LỄ BỎ MẢ
Phạm Thành Châu
Câu chuyện tôi kể dưới đây bắt đầu khi tôi học năm thứ hai ban Anh Văn ở Đại Học Văn Khoa Huế. Tôi có khiếu về sinh ngữ nên việc học của tôi không mấy khó khăn. Nhưng học mà không thực hành thì khó kết quả. Như môn Anh Văn, đa số viết hay, đọc rất giỏi, nhưng nghe và nói thật vất vả. Nhân dịp Tổng Hội Sinh Viên Huế làm công tác xã hội ở một ấp đồng bào thiểu số, tôi làm quen với một mục sư người Mỹ đang phụ tách truyền giáo ở đó.. Tôi đề nghị phụ giúp ông trong việc phân phối phẩm vật cứu trợ cho đồng bào sắc tộc, thế là tôi có một chỗ thực tập tiếng Anh ngon lành.
Ở tỉnh Thừa Thiên, đồng bào sắc tộc chỉ có hai ấp Tà Rầu 1 và Tà Rầu 2 thuộc quận Nam Hòa, phía Tây của tỉnh, cách Huế độ 10 cây số. Vùng nầy tập trung các lăng tẩm và thắng cảnh đẹp nhất Huế. Địa giới quận bao gồm một phần dãy Trường Sơn với các địa danh A Sao, A Lưới, các căn cứ Bastogne, Birmingham. Cả một vùng rừng núi mênh mông đó đã thành hoang địa vì thuốc khai quang, chỉ phần đất thuộc chính quyền kiểm soát còn giữ được nguyên trạng. Hai ấp của người thiểu số nằm hai bên bờ sông Hương. Aáp Tà Rầu 1 nằm cạnh lăng Minh Mạng phía tả ngạn. Aáp Tà Rầu 2 nằm gần đồi Vọng Cảnh phía hữu ngạn. Theo tôi biết thì trước đây số đồng bào nầy ở trong rừng sâu, để tránh bom đạn họ chạy đến vùng quốc gia và được tạm cư ở đây.
Mỗi ấp gồm bốn dãy nhà lợp tôn vách ván. Mỗi gia đình được chia một ngăn. Vì quen sống đơn giản, họ chẳng quan tâm gì đến tiện nghi. Có điều, bỏ họ vào sống chung với đồng bào kinh, họ hoàn toàn lạc lõng. Mà dù họ muốn sống như đồng bào kinh cũng không được. Họ không có đất để trồng trọt, chăn nuôi. Cho nên cứ mỗi buổi sáng, theo thói quen, đàn ông móc chà gạt trên vai, miệng ngậm ống vố, lang thang nghiêng ngó đó đây, rồi lần mò trong bờ, bụi, bắt chuột, rắn, ếch, nhái về nướng làm mồi uống rượu. Riêng đám thanh niên trai tráng đều đi Biệt Kích Mỹ. Mỗi tháng đến kỳ lương, họ về với gia đình. Bất kỳ đang ở đâu, trong đồn hay trên đường hành quân, hễ nhận được lương là họ bỏ mặc, kéo nhau về nhà, mua rượu, gà, chè chén say sưa cho đến sạch túi mới vác súng về lại đơn vị.
Nhiệm vụ tôi là mỗi sáng thứ bảy đến hội thánh chuyển phẩm vật cứu trợ lên xe, đến nơi đem xuống. Đồng bào, theo lệ thường, đã tập trung sẵn trước sân, ngồi nghe giảng đạo xong, lên nhận quà; thường là những gói "bột dẹp", "bột xếp", sữa bột, gạo, đôi khi có cả quần áo, đồ hộp nữa. Để dễ thuyết phục đồng bào, ông mục sư học tiếng thượng, tôi cũng học theo ông. Người cán bộ của Ty Phát Triển Sắc Tộc dạy rất tận tình nên chúng tôi tiến bộ nhanh. Từ khi ông giảng kinh thánh bằng tiếng thượng, đồng bào rất thích thú, nghe chăm chú hơn. Riêng tôi, những lúc đó thường ra góc sân với lủ trẻ bập bẹ chuyện trò.
Một lần, cũng vào giờ giảng kinh, tôi lang thang đến các dãy nhà của đồng bào; mọi người đều tập trung cả trước sân nên vắng ngắt. Lúc đến gần cuối dãy, tôi chợt thấy một cô bé thò đầu ra cửa sổ nhìn tôi và cười. Tuổi em độ mười hai, mười ba, có đôi mắt đen nhánh, miệng rất tươi, tóc em đen rẻ qua hai bên tai để lộ vầng tráng cao và đôi lông mày đậm và dài. Trông em cũng cỡ với một em học lớp đệ thất trung học. Giá như em đi học, có lẽ em là hình ảnh nhí nhảnh, trong sáng nhất trường. Khi tôi đến gần, định hỏi chuyện thì em biến mất sau khung cửa sổ. Tôi ngạc nhiên, sao giờ nầy em lại ở đây, cửa chính lại đóng kín? Tôi tảng lờ đi quá cuối dãy rồi từ từ quay lên nhưng phía đối diện nhà em. Tôi liếc qua, thấy em đã nhô đầu lên chỉ vừa tầm đôi mắt nhìn tôi. Tôi cười với em. Mắt em sáng rực, đuôi mi kéo dài ra, rạng rỡ. Tôi biết em cũng đang cười. Tôi ra dấu rằng tôi sẽ đến gần em, em lắc đầu. Tôi lại ra dấu em ra với tôi, em cũng lắc đầu. Tôi thấy có gì bất thường. Em bị tật nguyền hay em không thích chỗ đông người? Tôi quay về nhưng đôi mắt vẫn còn làm tôi xao xuyến. Người thiểu số, nhất là phái nữ có đôi mắt rất đẹp, đen láy và đoan chính. Cả khi họ để ngực trần và nếu ta nhìn vào đôi mắt họ, tự nhiên lòng ta như được rửa sạch những ý nghĩ vẫn đục, những ham muốn thấp hèn.
Những buổi gặp gỡ và nói chuyện câm như thế kéo dài được vài tháng. Ngày thường, thỉnh thoảng tôi có vào ấp của em để liên hệ với trưởng ấp những việc linh tinh mà vị muc sư nhờ tôi. Những lúc đó em có nhìn tôi nhưng vờ như không quen biết.
Một buổi sáng, đi ngang qua đồi Vọng Cảnh, lúc cho xe xuống giốc cầu, tôi chợt thấy một toán phụ nữ sắc tộc đang bì bỏm dưới giòng nước để bắt ốc hái rau gì đó. Chỉ nhìn thoáng qua, tôi biết ngay có em vì dáng em rất gầy và mái tóc kiểu học tro økhông lẫn được với ai cả. Tôi vội dừng xe gắn máy và lần xuống bờ suối. Hình như nhận ra tôi nên em chậm lại để đi sau cùng. Em mặc một quần đùi màu đen, ống dài quá gối và một chiếc áo hoa rộng thùng thình, tôi biết đó là đồ cứu trợ do các hội thiện cấp phát.
Khi tôi đến gần, em đứng thẳng người nhìn sững tôi, đôi mắt đen sâu thẩm sáng lên một nụ cười ngây thơ, hoan hỉ. Hình ảnh đó suốt đời vẫn còn trong tôi. Tôi cũng vui mừng được gặp em, người bạn nhỏ bé. Tôi tiến xuống bờ suối định chào hỏi thì em lắc đầu và chạy băng lên phía trước. Tiếng chân em bì bõm khiến những người đàn bà quay lại. Họ giăng tay ra cản tôi, tôi bảo "tôi muốn nói chuyện với em bé kia được không?" Họ lắc đầu vừa nói vừa ra dấu"Không được, nó sẽ bị đánh vào đầu, vào người. Mầy đi đi." Tôi dừng lại và hiểu lờ mờ rằng nếu tôi tiếp xúc với em, em sẽ gặp chuyện không may. Tôi quay lên, đứng nấp vào một bụi cây. Em đi chậm lại và dõi mắt lên cầu như tìm kiếm. Tôi bước ra khỏi bụi cây cho em thấy rõ. Em nhìn tôi và cười. Nụ cười và ánh mắt em như tràn ngập nỗi buồn của lưu luyến và tuyệt vọng. Tôi vẫy tay, em cũng vứa thụt lùi vừa vẫy tay rồi vụt chạy đi.
Hôm đó, như thường lệ, đồng bào ở cả trước sân với vị mục sư, tôi lẻn ra đi qua căn nhà của em. Cửa chính vẩn đóng, cửa sổ vẫn mở, nhưng không thấy em đâu. Tôi di qua lại mấy lần vẫn thế, cuối cùng tôi đi thẳng đến cửa sổ và nhìn vào trong. Tôi bàng hoàng, không tin ở mắt mình nữa. Em đã bị lột trần, chỉ còn chiếc quần đùi. Hai tay, hai chân bị trói chặt vào chân giường, em ngồi gục đầu trong hai cánh tay bị treo lên. Người em ốm tong, thấy rõ cả dãy xương sườn bên hông với những vết hằng đỏ bầm, rớm máu. Em xây lưng ra ngoài, hai chân bị trói cố co lên che lấy ngực nhưng vẫn để lộ ra chiếc vú nhỏ xíu như nửa trái chanh. Tôi gọi nho nhỏ"Em,em". Em nghe thấy nhưng lắc đầu và vẫn giấu đầu với mái tóc lòa xòa vào giữa hai cánh tay. Rồi đôi vai em bổng run động mạnh, tiếng nức nở bị kềm chặt giữa hai hàm răng nghe rên rỉ tức tưởi. Tôi quay lại, lên xe gắn máy, chạy thẳng ra trụ sở xã. Oâng xã trưởng đang bàn chuyện gì đó với một anh cảnh sát và vài người nữa. Tôi xin lỗi họ và trình bày.
"Tôi thấy trong ấp Tà Rầu có một em bé bị trói tay chân vào giường. Quý ông phải giải cứu nó ra chứ"
Tôi chưa dứt lời, ông xã trưởng đã bảo:
"Chúng tôi đang nói chuyện đó, đó"
"Nhưng chính quyền phải can thiệp…"
"Cậu ngồi xuống đây, rồi ông cảnh sát giải thích cho cậu nghe. Chuyện nầy đâu phải xãy ra lần đầu. Hôm qua, tôi có nghe ông trưởng ấp báo cáo rồi, tôi đã cho người lên mời Ty Sắc Tộc xuống giải quyết, họ hẹn sáng nay đến nên chúng tôi phải ngồi chờ đây, chứ thứ bảy ai mà làm việc. Nhờ ông cảnh sát giải thích cho cậu đây rõ."
Anh cảnh sát rót cho tôi tách trà rồi nhởn nha nói:
"Anh làm bên hội thánh phải không? Oâng mục sư cũng biết chuyện nầy rồi. Ai cũng biết, chỉ có anh chưa rõ thôi. Nó rắc rối ở chỗ đó, tục lệ của đồng bào thiểu số mà luật pháp mình không áp dụng được. Eùp nó, nó quâïy lên, chẳng hại gì mình nhưng đồng bào bị vạ lây."
Tôi sốt ruột.
"Nhưng dù tục lệ gì cũng phải cởi trói cho người ta chứ"
"Năm kia, ông quận có xuống cởi trói cho con nhỏ, mấy bữa sau bị đau sao đó. Nghe đồn bị thư bùa ngãi, bụng bị sưng lên, phải ra ngoài Hương Hóa, Quản Trị rước thầy ngãi về trị mới khỏi".
"Nhưng nó là ai mà ngang ngược như thế?"
"Là ai? Chồng con nhỏ đó nhứ ai".
"Trời đất!."
"Năm kia, con người ta mới mười một tuổi mà nó đòi ngủ, con nhỏ nửa đêm vùng bỏ chạy, la khóc. Nó lôi vô lột áo quần, trói ở chân giường mấy ngày, bỏ đói bỏ khát. Oâng quận xuống xữ, nó không chịu, ông phải đích thân cỡi trói, đem con nhỏ gửi nhà khác, nhưng không ai dám nhận, sợ nó thư bàu ngải. Cuối cùng phải năn nỉ, giải thích cho nó biết là con nhỏ còn con nít, phải chờ đủ mười ba tuổi mới được. Năm nay, con nhỏ vừa đủ mười ba tuổi, nó lại dở trò cũ. Nói trói lại đánh đập cách nào con nhỏ cũng không chịu. Chẳng biết lát nữa Ty Sắc Tộc xuống giải quyết thế nào đây!"
"Nhưng muốn có vợ thì thiếu khối gì đàn bà, con gái lớn tuổi, sao lại nhè đứa con nít. Nói đồng bào trong ấp cưới cho nó con vợ."
"Nó cũng có vợ đấy chứ. Vợ nó là chị con nhỏ kia."
Tôi ngớ ra chẳng hiểu gì cả. Anh cảnh sát cười.
"Bây giờ rảnh rỗi, tóm tắt cho anh nghe. Gia đình con nhỏ đó có ba chị em. Hai con chị đã lớn chỉ có con út nầy còn nhỏ thôi. Chị lớn nó có chồng đang ở bên Tà Rầu một, con chị kế có chồng là thằng cô hồn dịch vật đang nói đây. Lâu rồi, lúc còn ở trong buông sóc ở trong A Sao, A Lưới kia, ông già của ba cô gái nầy chết, nhà nghèo quá, không có trâu, gà, chiêng, cồng để cúng Yang, làm ma chay đãi làng. Thằng rễ cô hồn nầy mới mua cô út bằng mấy trâu gà gì đó về làm vợ. Vậy là nó có hai vợ, một đứa lớn và một đứa năm bảy tuổi. Nghe nói trong buông nó là đứa quyền hành, giàu có kiểu như cường hào ác bá vậy. Bây giờ ở đây, nó không làm gì nhưng ai cũng sợ nó, cả đến đồng bào kinh cũng không dám rây vào. Chính quyền cũng chịu thua, chẳng có cách nào trừng trị nó cả."
"Dù sao cũng phải cứu em nhỏ ra. Để vậy nó bỏ đói, đánh đập riết em chắc chết."
"Để chờ Ty Sắc Tộc xuống xem sao. Năm kia đem ra xử, nó nói con chị lớn muốn bắt em lại phải trả đủ trâu bò, chiêng cồng gì đó. Mà tiền đâu chị nó chuộc em ra ."
Một ý nghĩ thoáng trong đầu, tôi hỏi tên em nhỏ và tên người chị lớn rồi cám ơn, lên xe qua Tà Rầy 1. Chị ta phản phất giống em nên tôi nhận ra ngay. Tôi bảo:
"Nầy Hrao, em của chị bị cột chân tay, bị đánh đau, bị đói bụng bên Tà Râu 2, chị biết không?"
"Tao biết mà không làm gì được. Nó là vợ thằng K’hiu rồi"
"Nhưng phải cứu H’rao ra, chị không thương H’rao sao?"
"Tao thương H’rao đầy một bụng, nhưng không có tiền trả cho nó"
"Nếu tôi đưa tiền cho chị, chị có chuộc được H’rao ra không?"
Chị bỗng lôi tuột tôi vào gốc nhà, thì thầm:
"Thằng K’hiu có cái tai nghe xa lắm. Nó ác như con cọp, con rắn. Nó giết mầy chết. Mầy có tiền muốn mua H’rao, phải đưa tiền cho tao. Khi H’rao về nhà tao, mầy đến dẫn về nhà mày làm vợ, không cho thằng K’hiu biết mày ở đâu."
"Tôi không có tiền ngay, phải ít hôm nữa. Bây giờ tôi đưa chị qua bên xã, bên đó có nhiều người lắm. Oâng xã trưởng, ông cảnh sát, ông sắc tộc làm chứng khi K’hiu đòi tiền chuộc, chị hỏi nó bao nhiêu rồi cho tôi biết. Chị nhớ hẹn nó ba ngày nữa đưa tiền. Nhớ mời nhiều người đến cho họ thấy chị đưa tiền rồi dẫn Hrao về."
Chị ta mừng rỡ.
"Mầy chở tao qua xã thôi, còn mầy đi đi, đừng cho thằng K’hiu thấy"
Tôi đưa chị qua xã rồi về Huế dọ giá chiếc xe gắn máy của tôi. Hôm sau tôi lên hỏi chị và thấy số tiền cũng khoảng chiếc xe. Tôi về bán xe đưa tiền cho chị., còn một ít tôi mua chiếc xe đạp.
Một buổi sáng, chờ trong ấp vắng người, tôi đến nhà chị. Chị lại lôi tôi vào sau nhà. Em H’rao đang ngồi nấu gì đấy, ngẩn lên thấy tôi, em đứng dậy, nhìn sửng tôi. Người chị bảo:
"Vợ mầy đó, Hrao ưng mầy lắm. Mầy và Hrao nằm đây".
Chị chỉ chiếc giường rồi đóng các cửa lại và đi ra ngoài. Tôi dìu em H’rao đến bên giừơng ngồi xuống. Em vòng tay ôm lấy tôi, úp mặt vào ngực tôi yên lặng. Tôi không nghe em khóc nhưng nước mắt thấm ướt cả áo tôi. Em H’rao nhỏ quá, ốm quá. Tôi ôm vai em mà xương vai cợm rõ trong bàn tay tôi. Em vẫn mặc chiếc áo rộng thùng thình như hôm trước, một chiếc váy vải đen thô dài phủ cả bàn chân, có lẽ là váy của người chị.
"Em được về đây, anh mừng lắm. Anh ngồi với em một lác rồi anh về"
Em ngước nhìn tôi ngạc nhiên.
"Em không về nhà anh à?"
"Không!, em vẫn ở đây với chị em, thỉnh thoảng anh ghé thăm em"
"Nó sẽ giết anh, giết em. Nó nói, em nói chuyện với ai, nó sẽ giết hai đứa".
"Anh sẽ ít gặp em, em đừng sợ"
Em vẫn lắc đầu.
"Không, em là vợ anh mà!"
"Anh còn đi học, không có tiền nuôi em, không có nhà để ở. Em còn nhỏ quá, làm vợ chưa được. Em chờ anh hai năm nữa, học xong, anh sẽ đi làm, có tiền cưới em về sống với anh."
Aáp Tà Rầu 1 nằm cạnh lăng Minh Mạng. Lăng xây trên một ngọn đồi, chung quanh có tường thành bao bọc, lại có những giòng nước, hồ sen. Phụ nữ sắc tộc thường đi dọc các con suối bắt ốc, hái rau. Họ đi buổi sáng đến trưa thì về. Tôi hẹn với em H’rao mỗi tuần vài ba buổi chiều gặp em ở sau lăng. Em cũng đi hái rau với các bạn. Thấy tôi, họ vẫy tay bảo"Mầy giữ nó, tụi tao về trước". Chúng tôi ngồi trên bờ suối, khuất sau những đám cỏ tranh hoang vu. Tôi giở trong xách tay ra một số quà rong. Ít trái cây, bánh và nước lạnh trong chai nhựa. Em Hrao rất thích những trái cây chua như cóc, me, ổi…Với chút muối ớt, đem bao nhiêu em dành ăn hết cả. Chúng tôi vừa ăn quà vừa chuyện trò. Tôi thích hỏi em đủ thứ chuyện để nghe em trả lời một cách ngây thơ, buốn cười. Em xem tôi như người anh đồng thời em dâng tôi thứ bản năng thiết tha, nồng nàn của một người vợ theo như truyền thống của sắc tộc em, đã là vợ khi còn rất trẻ.
Từ ngày em về với người chị, em là con chim sổ lồng. Em như cây hoa được chăm sóc, vun xới và bắt đầu có những nụ hàm tiếu. Em lớn nhanh và nẩy nở đến độ chỉ hơn một năm mà em đã đứng tới vai tôi rồi. Tâm hồn em cũng trửơng thành theo. Những lần gặp nhau, em vui mừng theo cách của một thiếu nữ đến với người yêu. Em thường bạo dạn ngồi sát bên tôi, tựa đầu vào vai tôi yên lặng thật lâu…Tôi về Hội Thánh lấy một số áo quần vừa tầm cho em. Hôm nào đến hẹn, em mặc áo đẹp ở trong , ngoài khoác một áo cũ. Khi chỉ còn hai chúng tôi ở bờ suối, em cởi áo ngoài, hãnh diện đến trước mặt tôi, nhìn tôi để chờ được khen.
Tôi ngắm em sững sờ.
"Hrao, em đẹp như tiên!"
"Em Hrao chỉ mặc áo đẹp cho anh nhìn thôi, không ai biết em đẹp hết."
Hai mắt em long lanh tuổi dậy thì , má em hồng, ngực em đã nhô cao, phập phồng sức sống, đùi em nở tròn, hằn rõ dưới lần vải. Tôi nhìn thấy và hãnh diện khi nghĩ đến khu rừng trinh nguyên, quí giá đó, trong một ngày trọng đại, tôi và em sẽ cùng nhau khai phá, thưởng thức sự huyền nhiểm của tình yêu vợ chồng. Tôi thường dặn em phải ăn và ngủ thật nhiều để mau lớn. Em vâng lời và khoe với tôi:
"Ở nhà em Hrao no rồi mà còn ăn nữa, hết buồn ngủ rồi mà còn nhắm mắt ngủ nữa".
Tôi khen em giỏi, em bảo:
"Nhưng khi Hrao về ở với anh, Hrao ít ngủ để anh ngủ nhiều, ít ăn để anh ăn nhiều".
"Để làm gì?"
"Hrao ra nương rẩy bứt lúa về nấu cho anh ăn no".
Em lúc nào cũng mơ đến một khung trời hoang dã, nhưng con chim rừng cùng bạn đời tung cánh trong cõi tự do, bao la.
Mùa xuân năm 1975, miền nam bị tấn công. Dân Huế hoảng hốt chạy cả vào Đà Nẳng. Năm Mậu Thân kinh hoàng với những vụ thảm sát tập thể khiến cho những người dù không liên hệ đến chính quyền cũng bồng bế nhau chạy giặc. Tôi cũng chạy vào Đà Nẳng, nhưng mấy hôm sau thành phôù cũng bị chiếm nốt. Rồi có thông cáo đồng bào phải trở về quê cũ. Đáng lẽ tôi về quê ở Quảng Ngãi nhưng tôi lại ra Huế, định dẫn em Hrao về với gia đình. Cha mẹ tôi chỉ sanh được tôi là con trai nên rất yêu thương. Tôi tin rằng em Hrao sẽ được chấp nhận như một nàng dâu, tuy còn trẻ nhưng xinh đẹp hiền lành.
Tôi về lại nhà trọ trong thành nội vào buổi chiều, qua sáng hôm sau ra đường Trần Hưng Đạo định đón xe lên Tà Rầu thì bị việt cọng chận bắt. Một tên bạn học trở cờ đã báo cáo tôi là tay sai C.I.A., trực tiếp chỉ huy là vị mục sư Tin Lành. Tôi bị nhốt vào lao Thừa Phủ. Họ đưa giấy bút bắt tôi thành thật khai báo. Viết xong, họ không chịu, bắt tôi viết lại, hằng chục lần, nhưng tôi có bietá C.I.A. đâu! Lúc đầu họ dỗ dành, sau hăm dọa, rồi họ bắt đầu tra tấn tôi, chết đi sống lại mấy lần. Suốt bốn tháng trường, đến khi nghĩ rằng mình không thể sống được, tôi đâm ù lì, bảo họ " cứ giết tôi đi, tôi chẳng có gì để khai cả". Thế rồi họ thả tôi ra.
Tôi về nhà trọ nằm liệt, chỉ conø da với xương. Người chủ nhà rất tốt, săn sóc tôi tận tình. Một thời gian sau đã khá, có thể đi vững, tôi ra đón xe lam lên Tà Rầu tìm em Hrao. Xuống xe ở chợ Tuần, tôi đi đò qua sông Hương, qua ngã lăng Minh Mạng đến ấp Tà Rầu. Tôi đi rất đúng đường, nhưng trước mặt tôi là quả đồi trọc, không còn chút dấu vết gì của đồng bào thiểu số cả! Họ đã đi sạch. Tôi lên đỉnh đồi nhìn quanh, chỉ thấy một cõi mênh mông vắng lặng. Tôi đi theo lối mòn và tìm thấy nền nhà của em. Tôi ngồi xuống, cảm thấy được gần gũi em. Đến chiều, tôi xuống đồi vào lăng Minh Mạng, đến bờ suối cũ và lại chờ em, tôi lấy trong xách tay ra một ít trái cây cho em, để đấy và dõi mắt tìm quanh…Thấy trời gần tối tôi đành quay về.
Những ngày sau đó, tuy người còn yếu, tôi vẫn lên vùng Nam Hòa, lang thang vào các nơi cũ, hi vọng được gặp em. Một buổi chiều, đang đứng trên đồi, chợt tôi thấy bên kia, nơi những ngôi mộ người thiểu số, thấp thoáng bóng người sắc tộc. Tôi mừng rở chạy băng qua, họ sẽ giúp tôi biết được em Hrao ở đâu. Khi tôi đến nơi thì hình như họ vừa cúng lễ gì đó xong. Một đám lữa gần tàn, một ít đồ gia dụng, áo quần, ống vố, chà gạt…để cạnh một ngôi mộ. Đó là những người trong ấp trước đây, chúng tôi mừng rỡ khi nhận ra nhau.
"Đồng bào cúng gì đó?"
"Tao cúng bỏ mả, tao không ở đây nữa, không đem cơm, đem thịt cho nó nữa. Tao cúng bỏ nó, nó theo Yang để có cái ăn, cái uống".
"Bây giờ đồng bào về lại trong núi rồi hả?"
"Tao về lại buông rồi".
"Có xa không?"
"Tao đi từ sáng, bây giờ về lại trong buông".
"Gia đình người chị và em Hrao có về đó không?"
"Chị Hrao về đó, nhưng Hrao không về".
"Sao vậy?Bây giờ em ở đâu?"
"Trong mả. Mầy hỏi nó".
"Tôi đến bên mộ em, quì xuống, vuốt ve nấm mộ.
"Anh vẫn không tin rằng em đã chết. Em hứa với anh sẽ ra rẫy, ra nương làm việc, sẽ nấu cho anh ăn, sẽ sinh cho anh nhiều con. Em quên rồi sao? Dậy với anh đi em. Em ra suối bắt ốc, hái rau. Anh ngồi chờ em mấy bửa nay ngoài đó".
Tôi cứ lảm nhảm một mình cho đến tối mịt mới về. Chiều hôm sau lên mộ em, tôi đem theo một ít hoa và những trái cây em thích. Tôi đặt các thứ lên một tờ báo, thắp nhang và quỳ lạy em. Tôi cứ quì như thế, lòng mơ tưởng đến hình bóng em, nhớ lại những ngày em và tôi bên nhau…Khi trời về chiều, có tiếng chân lên đồi, tôi quay lại, thấy chị của Hrao và chồng đang đi tới. Họ thấy tôi, giật mình sợ hãi, lùi lại.
"Mầy là ma phải không? Mầy chết rồi mà".
"Không tôi còn sống đây."
"Mầy giống con ma, mầy ốm quá".
"Chị nói tôi nghe, em Hrao còn sống phải không? Người chết trong mộ nà6y không phải Hrao mà".
"Hrao chết rồi, nó nằm đó. Tao đến đây làm lễ bỏ mả nó"
"Chị kể tôi nghe, vì sao Hrao chết"’?"
"Hôm súng nổ, đồng bào kinh sợ lắm chạy trốn hết. Rồi bộ đội lên làm ấp trưởng, xã trưởng. Ít lâu sau có mấy thằng bộ đội lên hỏi về mày, về ông mục sư. Ai nó cũng hỏi. Sau nó biết Hrao là vợ mà6y, nó hỏi Hrao nhiều lắm. Tao nghe nó nói vơi Hrao:
"Mầy phải nói hết cho tao. Nó mua mầy làm vợ để mầy làm gì cho nó, cho thằng mục sư? Mầy đừng sợ nó, thằng chồng người kinh của mầy chết rồi, nó không đòi trâu, đòi chiêng cống được nữa. Mầy cứ nói thật cho tao nghe." Hrao hỏi:"Tại sao mầy biết chồng tao chết?" Thằng bộ dội nói:"Chính mắt tao thấy". Hrao kêu lên:"Mầy giết chết chồng tao rồi!" và ngã xuống đất. Một lúc sau tỉnh dậy, chỉ khóc chứ không ăn gì hết. Hrao kêu tên mầy mấy ngày mấy đêm rồi chết. Tao biết thằng K’hiu đã sai con ma bóp cổ Hrao, nó không ăn được, không thở được".
Tôi lặng người vì đau khổ và xót thương em. Tình em đối với tôi đơn sơ biết bao. Em tưởng tôi đã chết nên nhịn đói để chết theo tôi!
Vợ chồng chị lôi trong gùi ra lễ vật. Người chồng chôn một cây cọc và cột một con gà nhỏ còn sống bên mộ em, xếp một đống củi và bắt đầu đốt lữa lên. Chị thì đặt trên những tàu lá chuối, cơm và thức ăn, bên cạnh là tài sản sơ sài của riêng em. Mấy cái chén, đĩa, vài cái áo quần, một số kẹp tóc, và hai cái nịch ngực mà tôi nhớ trước đây đã mua cho em"Anh không muốn ai nhìn thấy ngực em cả". Nhưng hôm sau em bảo"Hrao không mặc được, thở không được" Tôi nói với chị xin giũ lại chiếc áo hoa và chiếc quần đùi mà em đã mặc lần đầu tôi gặp ở dưới suối."Không được đâu, mầy lấy áo quần của Hrao, nó sẽ theo mầy về nhà đó""Thật không, nếu vậy em Hrao sẽ ở bên tôi suốt đời".
Chị ngồi xuống, người chồng ngồi bên cạnh, dùng cái dùi quấn vải gỏ lên cái côøng bắt nhip và chị bắt đầu khấn vái. Giọng chị đều đều, buồn thảm trong tiếng gió lộng, tiếng lửa cháy tí tách và tiếng cồng ngân nga vang vọng. Tôi quì xuống chấp tay, nhắm mắt lại. Tôi thấy em Hrao đứng nhìn tôi, đôi mắt đen lánh, ngập tràng yêu thương, rồi em sà vào lòng tôi, đầu tựa vào ngực tôi. Từ mái tóc em, từ người em mùi thơm trinh nữ quen thuộc, ngọt ngào. Tôi hôn em, thì thầm "Hrao, em yên lặng nghe chị em làm lễ cầu hồn cho em".
"Ơi em Hrao"
"Hôm nay, áo quan đã làm rồi, đã đóng lại rồi, đã buộc lại rồi, các kút cũng đã được tạc rồi. Chị đem cơm đến đây cho em ăn, đem rượu đến đây cho em uống, bởi vì từ nay chị sẽ bỏ em, chị sẽ quay lưng lại em.
"Đất đỏ ở dưới, đất đen ở trên, em ở trong áo quan, em ở trong mả, nhà của em ở giữa rừng tranh, ở giữa rừng sậy, em ở một miền đất khác, em uống những giòng nước khác.
"Xin em đừng kkêu gọi, đừng lại gần, đừng thương yêu chị, đừng thương yêu cháu của emnữa.
"Từ naychị sẽ không còn mang cơm, không còn mang nước, chị sẽ bỏ mả và không còn săn sóc mả nữa.
"Nếu em muốn ăn cơm, xin em hỏi thần những vì sao, nếu em muốn ăn thịt gà, xin em hỏi thần mặt trăng, nếu em muốn ăn cá, xin em hỏi thăm cai quản trên trời. Một vị thần khác sẽ săn sóc, trông nom em.
"Em đã chết thật rồi, đã tan rã thật rồi, em là chim Hrao ở trong rừng rậm em là chim Tlang Heă sống ở phương Nam.
"Chị đã sửa sangmả rồi, đã tạc những cột kút, cột klao, đã vẽ những hình vẽ bằng máu trâu máu bò rồi.
"Thôi, từ nay thế là hết. Thôi từ nay thế là hết! Như lá M’nang đã lìa cành, lá M’tôi đã tàn úa.
"Từ nay không còn đào lỗ, không còn làm nhà chòi, không còn than không còn khóc nữa. Sẽ không đem của, đem tôm, đem cơm, đem raể tang, không còn kiêng cử nữa. Chóe rượu cúng Ngokbu đã đặt xuống mả rồi, cây chuối cây khoai đã được trồng lên mả rồi, con gà đã được thả bay đi rồi. Chị đã quên em rồi, đã bỏ em rồi.
"Oâi em Hrao, chị đã bỏ em rồi"
Chị đã dứt lời mà tôi vẫn còn quì và nhắm mắt. Tôi và em Hrao đang chìm đắm trong hạnh phúc của bao kỷ niệm cũ, bao ước mơ một ngày thành vợ thành chồng, quần quít bên nhau.
Chị đến bên tôi hỏi nho nhỏ:
"Mầy thương Hrao lắm sao? Mầy nhớ Hrao lắm hả?"
Bấy lâu nay tôi đã nuốt những giọt nước mắt vào lòng. Tôi cô đoơn quá! Giờ đây, nghe chị hỏi, tất cả nỗi buồn trong lòng, tôi không kềm được nữa. Tôi ôm chị khóc say sưa.
Bài nầy được trích trong Tập San Hoài Bão Quê Hương Số 5 của Tổng Hội CSV/QGHC.