Biển Aân Tì nh
Đào Văn Bình
Bài này được trích trong Tập San Hoài Bảo Quê Hương số 4 của Tổng Hội CSV/QGHC.
Tại bến xe đò nằm cạnh khu nhà lôøng chợ Gia Rai, Huy phân vân không biết mình nên về Saigon hay ra Phan Thiết. Sau tám năm tù phiêu bạt từ Nam ra Bắc, tưởng đã bỏ xác trên núi rừng Hoàng Liên Sơn, Huy mới vừa được thả ra từ trại tù Xuân Lộc sáng nay. Sau những thủ tục giấy tờ, khám xét, lên lớp rất rườm rà, vai khoác chiếc ba-lô vá bằng đủ loại mảnh vải, Huy thất thểu từ giã cái địa ngục trần gian mà chàng đã phải trải qua ba năm trời, kể từ khi di chuyển từ trại miền Bắc vào đây, để đi bộ ra cái bến xe này.
Tâm lý chung của con người sau bao năm tù tội, xa cách gia đình, vừa được thả ra là nôn nóng quay trở lại mái nhà xưa để nhìn lại những người thân yêu để vơi đi bao nổi nhớ thương. Thế nhưng hoàn cảnh của chàng không đơn giản như vậy. Khi chàng đi tù được ba năm, mẹ chàng lâm bệnh qua đời, và vợ chàng là Nguyệt đã ôm cầm sang thuyền khác. Ngôi nhà ở Tân Định mà mẹ chàng để lại, Nguyệt đã bán đi và như thế cuộc đời chàng bây giờ tựa như một con thuyền không bến, một cánh chim vô định. Chàng đã thoáng trong đầu ý định trở về Mỹ Tho để tạm nương nhờ bà dì rồi mọi chuyện tính sau. Nhưng chàng lại sợ một sĩ quan "ngụy" như chàng khó có thể sống nổi ở một tỉnh lẻ như thế với bao hận thù và bất trắc. Chàng ngồi thẩn thờ trên chiếc ghế băng ọp ẹp củ một quán cóc ven Quốc Lộ I cho đến khi có tiếng la oang oang của khách chờ "xe đò tới rồi kìa!" thì đầu óc chàng mới tỉnh táo trở lại. Và trong một phút giây chóng vánh, chàng dứt khoát quyết định phải ra Phan Thiết..
Quốc Lộ I Long Khánh-Phan Thiết sau tám năm hoàn toàn đỗi khác. Tất cả mọi người đều bộc lộ một vẻ âu lo ngơ ngác cũng như sự ngơ ngác của chính chàng. Sống ngay trên chính quê hương mình mà chàng tưởng chừng mình đang sống ở một hành tinh nào đó. Những quán cóc nghèo nàn mọc san sát hai bên đường, xen kẽ là trẻ em ngồi bán xăng lậu dài hai bên lề Quốc Lộ I làm chàng cảm thấy chua chát cho tương lai của thế hệ trẻ và của đất nước. Sau "giải phóng" và "cách mạng " về, người ta được tự do ăn độn, tự do vào tù, tự do măc áo vá—áo vá khoác lên những mảnh đời cũng đã rách nát vì khổ đau và bất hạnh. Người dân bây giờ còn khổ hơn cả thời kỳ chiến tranh khi bom đạn đe dọa mạng sống của họ từng giây từng phút. Không muốn nhìn cái bể khổ đó nữa, Huy nhắm mắt lại để cảm xúc của chàng bớt đau đớn, để chàng cảm thấy nhẹ nhõm hơn;và như một thói quen, những hình ảnh cũ lại hiện về giống như nó đã hiện về bao lần trong những giấc ngủ chập chờn.
Cách đây năm năm, tức là lúc còn ở trại tù Hoàng Liên Sơn, do tình cờ, chàng ở cùng chung một lán với một vị Trung Uùy tên Khoa quê quán ở Phan Thiết. Trong những ngàytháng tù khốc liệt vì đói này, người ta sẵn sàng liều mình bò ra ngoài vòng rào trại tù, mặc cho những trận đòn báng súng có thể trút lên mình sau đó., hoặc có thể bị bắn chết vì tội vượt ngục, cũng chỉ vì mấy củ sắn sống. Trong nỗi nhục nhằn và tử sinh kề cận đó, Khoa và Huy đã trở thành đôi bạn tù thân thiết gần như sống chết có nhau, chia xẻ với nhau từng củ khoai, từng bó rau tàu bay, từng hạt múôi. Sau khi được biết Huy đả có thời đồn trú tại Hàm Thuận, Khoa coi Huy như một đồng hương, như người em của mình vì năm đó Khoa hai mươi tám tuổi, còn Huy mới 25 tuổi. Trong những lần tâm sự, Huy kể hết chuyện đời mình, chuyện gia đình mình cho Khoa. Nghe xong, Khoa cười nửa đùa nửa thật nói:"Ba năm không thư từ liên lạc, vợ lại trẻ, như thế nó "đi" là cái chắc. Thôi cũng đừng buồn, mất nước là mất tất cả. Ta nói thật đó. Nếu vợ chú mày còn chung thủy với chú mày thì thôi. Ngược lại nó đã sang ngang thì ta gả em gái cho. Ta có đứa em gái không đến nỗi tệ lắm. Năm nay nó mới hai mươi tuổi. Ngày ta đi tù ta dặn nó ‘Mày muốn lấy ai thì lấy nhưng không được lấy "nón cối" nghe chưa?’ Trong gia đình, ta là anh cả, bảo đâu em gái phải nghe đó. Cứ "yên tâm cải tạo" không ế vợ đâu mà sợ".
Đối với Huy, mới đầu những lời nói đó giống như những lời vui đùa, an ủi nhau trong kiếp tù để thêm niềm hy vọng mà sống. Hơn thế nữa, không biết tù còn có ngày về để mò ra Phan Thiết kiếm vợ? Thế nhưng ai ngờ ít tháng sau Khoa bị bệnh kiết lỵ cả tháng trời không thuốc chữa và vĩnh viễn từ giả cõi đời. Trước khi chết Khoa trao cho Huy một bức thư tuyệt mệnh gửi người em gái với nội dung đúng như những gì Khoa hứa với Huy trước đây cùng tất cả những chi tiết về gia đình và địa chỉ của Khoa. Sau khi theo đám hậu sự chôn cất Khoa trên một ngọn đồi giang, Huy thấy những gì Khoa nói không còn là điều giởn chơi nữa. Nó là lời trăn trối linh thiêng, là ước vọng cuối cùng của một người anh, một người bạn tù đã nằm xuống. Chàng có nghĩa vụ phải thông báo cho gia đình Khoa là anh đã chết. Còn chuyện của chàng với em gái Khoa thì chỉ là chuyện viển vông, dù có lúc đã làm Huy phân vân nghĩ ngợi. Nhưng rồi cuối cùng chàng đã quyết định phải ra Phan Thiết như đã nói ở trên.
Chiếc xe đò đưa Huy tới Phan Thiết vào lúc ba giờ chiều. Sau khi xuống xe, chàng cẩn thận coi lại những chi tiết mà Khoa đã ghi trong bức thư. Rồi giữa sự ồn ào , hỗn độn của bến xe, Huy kêu một chiếc xe ôm để về Xóm Bình Hưng mà nơi là gia đình Khoa là một hàm hộ (lò nước mắm) nhỏ ở đây. Trên đường đi, Huy không khỏi bùi ngùi nhớ lại cách đây tám năm, trong những ngày nghỉ phép chàng đã lái xe Jeep từ Hàm Thuận về đây để làm sao tiêu phí hai mươi bốn giờ phép bằng cách giạo phố đường Gia Long, ăn chè Hiển Khánh, ăn trưa tại Nam Thành Lầu rồi đão quanh trường Phan Bội Châu hoặc Bến Trưng Trắc để ngắm một vài tà áo trắng nữ sinh. Rồi có khi ra Bãi Biển Thương Chánh ngồi yên lặng hằng giờ để ngắm nhìn biển, để nhớ thương về người vợ trẻ ở Saigon.
Còn đang nghĩ ngợi miên man thì tiếng của người lái xe ôm cất lên:
-Tới nơi rồi đó.
Chàng hối hả trả tiền, xốc vội lại chiếc ba-lô rồi đưa mắt nhìn lên nốc một ngôi nhà cổ kiến trúc như một ngôi đình với cái tên Hưng Long Nam Hải Vạn ở bên trên(đền thờ cá voi). Chàng bước tới vài bước rồi rẽ vào con ngõ với đường đi phủ đầy cát trắng. Đi khoảng năm mươi bước chàng dừng trước cổng của một ngôi nhà cổ, cẩn thận nhìn kỹ số nhà rồi nghển cổ nhìn vào bên trong. Chiếc sân hoàn toàn vắng bóng người. Chàng mạnh dạng gõû vào cánh cửa gỗ vài lần để dò chừng, nhưng vẫn không có vẻ động tỉnh gì cả. Cuối cùng chàng gọi lớn vào bên trong:
-Có ai trong nhà không, cho tôi hỏi thăm với!
Chỉ độ phút sau, một cậu thanh niên khoảng mười bảy mười tám tuổi từ lều nước mắm bước ra, kéo cái lỗ hình ô vuông, ghé mắt nhìn ra ngoài. Có lẽ sau khi thấy chàng không phải là người đáng ngại, cậu bé vừa hé mở cánh cửa gỗ, vừa lên tiếng:
-Anh muốn hỏi thăm ai?
Huy đáp ngay:
-Đây có phải nhà của anh Khoa, Trung Uy Khoa không?
-Phải, nhưng anh của em đi cải tạo chưa về. Mà anh là ai mà biết anh của em?
Huy hạ giọng đáp vội:
-Anh là bạn cùng ở tù với anh Khoa. Anh mới vừa được thả ra và có tin tức của anh Khoa đây.
Nghe nói vậy, cậu thanh niên tỏ vẻ mừng rở rồi đưa mắt nhìn Huy từ đầu xuống chân, rồi cậu ta nói:
-Vậy anh là sĩ quan "ngụy" cũng giống như anh của em hả? Mời anh vào.
Nói xong, cậu bé mỡ rộng cánh cửa gỗ và Huy bước vào bên trong. Sau khi đưa Huy đến bậc thềm của căn nhà, cậu bé khích động nói:
-Em tên Nghĩa. Anh đứng chờ em tí xíu, em chạy vào lều kêu chị em ra ngay.
Nói xong, cậu thanh niên chạy đi và chỉ thoáng sau quay ra cùng với một cô gái mặc một chiếc quần lãnh đen, chiếc áo bà ba nâu ngắn tay đã bạc màu, tóc cột ra phía sau bằng một mảnh vải hoa. Chân đi guốc thấp. Tất cả đều phù hợp với cuộc sống lam lũ của thời đại nhưng nó tương phản hẳn với làn da trắng, nét đẹp thanh tú và nề nếp của cô gái. Khi tới gần bực tam cấp cô gái nhanh nhẹn lên tiếng:
-Em là Ngân Phước. Anh là bạn của anh Khoa em? Xin mời anh vào nhà chơi.
Nói xong, cô gái hướng dẫn Huy bước vào bên trong. Khi ba người đã yên vị xong, Huy đưa mắt nhìn lên chiếc bàn thờ cẩn ốc xà cừ có hình ảnh của hai ông bà cụ cho nên chàng đoán cha mẹ của Khoa đã qua đời và lòng chàng chợt thấy nao nao trước hoàn cảnh đơn chiếc của hai chị em cô gái. Với vẻ bồn chồn, lo lắng, cô gái lên tiếng hỏi:
-Kể từ lúc anh Khoa đi tù đến giờ gia đình chỉ nhận được tin tức ảnh có một lần. Anh có tin tức gì về anh Khoa của em không?
Đã năm năm rồi kể từ Khoa chết, Huy đã chuẩn bị tinh thần cho cái giây phút linh thiêng này nếu như chàng còn có dịp gặp lại gia đình Khoa. Chàng nhủ lòng sẽ cố giữ bình tỉnh để kể lại cho gia đình Khoa mọi chi tiết. Thế nhưng mọi sự chuẩn bị đều vô ích. Nỗi đau mà chàng kềm giữ bao năm chợt tràn đến. Chàng gục mặt xuống rồi sau cùng, giữa làn nước mắt, chàng ngửng đầu nói như nghẹn trong cổ họng:
-Anh Khoa đã chết rồi! Aûnh chết vì bệnh kiết lỵ cách đây năm năm tại Hoàng Liên Sơn!
Sau thoáng kinh ngạc, Ngân Phước và cậu em cùng oà lên khóc. Giây phút sau, nàng đứng dậy lảo đảo bước tới bàn thờ. Gục mặt vào mép bàn thờ, giữa tiếng khóc nức nở, nàng nói như kể lể:
-Ba má ơi!Anh Hai chết rồi ba má ơi!
Còn Nghĩa, cậu em trai thì chạy tới ôm lấy vai chị và hai chị em cùng đứng đó khóc vùi. Thông cảm với nổi đau đớn tột cùng của hai chị em, Huy ngồi đó như một pho tượng đá để láêng nghe những tiếng khóc tấm tức.
Bên ngoài chiều đã ngã sang màu vàng úa. Trong sự im lặng quyện lẫn với tiếc thương, chàng có thể nghe thấy tiếng gió biển thổi rì rào xuyên qua những hàng lá dừa từ ngoài sân vọng lại như những lời thì thầm chia xẻ. Khoảng độ mười lăm phút sau, Ngân Phước dường như đã lấy lại được bình tĩnh. Nàng vừa lau nước mắt vừa tiến tới chiếc ghế ngồi đối diện với Huy. Giọng nói của nàng không còn pha trộn với nước mắt nữa, nàng nói:
-Xin anh tha lỗi cho em. Giữa giờ phút đau đớn của gia đình , em đã không kềm chế được cảm xúc, để anh ngồi đó. Em thật có lỗi quá!
Huy ái ngại đáp:
-Không, em không có lỗi gì cả. Anh thông cảm với nỗi đau của em và của Nghĩa.
Nghe trả lời thế, bằng một giọng nói như có vẻ quan tâm đến hoàn cảnh của Huy, Ngân Phước hỏi:
-Em hỏi thế này không phải tò mò, sau khi thăm và báo tin cho tụi em biết rồi anh định về đâu?
Câu hỏi tự nhiên gợi lại bao nỗi đau của Huy cho nên có lẽ phải vài giây sau Huy mới có thể lên tiếng trả lời Ngân Phước:
-Anh chưa biết phải về đâu!
Ngân Phước ngạc nhiên hỏi:
-Tại sao vậy?
Nhìn thẳng vào đôi mắt của Ngân Phước, chàng thấy đôi mắt ấy rất thông minh, đầy nghị lực, thu hút và tỏa ra một cái gì đó rất bao dung giống như đôi mắt của mẹ chàng năm xưa. Chính vì thế mà sau tiếng thở dài Huy nói:
-Chuyện tù nào mà chẳng buồn. Ngân Phước có muốn nghe chuyện buồn của đời anh không?
Đúng như sự tiên đoán của chàng. Bằng một giọng nói rất nhỏ nhẹ, Ngân Phước nói:
-Anh đã là bạn của anh Khoa em thì có gì mà không chia xẻ được với anh?
Thế rồi, bằng một giọng nói đầy xúx động, Huy kể cho Ngân Phước nghe hoàn cảnh bi thương của mình và Huy cũng thành thực cho nàng biết ngày mai chàng chưa biết phải về đâu. Song, có điều dù thành thực cách mấy, chàng vẫn dấu biệt, không hề đề cập đến bức thư tuyệt mệnh của Khoa.
Sau khi nghe Huy kể hết câu chuyện, Ngân Phước có vẻ xúc động. Sau giây phúc trầm ngâm nàng nói:
-Aâu cũng là số mệnh!Anh cũng chẳng nên buồn làm gì! Biết đâu ngày mai Trời chẳng ngó lại và đền bù cho anh?
Nghe Ngân Phước nói thế, Huy cũng thấy vui vui trong lòng , chàng gượng cười nói:
-Sĩ quan "ngụy" cải tạo như bọn anh thì còn gì nữa đâu mà Trời ngó lại? Có phải vậy không?
Không trả lời câu hỏi của Huy, Ngân Phước nói:
-Bây giờ thì cũng đã gần năm giờ chiều rồi. Anh có muốn đi đâu cũng không kịp. Nếu anh không chê nhà em thì tối nay tạm ở đây với em và Nghĩa. Nói xong quay qua cậu em trai, nàng nói:
-Tối nay, anh Huy sẽ ở với em. Nhưng bây giờ phải lo cơm nước, vừa để đãi anh Huy mới ở tù ra, vừa lo bữa giỗ đầu cho anh Hai.
Khác hẳn với những giây phút đau đớn trước đây khi hai chị em còn đứng khóc vùi trước bàn thờ, Ngân Phước giờ đây tỏ ra tháo vác và bộc lộ hẳn những nét tự tin của một cô gái làm chủ gia đình. Nàng thay một bộ quần áo mới, tóc nàng chảy gọn ghẽ và trang điểm nhè nhẹ thêm đôi chút làm tăng thêm vẻ đẹp thanh tú của nàng. Nàng lanh lẹn ra lệnh cho cậu em đạp xe ra ngoài chợ mua cái này cái kia rồi chính nàng tự tay thu vén gọn ghẽ bữa cơm chiều và cũng là bữa giỗ đầu cho Khoa. Huy mở ba-lô lấy ra tất cả những kỷ vật cuối cùng của Khoa trao lại cho Ngân Phước, ngoại trừ bức thư. Trong mớ kỷ vật đó có vài bộ quần áo, vài tấm hình, mấy chiếc lược làm bằng sừng và ống pháo sáng có khắc tên Ngân Phước trên đó. Vì chưa có vợ cho nên Khoa đã dành hết tình thương cho em gái. Trong những ngày tháng đói khổ của kiếp tù, chàng đã để hết tâm trí để trạm khắc những chiếc lược thật đẹp để làm quà cho em nếu một ngày nào đó chàng ra tù. Nay thì tất cả những kỷ vật đó và cả tấm hình của Khoa đều được đặt lên bàn thờ.
Tối hôm đó, Huy lần đầu tiên sau tám năm của kiếp tù khổ sai biệt xứ, được bữa cơm có hình bóng của một người con gái ngồi bên cạnh. Đó là cái không khí thân thương của mái ấm gia đình mà chàng đã bao năm thèm khát.
Hôm sau, Ngân Phước sai cậu em ra ngoài chợ mua áo thun, quần đùi và một bộ pyjama mới cho Huy cùng một số vật dụng cá nhân như dao cạo râu, khăn mặt và kem đánh răng. Suốt buổi sáng hôm đó Huy quanh quẩn ở trong lều nước mắm để giúp cho Ngân Phước chuyện này chuyện kia. Còn cậu Nghĩa thì cứ theo bén gót chàng để hỏi thăm chuện tù chuyện đánh giặc năm xưa. Chưa bao giờ trong đời Huy cảm thấy sung sướng như bây giờ dù ngày mai chàng vẫn chưa biết đời mình sẽ ra sao. Chàng nói đùa với Ngân Phước:
-Nếu em chịu mướn thì anh sẽ tình nguyện ở lại đây làm việc suốt đời cho em.
Tạm ngưng chuyển nước mắm vào chai, đôi má ửng hồng, vừa đưa ngón tay quyệt một vài giọt mồ hôi trên trán, Ngân Phước cười nói:
-Lều của em nghèo lắm không đủ trả lương cho một ông thiếu úy đâu. Vả lại chỉ huy một ông thiếu úy, eo ơi!Em sợ lắm!
Thấy câu chuyện vui vui như vậy, Nghĩa cũng buột miệng nói chen vào:
-Hay anh Huy ở lại đây luôn với tụi em đi.
Nhưng nói xong, Nghĩa mới thấy mình bạo miệng quá cho nên cậu ta le lưỡi liếc nhìn bà chị, và Ngân Phước cũng khẻ đưa mắt nhìn em làm cậu bé hơi mắc cở.
Sau bửa cơm trưa, Ngân Phước nhất định không chịu để Huy giúp đỡ. Nàng nói rằng Huy cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng sau bao nhiêu năm tháng tù tội. Nàng dọn cho Huy một chiếc ghế bố để dựa lưng nghỉ bên ngoài hàng ba, dưới bóng của hàng cây dừa. Nhìn những công việc vất vả gần như suốt ngày của nghề làm nước mắm, nhìn vẻ đẹp thanh tú của Ngân Phước, Huy thấy thương cảm cho nàng và thấm thía bao nỗi cay đắng của cuộc đỗi đời.
Thế rồi dưới cơn nắng hè với ngọn gió biển lúc nào cũng hiu hiu thổi, một phần cả đêm qua mất ngủ vì bồn chồn thao thức, Huy đã thiếp đi vào giấc ngủ trưa lúc nào không hay. Vừa chợp mắt được một lát, Huy thấy mình được Ngân Phước cho tạm trú ở đây một thời gian khá lâu rồi , tình cảm giữa hai người nẫy nỡ, rồi chàng được đi dạo chơi với Ngân Phước ở ngoài bãi biển trong một đêm trăng thật huyền diệu. Đêm hôm đó, Ngân Phước không cột tóc mà lại để xõa tóc. Tóc nàng bay bay làm khuôn mặt đã khả ái lại càng thêm quyến rũ. Nhất là đôi mắt của nàng thật dịu dàng và lúc nào cũng như mời gọi.
Ngắm nhìn nàng, một niềm khát khao nỗi dậy, Huy thu hết can đảm nói"Ngân Phước ơi!Ngân Phước có biết rằng ngay từ những giây phút đầu tiên gặp gỡ, anh đã yêu em không? Ngân Phước có muốn cùng anh xây dựng một gia đình hạnh phúc không?" Vừa nói, Huy vừa đưa tay nắm lấy tay Ngân Phước. Và chàng đã thốt ra những lời ấy bằng cả khối chân tình và chứa chan hy vọng. Thế nhưng khi Huy vừa nói hết câu thì Ngân Phước vội giựt cánh tay lại và đôi mắt ấy bổng trở nên nghiêm nghị lạ lùng, nàng nói "Anh tưởng tôi yêu anh hả? Anh lầm rồi! Đó chỉ là lòng xót thương thôi! Sĩ quan "ngụy" như anh bây giờ thì còn gì nữa mà nói chuyện yêu đương. Lấy anh để rồi không có cháo mà ăn à? Thôi đừng có mơ mộng nữa ông tù ơi!" Nghe Ngân Phước trả lời thế, Huy chết điếng cả người, miệng lưỡi chàng trở nên cứng đơ và ú ớ nói không ra lời. Trong khi đó thì Ngân Phước cười lên khanh khách rồi vụt chạy lên phía trước. Chàng cố nhoài người ra để nắm lấy tay Ngân Phước, nhưng bóng của Ngân Phước đã vụt biến vào màn tối mênh mông làm chàng hụt hẫëng và té xấp xuống bãi cát, và cũng là lúc mà chàng ra khỏi cơn mê. Trong lúc đầu óc còn đang mơ hồ, chàng nghe có tiếng ai văng vẳng bên tai. Khi chàng mở mắt ra thì Ngân Phước đã đứng bên cạnh hồi nào. Nàng mỉm cười, nhỏ nhẹ nói:
-Gớm, anh mớ gì mà la hét dữ quá. Em phải gọi mấy lần anh mới tỉnh đó!
Vuốt mặt lại cho tỉnh táo, nhớ lại giấc mơ, Huy cảm thấy xấu hổ, chàng không hiểu tại sao mình lại có thể mơ một giấc mơ kỳ cục như thế. Chàng bẽn lẽn tìm cách nói dối quanh:
-Vừa chợp mắt một chút thì anh thấy trung đội của mình bị Việt Cộng phục kích. Anh đang la hét lính tráng giữ vững đội hình thì một trái B-40 nổ ngay b ên cạnh làm anh bị thương nơi cánh tay và giật mình tỉnh giấc. Bao nhiêu năm rồi thỉnh thoảng anh vẫn nằm mơ thấy như vậy đó.
Không biết đây chỉ là câu trả lời để chống chế của Huy, bằng cả sự tin tưởng và cảm thông, Ngân Phước nói:
-Đời lính các anh thật gian khổ. Ngày xưa, mỗi lần anh Hai về Phép là tụi em cứ quấn quít bên ảnh và không muốn ảnh trở lại đơn vị nữa. Thôi anh đừng có nghĩ ngợi nhiều. Ráng nghỉ ngơi một chút rồi chiều nay em đưa anh ra bãi biển chơi cho khuây khỏa.
Buổi chiều hôm đó, Ngân Phước dặn cậu em ở nhà lo dùm bữa cơm chiều mà thực ra nàng đã chuẩn bị gần xong. Nàng đưa Huy ra thăm Bãi Biển Thương Chánh . Hai người không đi theo con lộ chính Bình Hưng mà lại đi sâu vào con ngõ phía trong để tiến tới một chiếc đầm sen. Bắt đầu từ đây, thoảng trong gió đã có mùi hương thơm ngào ngạt và tiếng sống biển từ xa vọng lại. Hai người lội qua một khúc nông của chiếc đầm để tiến tới đồi cát nằm ở phía bên kia. Trong khi leo đồi, có lúc Ngân Phước tuột dốc, nghiêng ngả và Huy phải đưa tay ra đỡ lấy tay nàng. Khi hai người đã lên tới đĩnh đồi thì phía trước là biển trãi rộng mênh mông. Dưới chân đồi , dọc theo bãi biển là những rạng thông đang buông những tiếng thở rì rào. Phía sau, những căn nhà giờ đây nằm thấp xuống ở phía dưới và chiếc đầm sen nổi bậc lên như một bức tranh thủy mạc. Ngân Phước lấy tay chỉ về phía ngọn cây dừa ở phía xa xa. Nàng hồn nhiên như một cô bé:
-Đó, nhà mình đó anh. Giữa khoảng trời rộng bao la, đồi cát trắng nổi bật lên như đỉnh của một ngọn núi mịn màng, thanh khiết. Dưới ánh nắng vàng , trong chiếc áo bà ba màu hồ thủy, vẻ đẹp của Ngân Phước trở nên rực rỡ hơn bao giờ hết khiến Huy càng thêm ngây ngất. Hai người men theo triền đồi cát để đi xuống bãi biển nằm phía dưới. Khi tới gốc một cây thông, Ngân Phước vừa lấy tay cột lại mái tóc vừa mỉm cười, nói:
-Hồi còn là nữ sinh, chủ nhật nào em cũng cùng các bạn gái lội qua đầm sen, leo qua đồi cát để xuống đây tắm biển. Bọn em đem theo đồ ăn trưa và ngồi tụm năm túm ba tán chuyện ở dưới rạng thông này. Bây giờ, những ngày đó không còn nữa. Nói tới đây, như để đè nén xúc động, Ngân Phước chợt ngưng lại , nàng lấy tay phủi cho mặt cát bằng phẳng rôi ngồi xuống. Khi thấy Huy cũng đã yên vị đâu đó, nàng nói tiếp:
-Tám năm qua từ ngày "giải phóng" về, em chưa bao giờ quay trở lại chốn này. Hôm nay, em đưa anh ra đây chơi là để muốn thưa với anh một chuyện_một chuyện thật quan trọng.
Từ lúc được Ngân Phước mời đi chơi đầm sen tới giờ, Huy như người đi trong mộng. Nghe nàng nói thế, trống ngực Huy đập mạnh và chàng linh cảm thấy những giây phút sắp tới đây sẽ là một ngã rẽ quan trọng của cuộc đời chàng. Nhưng nghĩ tới giấc mơ buổi trưa, tim chàng muốn đứng lại. Chàng chưa kịp lên tiếng thì Ngân Phước lại nói tiếp:
-Nhiều lúc em bàng hoàng tự hỏi không hiểu sao em có thể sống sót cho tới ngày hôm nay. Khi anh Hai đi tù, ba má em lo buồn vì cuộc sống quá cơ cực và thường xuyên bị đe dọa cho nên lâm bệnh và lần lượt qua đời. Lúc đó em mới chỉ là cô nữ sinh của lớp mười hai. Em như một con chim non chưa đủ long đủ cánh mà đã bị xô ra ngoài đời trong một ngày giông bão. Có những đêm hai chị em ôm nhau khóc và em đã có ý tưỡng hai chị em cùng uống thuốc ngủ quyên sinh . Nhưng không hiểu sao, do một nguồn nghị lực nâng đỡ nào đó, em đã gượng dậy được.
Nói đến đây, dường như quá xúc động Ngân Phước bật khóc tấm tức. Thấy Ngân Phước khóc, Huy se thắt cả cõûi lòng . Chàng lên tiếng để an ủi:
-Ở trong tù, bọn anh cũng đã hiểu được nỗi thống khổ của người ở bên ngoài nhưng có chỉ là trong tưởng tượng thôi, còn thực tế thì…
Sau giây phút xúc động Ngân Phước bình tỉnh trở lại, nàng nói tiếp:
-Em đã trút bỏ bộ áo nữ sinh mộng mơ, chấp nhận đưa lều nước mắm của ba má vào hợp tác xã để làm công cho bọn nó để còn giữ được căn nhà.
Nói tới đây, Ngân Phước đưa mắt nhìn Huy-đôi mắt thật dịu dàng như đôi mắt bồ câu. Nàng nói tiếp:
-Chắc anh tưỡng lều nước mắm này là của em hả? Không đâu, nó là tài sản của hợp tác xã đó! Thế nhưng, tám năm qua em đã học được một bài học là phải phấn đấu để sinh tồn. Cũng tám năm qua,em đã sắp đặt một kế hoạch và hôm nay em muốn cho anh biết kế hoạch đó của em.
Mới ra tù được có mấy ngày, người mà Huy lần đầu tiên được tiếp xúc có lẽ là Ngân Phước. Qua cuộc đỗi đời tàn bạo này Huy nhận thấy rằng muốn sống sót trong cái xã hội dã mang này, người ta phải khôn ngoan trước tuổi,phải liều lĩnh kể cả những bé nhỏ đang còn mày đũng quần ở ghế nhà trường tiểu học. Mấy ngày hôm nay, qua cách cư xử, lời ăn tiếng nói cũng như cách sắp xếp công việc của Ngân Phước, Huy nhận thấy nàng là một cô gái thật thông minh, can đảm cho nên chàng lên tiếng:
-Dù mới gặp em nhưng anh tin vào con người và việc làm của em. Như được khích lệ và cảm thông, Ngân Phước bộc lộ:
-Em đã âm thầm bán căn nhà này cho một tên cán bộ rồi mua một chiếc ghe để chuẩn bị cho chuyến vượt biên! Khoảng tháng nữa là tới hẹn giao nhà. Em đã hối lộ để xin được giấy phép ra dãoPhú Quý mua cá cho Hợp Tác Xã . Tài công không ai khác hơn là người anh bà con của em trước đây là thượng sĩ hải quân. Mọi việc sắp xếp xong xuôi cả thì anh xuất hiện như một định mệnh. Anh có muốn cùng em và Nghĩa vượt biên không?
Trước đề nghị thật táo bạo và bất ngờ, Huy mở to mắt nhìn Ngân Phước như thể còn chưa tin vào những gì mình mới vừa nghe. Rồi một niềm xúc động bỗng tràn đến. Chàng nắm chặt lấy hai tay của Ngân Phước nói:
-Đó là giấc mơ mà bao nhiêu năm anh hằng ấp ủ nếu một ngày nào đó anh còn sống sót và ra khỏi tù. Song có điều anh không ngờ người giúp anh làm điều đó lại là Ngân Phước. Anh xin cám ơn em.
Nói xong chàng hôn lên đôi tay của Ngân Phước mà nàng cũng chẳng phản đối gì nhưng đôi má nàng ửng hồng và bẽn lẽn. Nàng khẻ gỡ tay Huy ra rồi ngước nhìn ra phía biển xa xa rồi nói như thể nàng đang đấm chìm vào một cơn mơ:
-Ngày đi tù, anh Hai đã dặn em "mày không được lấy nón cối nghe chưa" . Em thấy em không thể sống hạnh phúc dưới xã hội này và với những con người này dù họ thừa tiền bạc và đầy rẫy quyền thế. Họ là những người từ hành tinh xa lạ tới đây để cai trị những người dân khốn khổ. Lúc nào em cũng nhớ tới lời khuyên của anh Hai dù anh Hai không còn nữa. Nhưng nay thì em dứt khoát, dứt khoát từ giã cái địa ngục dã man này. Em không hiểu sao anh lại đến đây, không biết có phải do anh Hai…
Lúc này thì Huy như một cậu bé được mẹ khen ngợi và cho quà. Chàng đưa tay vào túi áo ngực lấy ra bức thư tuyệt mệnh của Khoa rồi hối hả trao cho Ngân Phước. Chàng nói:
-Phải, chính anh Hai đã đưa đường chỉ lối cho anh tới. Đây là thư tuyệt mệnh của anh Hai.
Sau khi đọc xong bức thư, Ngân Phước dù trong nỗi niềm đau đớn và xúc động, vẫn không che dấu được niềm vui. Nàng khẽ xoay người sang một bên, bẽn lẽn nói:
-Anh Hai nói chuyện gì kỳ quá à! Nhưng sao tối hôm đó anh không cho em xem bức thư?
Huy vội vã đáp:
-Làm sao anh có thể đưa bức thư này giữa khi gia đình em đang trải qua một nỗi đau đớn như thế. Vảõ lại nhỡ em không chịu.."mướn" anh đi làm "vệ sĩ "tháp tùng em vượt biên thì sao?
Khi Huy vừa nói xong câu này thì Ngân Phước "hứ" lên một tiếng rồi nàng vùng vằng chạy xuống bãi biển và Huy thì hối hả chạy theo.
Chỉ thoáng sau không hiểu Huy đã nói hoặc năn nỉ những gì, hoặc có thể chàng đã kể lại cho Ngân Phước nghe cơn ác mộng mà chàng thấy lúc trưa…mà hai người đã sánh bước bên nhau và cùng đi dọc theo bãi biển. Xa xa từ mé Bãi Biển Thương Chánh , những con tàu đánh cá của hợp tác xã bắt đầu hối hả ra khơi. Trùng dương xanh thẩm và dịu mát. Từng hàng thông, phi lao buông tiếng thở rì rào như bản tình ca muôn thuở của biển. Huy đi sát vào Ngân Phước và nắm chặt lấy tay nàng . Gió chiều làm tóc nàng bay bay. Huy có cảm tưởng một làn hơi ấm áp đang tỏa ra và truyền sang cơ thể chàng. Huy thấy cả cuộc đời chàng tưởng chừng như đã chết…đang chuyển động hồi sinh. Và biển cả mênh mông kia đang trải rộng trước mặt giống như tấm lòng quảng đại. Biển Phan Thiết – biển bao dung , biển ân tình, biển hạnh phúc trong đó hình ảnh của Ngân Phước đứng lồng lộng trên cao và nổi bật lên như một vị nữ thần cao cả.
Đào Văn Bình
11-11-99