Oâng Đốc đi cày vừa đủ ăn. Nhưng vì thua lỗ chứng khoán, đã sạt nghiệp còn mang nợ, ông phải đi mót thêm ở đồng khác, như dịch giấy tờ, tài liệu. Thỉnh thoảng gặp những văn kiện của chế độ cũ, với một chữ ký bay bướm kèm theo chức vụ "Đốc sự hành chánh", "Tham sự", "Phó quận", và một cái tên quen thuộc, lòng ông Đốc bồi hồi nghĩ bây giờ bạn ông ở đâu? Sống hay chết? Bạn đã trải qua bao đọa đày?bây giờ bạn là một triệu phú ở Cali, hay một phu quét đường ở Saigon? Gặp tên người có lót chữ "Thị", ông nghĩ bây giờ nhan sắc chị ra sao?chị đang làm một chủ hãng xuất cảng tôm ở Cần Thơ hay một bà bán bún riêu ở Hambourg?
Khi đọc những giấy tờ do nền hành chánh xã hội chủ nghĩa mần ra, ông càng …bẽ bàng. Ví dụ tờ giấy khai sanh của ông Huỳnh Văn Quít quê Bạc Liêu, sanh năm 1927(tức trước khi "Bác" về Pác-Bo) mà tiêu đề lại ghi thuộc lòng "Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam". Người đứng khai sanh cho cụ Quít là…cháu nội cụ, sanh năm 1970. Và ngày "đăng ký" là 11-12-1995. Cuối cùng là bốn chữ "Sao y bản chính" rất đường bệ.
Tờ giấy chứng minh nhân dân ông Đốc dịch cũng cả trăm lần, bốn năm mẫu khác nhau nằm trong máy computer, nên ít khi ông nghĩ tới nội dung. Nhưng một hôm ông đi dịch miệng cho một ông đồng hương xin đoàn tụ gia đình. Nhân viên di trú, một nữ sĩ quan cảnh sát mới ra trường, lần đầu tiên giải quyết một hồ sơ Việt Nam, đưa xấp hồ sơ ra đọc lại chăm chú. Khi đọc tới bản dịch tờ giấy chứng minh nhân dân, đôi mắt xanh cứ mở to từng hồi ngạc nhiên. Nhưng không nói gì.
Mãi đến khi người đàn ông xin đoàn tụ gia đình ra về rồi, cô ta mới mời ông Đốc sang phòng giải lao uống cà-phê nói chuyện. Có lẽ vì mới nhận nhiệm vụ, cô sĩ quan muốn tìm hiểu thêm về cộng đồng Việt Nam. Một hồi cô hỏi một câu không ăn nhằm gì tới nội vụ, có tính cách cá nhân:
-Oâng là người tị nạn chánh trị?
Hai mươi năm rồi, nếu không được hỏi, ông Đốc đã quên khuấy đi thân phận mình. Mà được hỏi tới thì ký ức ông quay về cái đêm 23-11-1979, gia đình ông được tàu Na Uy vớt đưa lên trại tị nạn Singapore. Ba gia đình gồm 12 người được xếp vào một căn phòng 4x5 mét trong căn nhà số 10 Hawkins Road. Mỗi gia đình chiếm một góc, ngủ trên nệm hoặc chiếu trải trên sàn gỗ. Mọi người thỏa thuận mở ngọn đèn mờ trên trần để ban đêm ai đi cầu không giẫm phải người khác. Đặt lưng xuống sàn, ông thấy ngọn đèn điện đong đưa, mặc dầu cửa phòng đóng kín. Trần nhà quay quay. Sàn nhà bập bềnh. Tiếng sống biển vẫn đỗ ầm ì trong đầu ông. Và tiếng máy Yangmar hai đầu xanh giộng kình kình. Oâng không ngủ được vì say cạn, nhưng cũng vì những phấn kích, bàng hoàng như chưa bao giờ thấy trong năm năm qua. Oâng có cảm giác như đã lênh đênh trên biển, không phải ba ngày đêm, mà năm năm trường đêm đen. Đêm nay, đêm đầu tiên ông nằm trên đất liền, mặc dầu là đất lạ. Khuya, nhìn hai đứa con nhỏ ngủ bình yên trên sàn nhà, lòng ông tràn ngập hạnh phúc và biết ơn. Oâng dâng một lời cảm tạ tha thiết lên Trời cao, rồi nhích bàn tay sang bên cạnh, đụng vào bàn tay vợ có vẻ như đang đợi chờ. Tay bà chai, dấu vết của năm năm lận đận. Hai bàn tay đan vào nhau, xiết nhẹ. Oâng dùng ngón tay vẻ hai chữ "TD" trên lòng bàn tay bà. Bà không hiểu, vẻ dấu hỏi. Oâng vẽ lại hai chữ "TD". Lần thứ ba bà vẽ lại đúng hai chữ "TD" và xiết tay ông một lần nữa.
Thủ tục đầu tiên sáng hôm sau là phỏng vấn trên văn phòng trại. Vì họ được tàu Na-Uy vớt và bảo đảm định cư, đại diện Cao Uûy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc chỉ hỏi ông bà sơ sài, rồi ghi vào hồ sơ bốn chữ "Tị nạn chánh trị".
Hôm nay, hoàn toàn tình cờ, ông Đốc ngồi trước người nữ cảnh sát – hơi giống cô Louise Druke đại diện Cao Uûy Tị Nạn. Oâng trả lời:
-Vâng, tôi là người tị nạn chánh trị.
Cô cảnh sát trẻ tò mò như phần nhiều người mới ra trường, hăng say nghề nghiệp, hỏi:
-Ở Việt Nam, ông có phải khai khuynh hướng chánh trị của mình trong giấy tờ không?
Oâng cười khẩy:
-Trời ơi, tôi còn phải khai cả tam đại nhà tôi làm gì, nghĩ gì nữa.
-Nhưng nếu ông xin đi làm, trong đơn có phải khai như thế không?
-Hồi đó tôi xin đi làm công nhân làm mành trúc, tôi cũng phải trả lời câu hỏi "tham gia đảng phái phản động nào?" trong mẫu đơn xin việc.
Cô cảnh sát lại tròn xoe đôi mắt xanh:
-Lạ nhỉ! Ở Na-Uy, câu hỏi đó là vi luật. Bởi vì luật pháp cấm chủ nhân tra hỏi công nhân về khuynh hướng chánh trị và tín ngưởng của họ. Cũng cấm không hỏi họ đồng tính luyến ái hay không.
Oâng Đốc nhìn cô cảnh sát, vẽ đẹp thanh tú nhưng hơi cứng cứng của cô làm nảy trong đầu ông một dấu hỏi – không biết cô này có phải đồng tính luyến ái không? Nhưng ông xua đuổi ý nghĩ cố hủ của mình đi. Bởi vì cái thân hình thanh cảnh này có kề cận một người đàn ông hay du dương với một thân thể đàn bà khác , điều đó chả thiệt hại gì cho xã hội. Còn ông, hạ giới có thành tiên hết, ông cũng chả còn gì để … thiệt hại. Oâng trở lại đề tài bằng một câu nửa tán thưởng nửa thăm dò:
-Chắc chỉ có Na-Uy mới có pháp chế tiến bộ như vậy, phải không cô?
Cô cải chính, vẫn với cái vẽ hăng hái của một người mới tốt nghiệp yêu nghề:
-Đó là tiêu chuẩn quốc tế đấy chứ.
Rồi cô xăng xái về phòng, đem ra một cuốn sách, mở ra đọc:
-Điều 18 Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền:"Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đỗi tôn giáo hay tín ngưỡng lẫn quyền tự do biểu lộ, một mình hoặc với người khác, trước công chúng hay ở nơi riêng tư, sự tin tưởng của mình thể hiện qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và lễ nghi."
Cô giải thích thêm:
-Quyền "biểu lộ"bao hàm quyền tỏ lộ ra, nhưng cũng bao hàm quyền giữ kín tư tưởng và tín ngưỡng của mình.
Từ ngày bỏ đèn sách, thấm thóat đã ba mươi năm , ông Đốc ít khi có dịp nói về điều nọ, khoản kia, cảm thấy thích thú nghe cô gái nói, bèn hỏi thêm:
-Có điều luật nào minh thị nói rằng người dân có quyền giữ kín khuynh hướng chính trị và tôn giáo của mình không, cô?
Cô vanh vách ngay:
-Luật Giáo Dục năm 1974 ghi:"Sở Giáo Dục không được đòi các ứng sinh cho biết quan điểm chính trị và văn hóa của họ". Luật Lao Động năm 1977 ghi:"Chủ nhân không được quyền đòi công nhân tân tuyển khai hay nói ra quan điểm chính trị, tôn giáo và văn hóa của mình."
Oâng hỏi thử:
-Tại sao cấm như vậy?
-Tôi nghĩ ông là người tị nạn chính trị, chính ông có nhiều kinh nghiệm về việc này hơn tôi. Nếu chủ nhân biết chính kiến, đảng tịch, tính ngưỡng của mỗi người, chủ nhân đó có thể đối xử khác biệt. Các nhà lập pháp muốn bảo vệ quyền nhân thân, trước hết phải cho phép họ che dấu các "yếu huyệt" của mình – đó là tôn giáo và chủng tộc.
Hai chữ "yếu huyệt" khiến ông Đốc nhìn lướt trên người cô gái đẹp. Cái áo sơ mi xanh lam có cầu vai bó chẽn bộ ngực căng làm ông liên tưởng tới những cô gái trong truyện…chưởng, và việc tối kỵ của con nhà võ là bỏ hở tênh hênh các tử huyệt trên thân thể. Các nhà lập pháp Tây phương không …đọc truyện chưởng , mà biết nghĩ tới việc bảo vệ con người như thế, quả là có…văn hiến.
Nói chuyện khoảng nửa tiếng, cô cảnh sát nói ông Đốc theo cô trở lại văn phòng lấy một số hồ sơ về dịch giấy. Oâng cầm tờ giấy chứng minh nhân dân lên đọc, và bỗng sững sờ khi đọc kỹ mặt sau. Hàng trên cùng là các chữ "Dân Tộc" và "Tôn Giáo", hàng thứ nhì là "Dấu vết riêng hoặc dị hình". Những chữ đó, trước đây ông chỉ dịch mà không để ý, bây giờ vẩn lên như những vết mực nhơ. Oâng ngửa mặt hỏi:
-Từ nãy tới giờ, cô hỏi chuyện tôi là do mấy cái mục này trên tờ căn cước này của Việt Nam, phải không?
-Vâng, tôi không ngờ trên thế giới còn có những nhà nước bắt dân khai tôn giáo và dân tộc trên giấy tùy thân như thế này. Tôi rùng mình.
-Tại sao cô lại rùng mình?
-Năm 1939-40, những người Do Thái bị vẽ ngôi sao David trên áo, trên mặt. Ngôi sao đó nguyên là biểu tượng cao quí cho dân tộc và tôn giáo Do Thái. Nhưng bọn Phát xít lại dùng đó làm con dấu của tử thần.
Oâng Đốc nghĩ ngày nay người Việt được đóng dấu ngay trên tờ giấy tùy thân. Và ông nhớ lại một câu chuyện nhỏ xảy ra cách đây vài năm. Lần đó ông tình cờ dịch giấy tờ cho một người bạn thân mới qua. Oâng biết rõ người bạn này là Phật giáo, mà mục tôn giáo thấy đề "không". Khi gặp lại người đó, ông thân mật hỏi "Anh là Phật tử thuần thành mà khai là không có tôn giáo?" Oâng bạn đỏ mặt phật ý:"Đó là việc riêng của tôi, không liên quan tới anh". Lúc đó ông mới biết mình hỏi như thế là thiếu tế nhị, nên cố nói vài câu chữa lỗi rằng chỗ thân mật nên mới hỏi để biết và thông cảm nỗi khổ tâm nào đã làm bạn bỏ Phật giáo. "Tôi không bỏ Phật giáo", người bạn nói, rồi tiếp, hơi vui vẻ trở lại:"Không là có, có là không. Sắc sắc không không. Phật đấy chứ. Nhưng nếu mình khai là Phật tử, gặp kẻ ghét Phật giáo thì sao? Mà cái đảng đó, khi nào họ thương, khi nào họ ghét, đâu biết được. Đối với một chế độ chủ trương vô thần và coi tôn giáo là á phiện của tâm hồn, tôi phải dè dặt , anh ạ."
Oâng cũng tưỡng tượng nếu những người Việt nay trở thành công dân Mỹ, Pháp, Canada, Na-Uy phải đề trên giấy tùy thân của mình "Dân tộc:Việt-Nam", họ có phản đối , coi là kỳ thị chủng tộc không? Oâng không biết. Nhưng ông đã gặp những giấy tờ của một gia đình người Hoa, cứ đến mục "dân tộc" là có vết bôi xóa, ông có thể tưỡng tượng được nỗi tủi nhục của họ khi phải bôi xóa như thế. Nhưng họ làm gì được, khi đang ở Cho Lon vào năm 1978?
Oâng Đốc hỏi tiếp"
-Còn vụ "dị hình", cảnh sát phải biết để dễ theo dõi kẻ phạm pháp. Tại sao cô phản ứng?
-Có phải công dân nào cũng là kẻ phạm pháp đâu?Vả lại, muốn nhận diện một người, người ta dùng những đặc tính tự nhiên như màu mắt, màu tóc.
-Người Việt chúng tôi ai cũng tóc đen, mắt nâu hoặc mắt …huyền.
-Thì dùng chiều cao chẳng hạn. Con em chúng tôi được giáo dục không nhắc tới những "dị hình" của người khác. Làm thế là vô giáo dục.
Oâng Đốc trao tờ giấy chứng minh nhân dân lại cho người nữ sĩ quan, cười mếu nói:
-Thế thì, cứ theo mặt sau tờ giấy này, gia đình ông bạn Việt Nam của tôi hồi nãy, không những đáng đoàn tụ, mà còn đáng cấp qui chế tị nạn chính trị.
Cô đáp:
-Oâng nói đúng. Nhưng rất tiếc, cũng theo giấy tờ thì không người Việt Nam nào có thể được cấp qui chế tị nạn.
-Tại sao lạ vậy?
Cô gái chìa mãnh giấy ra, chỉ vào giòng chữ thứ nhì, ở mặt trước, tủm tỉm cười tinh quái:
-"Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc".
--------
Ghi chú:
Bài này được trích trong Tập San Hoài Bão Quê Hương số 1 của các cựu sinh viên trường Quốc Gia Hành Chánh, phát hành năm 1999.