Đêm nào cũng được má anh cho ăn bột khuấy sửa để lấy sức mà học. Học cho đến buồn ngủ quá, chúng tôi ngã ra ván mà ngủ. Còn một tên nữa cũng như Đức đã vào KQ là thằng Kè, con của một thầy gác (surveillant) trong trường, tên thật của nó là Đinh Thái Nguyên, học vô tuyến phi hành, và chết vì bệnh óc. Vào tù, tôi lại gặp hai anh bạn khác nữa cũng đồng môn hồi trung học, đó là anh Huế và anh Bằng. Sang Mỹ thì còn được một số anh gọi điện thoại hỏi thăm khi tôi vừa được định cư ở Mỹ, đó là các anh Trương Bảy, anh Tòng, anh Hòa, anh Đức, anh Thọ. Không may là chúng tôi đều ở xa nhau ngàn dậm.

Tôi cũng có lên Yersin ở Dalat để học năm cuối cùng của Trung Học. Ở đây, tôi cũng giữ nhiều kỷ niệm bạn bè. Tôi nhớ các anh vì mỗi người có một cá tính hay hay. Anh thì như thi sĩ, lúc nào cũng mắt nhìn xa xâm, miệng lẩm bẩm như ôn lại vần thơ của Lamartine, Musset, hay Vigny gì đó. Còn có anh thì chỉ thích đánh nhau. Người mà tôi phục nhất là Bửu Đôn, sau cũng làm Tổng Trưởng Công Chánh. Trong hai trường trung học mà tôi đã qua, trường nào tôi cũng chỉ phục một người giỏi toán, đó là anh Nhưỡng và anh Đôn. Dĩ nhiên rất nhiều người giỏi hơn tôi, nhưng tôi chỉ phục hai anh mà tôi coi là dễ nể. Không giống như trường trung học trước, ở trường này tôi đã có cái nhìn khác hơn với phái nữ. Ở trường trước, các chị đều lớn hơn tôi, và sau này có đến ba cặp lấy nhau mà toàn bạn cùng lớp, đó là Bê, Khương và Huế. Còn ở Yersin, cũng nam nữ học chung, nhưng các em ở các lớp dưới họ có vẻ cởi mở hơn, nở nang hơn và dường như đẹp hơn vì cái nhìn của tôi đã khác hơn. Tôi nhớ có lần tôi ra nhà anh Quảng Ninh (anh của nha sĩ Quảng Định) để ở nhờ, hầu sáng sớm hôm sau có xe đến đón về Saigon. Lên xe vào khoảng 3 giờ sáng, trời Dalat lạnh, sương mịt mù, nên tôi ngủ nán một giấc. Khi thức dậy thì tôi lấy làm ngượng ngùng mà thấy người ngồi ghế bên cạnh tôi là một nàng mà tôi thầm ưa thích. Cô cười mĩm với tôi và hỏi tôi ngủ có ngon không. Làm mình ngượng muốn chết. Vì tôi ở trong đội thể dục biểu diển của trường mà cô ta cũng vậy. Trong lúc đội ra biểu diễn ngoài chợ Dalat, tôi ở thế chân thẳng cao hai tay chống đất, thì mắt tôi lại hướng về nàng hai đùi bẹt ra và ngữa mặt về hướng bên kia. Đúng là những phút hành hạ người tôi. Nhưng bây giờ thì chúng ta ngồi cạnh nhau rồi. Nhưng không biết trên xe về Saigon có bao nhiêu là học sinh đống cỡ, với cô hoặc với tôi, nên chúng tôi chỉ nói bằng "bút đàm". Nàng hỏi:"anh có khát không?" Tôi nghe như mật rót vào tai, dù nàng chưa hề thốt ra thành tiếng. Nhưng nói sao đây, có hay không? Có thì sao, còn không thì sao? Tôi bèn viết lại, bảo cô để tay xuống bên cạnh rồi biết. Cô không ngần ngại để xuống, và tôi nắm bàn tay dịu mềm đó rất lâu. Xong, cô rút tay nhè nhẹ, và lột cam tách múi nhỏ mời tôi. Rồi chúng tôi tiếp tục bút đàm suốt thời gian dài về Saigon. Chừng lấy hàng trên xe xuống, tôi nghe gọi tên cô và thấy một rương gổ to từ trên mui được người phu dùng giây thòng xuống, tôi bèn ra tay nghĩa hiêïp để đón lấy cái rương. Cô nói nhỏ, nhờ anh giúp, nhưng coi chừng nặng lắm. Đã hy sinh vì người đẹp thì còn ngại gì nặng hay nhẹ. Khi anh lơ xe buông thỏng giây thì tôi ôm cái rương như bắt bóng trên sân cỏ, nhưng đây thì lại giống như lực sĩ dỡû tạ mà mặc đồ Tây, nên một cái "bực", đứt sợi giây thắt lưng. Cô cười mà tội nghiệp cho tôi. Nhà cô là một tiệm bán sơn mày ở sau chợ Bến Thành. Từ đó, tôi chỉ thỉnh thoảng nhớ đến cô em nhỏ, mà suốt thời gian trung học tôi chưa từng nhớ đến một người con gái nhiều đến như vậy. Sau này, nghe đâu cô cũng tình duyên trắc trở, cũng vài đời chồng. Nhưng các bạn củ của trường theo dõi tôi mãi cho đến khi tôi sang Mỹ. Và bây giờ, có bạn cũng rất gần tôi, chỉ vì tôi có cùng điểm giao khác với anh ta. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng có gặp lại nhau, nhưng không phải đểû nói những kỷ niệm của trường, mà giúp đỡ nhau trong cuộc sống hiện tại. Vì tôi xấu số, lúc nào cũng lận đận hơn nhiều người khác.

Khi bước chân vào binh nghiệp, tôi lại được thêm nhiều bạn mới. Bạn Việt Nam toàn những người cùng cảnh ngộ, gia nhập Không Quân để được đi Pháp xuất ngoại học nghề, tránh được tạm thời trực tiếp với chiến tranh khốc liệt, tan thương. Học chung với mấy thằng Tây con, không có cái tác phong thực dân của mấy thằng bạn Pháp ở trường trung học Yersin, cởi mở, vui vẻ, hồn nhiên. Chúng tôi phấn đấu với chương trình huấn luyện, với cán bộ nhà trường, với lủ bạn khóa trước đang luôn luôn dẫm trên đầu trên cổ chúng tôi. Rồi chúng tôi cũng đến ngày xa cách nhau, may mà không gặp nhau trên chiến trường, mỗi đứa một phe, chém giết lẫn nhau. Đến ngày tôi ra khỏi trại tù, liên lạc lại với những bạn Pháp mà tôi đã quen thân, báo tin tôi vẫn còn trên thế gian này. Bạn có biết, bao nhiêu thơ từ thăm hỏi, rồi tiền đâu từ hội ái hữu của trường lại đến với tôi trong lúc tôi không còn gì, vợ con vất vả kiếm ăn trong công việc đồng áng. Làm sao người ta hiểu được những tình cảm nhỏ nhoi giữa chúng tôi. Đứa thì cho quà, đứa thì chạy cho tôi được định cư sang Pháp. Có đứa viết cho tôi một bức thơ làm tôi dật mình:"Mầy có muốn thằng Bigeard đến thăm mầy hay không, vì nó sắp sang Việt Nam thăm viếng chính thức với tư cách Bộ Trưởng Quốc Phòng." Bạn đồng môn. Nay thì chúng có thái độ chính trị khác hẳn lúc còn đi học. Đứa thì đại diện cho một hãng sản xuất máy bay chiến đấu, đứa thì còn lái được đang lái Air Bus 300 thường xuyên ghé Saigon mỗi khi chở đồ viện trợ nhân đạo cho Cambodia. Trong số đó có anh Việt Nam là anh Bùi Văn Trạch, trước là thuộc hạ của tôi, sau đầu quân cho Pháp, được Pháp đào tạo lại cũng tại Trường Salon nhưng theo khóa xuất thân HSQ (Ecole Militaire de l’Air). Trạch cũng đã tìm xuống ruộng thăm tôi và thốt ra:"Có ai lại ngờ, un chasseur devenu cultivateur." Nhưng khi vào tù vì lý do nghề nghiệp này, tôi lại gặp ông bạn đồng khóa là anh M, anh bảo tôi tuy còn một lá phổi nhưng anh vẫn thấy khỏe lắm, nhờ sức chịu đựng mà "le piège" đã tạo dựng cho chúng tôi. Cũng trong tù, tôi được thêm nhiều bạn mới. Trước kia, làm sao gặp được các ông như Tổng Bí Thư các đảõng phái chính trị, các vị tổng bộ trưởng, các vị tư lệnh này nọ, các tỉnh trưởng. Có người biết tôi trước đây nhờ học cùng khóa Cao Đẳng Quốc Phòng, ngoài những người trực tiếp liên hệ qua các kế hoạch thảo chung với Bộ Tổng Tham Mưu. Bao nhiêu người tài ba, thao lược, đã tham dự nhiều trận đánh lẫy lừng, nhiều cuộc hành quân trong bóng tối, và rất nhiều người trước kia tôi không ngờ theo dõi tôi. Nhưng cũng có nhiều người nói lên chuyện củ trong quân ngủ, vì nay không còn gì để dấu, mà chỉ còn là chút tình bạn với nhau nên thổ lộ cho tôi những cơ mật trước kia, những cơ mật quân sự, quốc phòng, những cơ mật cá nhân, hận thù, va chạm trong quân ngủ. Có nhiều người bạn trước kia, nay thì chỉ im lặng không nói gì nữa, gặp nhau chỉ ừ hử qua loa, vì ngại VC nó phăng ra mà khai thác, như các anh Phòng 7 chẳng hạn. May cho tôi, không có ai trong số bạn hiểu biết tôi nhiều đã phản bội tôi. Mà đúng ra, tôi chẳng có gì phải sợ, vì tôi chỉ làm nhiệm vụ của một quân nhân, thi hành những gì cấp trên giao phó. Quan trọng nhất khi đi tù,người ta không ngại cai tù bằng những người tù mà mình không thích sống chung. Những người tù vì quyền lợi riêng tư mà bán rẻ mình. Do đó, tôi còn nhớ một người bạn cùng học trung học với tôi đã gạt tôi lấy tiền của và lạm dụng lòng tốt của tôi để cho anh ta được hưởng ân huệ của nhà tù, may mà chưa đến độ hại đến bản thân tôi.

Sang định cư ở Mỹ rồi, con cái lớn khôn, tự lập , thành hôn, chúng tôi thêm một số bạn khác theo phong tục người mình, đó là bạn suôi gia. Oâng suôi gái lại gả thêm con gái khác lại làm suôi với một người khác nữa, và tôi đương nhiên trở thành suôi giây chuyền, lại thêm bạn. Hình thức bạn bè này, theo định nghĩa của Bác sĩ Nguyễn Ý Đức viết trong Tập San Y Tế tháng 5-2001, thì không được coi là bạn, vì bạn phải có những giao du thân mật, đồng cam cọng khổ,vv… chứ không có bạn giây chuyền. Nhưng theo truyền thống dân tộc của miền nam Việt Nam thì đây cũng là bạn. Kết suôi là vì con mà phải thân nhau. Aâu cũng là một giá trị văn hóa đang âm thầm ra đi theo nếp sống Aâu Mỹ.

Vậy thì mỗi người đều có bạn theo từng giai đoạn của cuộc đời. Vì hoàn cảnh, các bạn lần lượt ra đi tìm vận hội mới của họ, hay đã chết đi theo thời gian. Tính lại thì bây giờ chẳng còn bao nhiêu bạn, vì trong nghề của tôi, trong rất nhiều ảnh kỷ niệm trước đây, phần đông không còn người sống. Sống chết theo số mạng. Những người còn sống cũng có nếp sống khác hơn, vì cách biệt sang hèn. Tuy vậy, tôi rất đồng ý với Bác Sĩ Đức là nên tìm bạn mới. Vì bạn củ lần lần theo ông theo bà hết rồi. Có điều bà xã tôi không khi nào chấp nhận, là không thể có thêm bạn gái, và không thể có bạn là gái được. Tình nam nữ chỉ có một, chỉ có tình yêu, không thể có tình bạn như định nghĩa của nó. Vì vậy nên khi đi chung với bà xã mà có một nữ nhân nào cười mĩm với tôi thì bà truy ngay, anh quen bà ấy từ khi nào. Và cũng nhờ vậy mà lòng tôi được huấn luyện khi nhìn một góa phụ thì tôi nhìn qua lăng kính của người bạn của chồng góa phụ đó. Nói đúng ra là tôi thường có cái nhìn tự giác đó lâu rồi, vì tôi thương mến những chiến hữu cùng chết sống với tôi, do đó các góa phụ là sacrée , là sacred, là thiêng liêng… Cũng có nhiều bà vì quá xúc động, hay bám víu lấy mình để nhờ bả vai nghiêng đầu vào đó để khóc. Nhưng anh ấy đã mất lâu rồi, nay xin đừng ngả vào vai tôi mà khóc nữa, tội nghiệp lắm. Tôi nhớ khi còn làm ở BTLKQ, một hôm đứng ngoài hành lang nói chuyện với Thiếu Tướng TLP thì bổng ông biến mất nhanh như chớp. Tôi lấy làm lạ, tư hỏi sau ông lại tệ thế. Chẳng kịp suy nghĩ viễn vong thì đã thấy một chị bước lên thềm, cứ bám lấy vai tôi mà anh anh em em, kể lễ đủ điều. Té ra là anh Paul nhà mình chạy cái bà này. Nhắc đến Paul, đây cũng là một bạn già đã khuất.

Tóm lại, hãy trân quí những bạn già còn lại mà làm cho đời thêm tươi đẹp. Nếu có tạo bạn mới để trẻ trung hóa cuộc sống hơn thì nên tránh chọn bạn gái mới, đó là lời khuyên của bà xã tôi. Còn một điều mà quí vị chắc đã nghĩ thầm, tại sao không thấy đề cập đến người bạn đời thiêng liêng của tôi? Chỉ vì quá thiêng liêng nên khó nói!!!

htth

Home Page