Trận Phan Rang
Hồi ký chiến trường của cố Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang , Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không
Quân .

Nhớ lại suốt hạ tuần tháng 3 năm 1975, sau khi có lệnh bỏ Huế và Đà Nẳng, các
đơn vị ta cứ lần lượt tháo lui, làm các tỉnh thành, quận lỵ phải rút theo, tạo
ra cảnh đỗ vở tan thương cho không biết nhiêu gia đình quân nhân cũng như dân
chính. Tốc độ rút lui nhanh hơn tốc độ truy đuổi. Các đơn vị VC đến tiếp thu,
không bị đánh chận, nên cứ ung dung tiến văo thành phố đê bị bỏ ngỏ. Đến khi vào
tiếp thu Nha Trang, chúng vẫn cứ tin rằng Phan Rang cũng đã bỏ chạy, nên tiếp
tục cho các toán tiền thám cứ tiến vào. Ngạc nhiên, và cũng là lần đầu tiên bị
ngăn chận trước khi đến Phan Rang, chúng bèn tháo lui về hướng Bắc, vào ẩn nấp
trong vùng Ba Ngòi chờ viện binh. Mãi đến ngăy 16/4/1975, khi tung ra toàn lực
âp đảo, chúng mới vào được Phan Rang. Vào thời điểm các đại đơn vị ta rút lui,
mà không có một sự kháng cự đáng kể nào để làm khó khăn và thiệt hại cho đối
phương, thì căn cứ Phan Rang đã anh dũng chống cự, và đã làm thiệt hại đáng kể
cho quân đội chánh quy Bắc Việt.
Chiến trận tại Phan Rang có thể chia ra làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhứt từ ngày 1 đến 3/4/1975, là giai đoạn hình thành tuyến
phòng thủ, với Sư đoàn 6 Không quân và Tiểu đoàn 5 Dù thuộc Lữ đoàn 3 Dù cùng
một số đơn vị địa phương quân còn lại.
Sư đoàn 6 Không quân gồm:
- 3 Phi đoàn A-37, 524, 534, 548
- 1 Phi đội A-1
- 2 Phi đội tản thuơng 259 B và 259 C
- 2 Phi đoàn Trực thăng 229 và 235
Lữ đoàn 3 Dù gồm:
- Bộ chỉ huy
- Tiểu đoàn 5
Giai đoạn thứ hai từ ngày 4 đến 12/4/1975, là giai đoạn củng cố tuyến phòng
thủ, với sự thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3, với Lữ đoàn 2 Dù. Đây
là thời gian đem đến ít nhiều lạc quan trong việc ổn định tình hình sau nhiều
ngày xáo trộn. Một số đơn vị nhỏ của địch đã hoàn toàn bị đẩy lui khỏi đèo Du
Long rút về ém quân tại khu Vườn Dừa, Cam Lâm đợi tăng viện.
Lử đoàn 2 Dù gồm:
- 3 Tiểu đoàn 3, 7, 11
- 1 Tiểu đoàn Pháo binh
- Các đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận .
Giai đoạn thứ ba từ 13 đến 16/4/1975, là giai đoạn của trận chiến quyết
định, với các đơn vị gồm:
- Liên đoàn 31 Biệt động quân gồm 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52.
Tăng cường cho Bộ Tư Lệnh Tiền phương: - Toán Thám sát/Nha Kỷ thuật .
Sư đoàn 2 Bộ binh gồm:
- 2 Trung đoàn 4 và 5
- 2 Pháo đội gồm 10 khẩu 105 ly
- 2 Chi đội Thiết Vận Xa gồm 10 chiếc
Lực lượng Hải quân gồm:
- Duyên đoàn 27
- 2 Khu trục hạm
- 1 Giang pháo hạm
- 1 Hải vận hạm và một số tàu yểm trợ .
Trong 2 ngăy 13 và 14, Lữ đoàn 2 Dù được lịnh rút về Saigon. Liên đoàn 31
Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh ra thay. Vừa thay quân vừa chiến đấu, và
phòng tuyến Phan Rang bị tràn ngập vào trưa ngày 16/4/1975, bởi 2 sư đoàn VC 325
và 3 Sao vàng, cùng với các đơn vị của Đoàn 968 VC. Trong ngày 14/4/1975, ngoài
Duyên đoàn 27 đã có mặt tại Phan Rang, Hải quân Saigon tăng cường khẩn cấp 2 Khu
trục hạm, 1 Giang pháo hạm, 1 Hải vận hạm cùng một số tàu yểm trợ.
Lực lượng địch: Theo tù binh thuộc Đoàn Hậu cần 57 địch bị bắt tại đèo Du
Long ngày 9/4/1975, các cấp chỉ huy địch ngở Phan Rang đã bỏ chạy, nên tiếp tục
cho các bộ phận truy đuổi, cứ yên tâm tiến vào tiếp thu. Bị đánh đuổi, chúng lui
về lẫn trốn vùng Vườn Dừa, Ba Ngòi chờ đại quân của 2 Sư đoăn 3 và 325 VC từ
phía Bắc đến. Các nhóm du kích vẫn hoạt động gần phi trường. Đoàn 968 VC vừa ghi
nhận có mặt. (xác nhận bởi Đại tá Nguyễn Thu Lương và Trung Tá Phạm Bá Mạo khi
bị đơn vị nầy bắt tại mặt trận.) .
I. HÌNH THÀNH TUYẾN PHÒNG THỦ
Kể từ ngày 1/4/1975, sau khi Nha Trang bỏ ngỏ, căn cứ Phan Rang đương nhiên
trở thành căn cứ tiền tuyến của Miền Nam. Buổi tối cùng ngày, Trung tá Lê Văn
Phát, Lử đoàn trưởng Lử Đoàn 3 Dù cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn và một phần của Tiểu
đoàn 5, trên đường rút từ Khánh Dương xin vào để chờ phi cơ về Saigon. Căn cứ
tôi lúc bấy giờ rất là trống trải, vì một số lớn quân nhân Địa Phương Quân canh
gác vòng đai đã bỏ nhiệm vụ. Trong căn cứ, một số quân nhân trẻ nổ súng loạn xạ
vì lo sợ vu vơ. Ngoài thị xã, Tỉnh trưởng đã rời nhiệm sở, dân chúng thì ngơ
ngác, phân vân. Trên quốc lộ 1 và 11 hướng về Saigon, từng đoàn xe dân sự và
quân sự chật nứt người rầm rộ tiếp nối nhau chạy giặc. Tệ hại hơn nữa là Đà Lạt
cũng bỏ chạy, và đoàn xe của Trường Võ Bị Đà Lạt đang theo Quốc lộ 11 trên đường
đi Bình Tuy cũng vừa chạy ngang căn cứ. Lúc nầy thực sự, căn cứ tôi đang trở
thành tiền đồn và đang ở trong tình trạng hết sức cô đơn.
Chuẩn bị tìm phương kế giữ an toàn, tôi chỉ thị hạn chế sự ra vào căn cứ để
tránh xáo trộn do toán người tháo chạy mang đến. Vì vậy nên khi nghe có đơn vị
Dù xin vào căn cứ, tôi liền hỏi xin lệnh Bộ Tư Lệnh KQ. Được biết đó là do Bộ Tư
Lệnh Dù yêu cầu để Lử đoàn III được vào căn cứ như đơn vị tăng phái phối hợp
phòng thủ, tôi mới thuận cho đoàn quân của Trung tá Phát vào phi trường. Thật là
đúng lúc cần thiết và tôi rất bằng lòng có thêm người để giử an toàn cho căn cứ
hiện trong tình trạng bỏ ngỏ. Tôi phối họp ngay với Trung tá Phát để phối trí
việc phòng thủ căn cứ với Không đoàn Yểm Cứ của Trung tá Phạm Bá Mạo và Trung tá
Nguyễn Văn Thiệt vì căn cứ mênh mông với vòng đai hình vuông mỗi cạnh 6 km, mà
Liên đoàn Phòng Thủ chỉ có khả năng phụ trách canh gác vòng đai gần mà thôi. Dù
muốn dù không, căn cứ không quân Phan Rang đã trở thành tiền đồn của Miền Nam mà
tôi đang là người có nhiệm vụ phải chống giữ. Tôi chỉ thị Trung tá Diệp Ngọc
Châu Phụ tá Nhân Huấn phải theo dỏi sát vấn đề nhân viên, để đừng xảy ra tình
trạng bung chạy, vì quá hoang mang, giao động trước việc, có thể chiến đấu như
bộ binh.
Trung tá Phát xử dụng Đại đội Trinh sát Dù, bung ra kiểm tra nội vi căn cứ
và đánh đuổi một vài tên du kích mon men vào Đồn Đại Hàn gần cổng số 2 của căn
cứ. Về phần Không quân, câc cấp phi hành và kỷ thuật đêù am hiểu tình hình mới,
chấp nhận thực trạng và hết mình nổ lực chiến đấu vì nhu cầu phòng thủ. Vào buổi
chiều, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2 ghé căn cứ thăm hỏi tình
hình. Sáng hôm sau, rời căn cứ bay về Saigon.
Ngày 2/4/1975, Saigon tăng cường
một đơn vị Dù. Trung tá Phát liền xử dụng để kiện toàn an ninh cho phi trường và
phối hợp với các đơn vị Địa phương quân trong việc giữ an ninh cho thị xả. Lúc 2
giờ chiều, tôi bay xuống Phan Thiết đón Trung tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân
đoàn 3. Khi gặp tôi, ông nói sở dĩ muốn gặp tôi tại Phan Thiết là để xác nhận sự
hiện hữu của Phan Rang, mà giờ nầy lẽ ra cũng đã bỏ chạy như Nha Trang và Cam
Ranh rồi. Sau khi nghe tôi thuyết trình tình hình, Trung tướng Toàn nói:" kể từ
buổi thị sát nầy, Phan Rang sát nhập vào Quân đoàn III, trở thành cứ điểm cực
Bắc của quân đoàn." Cùng ngày tôi nhận được lệnh Bộ tổng tham mưu chỉ định tôi
phụ trách bảo vệ Phan Rang.
Ngày 3/4/1975, TĐ5 Dù để tạm kiểm soát các khu vực cạnh thị xã và nội vi
phi trường. Từ Ba Râu đến Thị xã, dân chúng bớt hoảng sợ mặc dầu sanh hoạt vẫn
còn rụt rè. Trong căn cứ Không đoàn Yểm Cứ đã chấn chỉnh an ninh nội bộ khiến
cho căn cứ lần lần lấy lại sinh hoạt bình thường.
Đại tá Lê văn Thảo Không đoàn trưởng Không Đoàn 92 Chiến Thuật với 3 phi
đoàn A-37, 524 Thiên Lôi, 534 Kim Ngưu và 548 Ó Đen. đã sát cánh cùng đoàn viên
xuất kích đêm ngày rất hữu hiệu. Trung tá Lê Văn Bút Không đoàn trưởng Không
Đoàn 72 Chiến Thuật với 2 phi đoàn trực thăng 229 và 235, 1 phi đoàn Quan sát
118 và một bộ phận của Phi đoàn 530 A-1 với Phi đội tản thương 259 C, đã bay thi
hành nhiều công tác khó khăn nguy hiễm. Trung tá Đổ hữu Sung và đoàn kỷ thuật
gan dạ, chu toàn mọi công tác sửa chửa và trang bị dưới làn pháo kích ngày đêm
của địch.
Theo tin tức của các quân nhân ta từ các nơi ghé xin phương tiện về Saigon,
thì VC đang xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ngòi. Tôi liền cho phi cơ quan sát bao vùng
và chỉ điểm cho phi cơ A-37 đánh phá. Cộng thêm các khó khăn, việc tiếp tế nhiên
liệu đang gặp trở ngại vì xe bồn không cung cấp như bình thường, bởi cảng Cam
Ranh đã bị địch chiếm. Vì vậy hàng ngày, tôi phải nhận tiếp tế từ Saigon bằng
phi cơ C-130, một số lượng nhiên liệu tối thiểu cho hành quân mà thôi. Để tránh
hỗn loạn khi bị pháo kích dồn dập, tôi cũng phải cho nửa số phi cơ về trú đêm ở
Saigon, để sáng hôm sau trở ra với đầy
nhiên liệu.
Trong ngày, khi biết có tàu Mỹ đang lảng vảng ngoài vịnh Phan Rang để chở
một số người, tôi liền cử Trung tá Lê Văn Bút dùng trực thăng đáp trên một
trong những tàu đó để chào hỏi và cho biết hiện tình ở Phan Rang. Tiếp đón và
trả lời những điều muốn biết trong lối 1/2 giờ, Hạm trưởng thúc giục Trung tá
Bút rời tàu. Xuyên qua lời trình thuật của Trung tá Bút, tôi đê hiểu rỏ ràng là
trong cấp thời, Mỹ không còn có ý định dính líu gì nửa đến cuộc chiến đang diễn
tiến hiện nay.
II. BỘ TƯ LỆNH TIỀN PHƯƠNG
Phan Rang nằm vào phía Nam của một thung lũng hẹp bao bọc bởi các dải núi
về hướng Tây, Bắc và Đông Bắc, có các cao điểm và đèo Du Long rất thuận tiện cho
việc phòng ngự. Ngày đêm phi cơ trong căn cứ liên tục quan sát bao vùng và oanh
tạc ngay các mục tiêu bị phát hiện. Các đơn vị VC đã tiến quá xa với hậu tuyến
của họ. Họ chỉ mới tiếp thu Nha Trang và Cam Ranh. Với mức độ hành quân 10 cây
số ngày hoặc gia tăng với phương tiện chiếm được thì không thể tập trung tấn
công ngay được. Có thể có những phần tử lẻ tẻ đã xâm nhập và đang ém quân, nhưng
ngoài ra Phan Rang chưa có nguy cơ bị tấn công ngay bởi quân chánh quy. Muốn tấn
công, có thể chỉ có từ 2 hướng: Một là từ hướng Bắc, theo QL 1 tiến qua đèo Du
Long thẳng vào thị xả và hai là từ hướng Tây tấn công từ Khrông Pha qua Tân Mỹ
hướng về thị xả Phan Rang. Ngoài ra còn có một ít đường mòn từ Vườn Dừa, Ba Ngòi
chạy theo hướng Nam Tây Nam sát căn cứ KQ hướng về Tân Mỹ có thể chọn để xâm
nhập được. Trong lần bay quan sát chiều ngày 14.4.75, tôi thấy một vài thiết vận
xa địch trên những đường mòn nầy vào hướng Tây Bắc của căn cứ, cách khoảng 8 km.
(Đương nhiên, khi bị phát hiện, chúng đều lẫn trốn trước khi bị oanh tạc.)
Thị xã và Phi trường Phan Rang nằm vào phần
Nam của cái thung lũng đó. Quốc lộ 1 và đường
xe lửa chạy song song xuyên qua đèo Du long về thị xả, tách ra tại Thôn Ba Râu,
chạy sát phi trường rồi tiến về Nam không qua thị xã. Từ thị xã đến Du Long
khoảng 15 km với Ba Râu khoảng 9 km và với Cà Đú khoảng 4 km. Từ Cà Đú đến thị
xã, mặt đất bằng phẳng. Phi trường Phan Rang rất rộng, hình vuông, mỗi cạnh trên
dưới 6 km, nằm giữa QL 1 và QL 11 và sát với đường xe lửa về hướng Đông, cách
thị xả 5km và Nha Trang khoảng 80km. Có 2 đường bay song song, 1 bằng xi măng
cốt sắt vă 1 bằng vĩ nhôm dài 10.000 bộ, rộng 150 bộ. Có đầy đủ cơ sở cho kỷ
thuật, tiếp liệu với các bồn xăng và kho bom theo tiêu chuẩn an ninh tối tân.
Việc phòng thủ bao gồm 60 chòi gác, với 2 cổng chung quanh căn cứ do 7 đại đội
Địa phương quân phụ trâch.
Ngày 4.4.1975, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chánh thức đến Phan Rang cùng
với toán truyền tin và chuyên viên, nhận trách nhiệm phòng thủ Phan Rang, và
thiết lập Bộ chỉ huy Tiền Phương trong Căn cứ của Sư đoàn 6 Không quân, nằm vào
lối 5km Bắc Tây Bắc của Thị xã Phan Rang. Ông cho biết là đã được Thượng cấp
chấp thuận gởi ra một số đơn vị chưa bị ảnh hưởng của việc rút quân để giữ Phan
Rang. Bởi tin tưởng vào lời hứa hẹn nầy, nên Ông rất vui lòng đảm nhận chức vụ .
Vì địa thế của Phan Rang có nhiều thuận lợi cho việc phòng thủ, nên Trung tướng
Nghi quan niệm: " Phải chống giữ mặt Bắc từ Quận Du Long, mặt Tây từ Quận Tân Mỹ
và phải giữ an toàn cho căn cứ Không quân, cũng như giữ an ninh cho Thị xả phối
họp với một số đơn vị Địa phương quân còn lại."
Theo quan niệm đó, Trung tướng Nghi thảo ra kế hoạch phòng thủ Phan Rang
với một lực lượng cở 2 sư đoàn mới có thể trong tạm thời phòng thủ được. Đó là:
**Mặt Bắc, trên Quốc lộ 1 trấn giữ các điểm cao tại đèo Du long với một dải
chiến tuyến hùng hậu tại Du Long cùng các tuyến phụ tại Ba Râu và Ba Tháp để
ngăn chận mọi cuộc tấn công hướng vào thị xả hoặc vào căn cứ.
**Mặt phía Tây, trên Quốc lộ 11, án ngữ tại vùng Tân Mỹ, một chiến tuyến để
chận địch và bảo vệ mặt Tây và Nam của phi trường.
**Bảo vệ an ninh cho thị xả và phi trường do các đơn vị chánh quy phối hợp
với Địa phương quân phụ trách.
Ngày 5.4.1975. Trong ngày, thỉnh thoảng vẫn có vài quân nhân Không quân
thất lạc trình diện xin phương tiện về Saigon
và luôn xác nhận là vẫn có một số VC xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ngòi. Chúng nói vì
có quân Dù của ta ở phía trước nên chúng còn nấp chờ chi viện. Ngoài ra Tướng
Times, phụ trách an ninh cho Tòa Đại sứ Mỹ, đến thăm và nói sẽ sắp xếp cho người
của ông thường xuyên ở lại đây, để chuyển tin ngay về tòa đại sứ. Trong mấy ngày
qua, tôi đã điều hành công việc như là cấp có trách nhiệm ở Phan Rang, ngoài
trách vụ chuyên môn là phụ trách Sư đoàn 6 KQ. Vô tình tôi đã biến căn cứ Không
quân Phan Rang thành một cứ điểm phòng thủ tiền tiêu của cuộc chiến tranh rất
phức tạp nầy.
Ngày 6.4.1975, sinh hoạt trong căn cứ không quân đã có sự bình thường và
các phi vụ đều được thi hành như thông lệ. Thêm một số quân nhân của 7 Đại đội
Địa phương quân phụ trách canh gác vòng ngoài phi trường tiếp tục trở về. Quân
địch sau khi chiếm Nha Trang, liền vội vã đến tiếp thu Cam Ranh. Toán viễn thám
của họ theo đã chạy tiếp thu, có thể đã xâm nhập từ Vườn Dừa, Ba Ngòi, qua đồi
Du Long, xuống về phía Nam. Các Sư
đoàn xâm nhập chưa thấy xuất hiện. Chỉ biết có đơn vị F-10 hoặc 968 đang lẩn núp
xâm nhập lẻ tẻ.
Ngày 7.4.1975 là ngày đáng ghi nhớ. Đại tá Trần Văn Tự, Tỉnh trưởng Phan
Rang, vừa trở về với một số công chức, và đang tập họp các lính Địa phương quân
và Nghĩa quân. Đại tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Dù, với 3 Tiểu
đoàn 3, 7, 11 và 1 Tiểu đoàn Pháo binh cùng các Đại đội Trinh sát, Công binh,
Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận lần lượt đến căn cứ. Trung tướng Nghi liền
giao cho nhiệm vụ chiếm các cao điểm và tổ chức tuyến phòng thủ tại Du Long mặt
Bắc và tại Tân Mỹ mặt Tây. Tập trung lực lượng khi cần để chận không cho địch
vượt qua Du Long. Xử dụng Tiểu đoàn 5 Dù của Trung tá Phát hiện có mặt tại căn
cứ giữ an ninh cho phi trường.
Ngày 8.4.1975, khi đơn vị cuối cùng của Lữ đoàn 2 Dù đến căn cứ, Đại tá
Lương liền điều dộng giải tỏa đoạn Quốc lộ 1, từ Thị xã đến Du Long, qua các
Thôn Cá Đú, Ba Tháp, Ba Râu và Du long, với 2 Tiểu đoàn 11 và Tiểu đoàn 3. Trên
đường tiến quân, Tiểu đoàn 3 Dù đuổi địch chạy tán loạn khỏi Ba Tháp và Ba Râu.
Địch tổn thất khoảng một đại đội với nhiều vũ khí. Tiểu đoàn 11 được trực thăng
của Sư đoàn 6 Không quân, đưa đến chiếm Du Long, và các cao địa trọng yếu kiểm
soát đường đi Du Long. Bắt sống tại đèo Du Long, 7 xe tiếp tế thuộc đoàn hậu cần
địch cùng một số quân lính VC, vì ngở Phan Rang đã bị chúng chiếm, nên cứ ngang
nhiên di chuyển. Đồng thời, tìm thấy bộ đồ bay của Trung úy Lý Tống, thuộc Không
đoàn 92 Chiến thuật/ Sư đoàn 6 Không quân, còn để tại vùng đèo Du Long, khi phi
cơ A-37 của mình vừa bị bắn rơi, lúc cùng phi đội oanh tạc khu Vườn Dừa. (Trung
úy Lý Tống là người đã thả truyền đơn chống cộng tại Saigon năm 1992, tại Cuba
trong năm 2000 và tại Saigon cuối năm 2000, nhân dịp Tổng Thống Bill Clinton đến
thăm Việt Nam.)
Tại phía Tây, phần lớn của Tiểu đoàn 5 Dù đã trấn ngữ đầu cầu hướng về Tân
Mỹ, ngừa được sự tấn chiếm từ hướng nầy. Trong căn cứ, toán Trinh sát Dù cũng
lại đuổi khỏi đồn Đại Hàn một số quân nhân địch vừa lén lút xâm nhập. Tiểu đoàn
7 trừ bị giám sát việc giữ an ninh trong căn cứ không quân với Tiểu đoàn 5 của
Lữ đoàn 3 Dù. Kết quả là trong ngày nầy, Phan Rang đã hoàn toàn kiểm soát được
tình hình vốn bị trì trệ từ khi Nha Trang và Cam Ranh tháo chạy. Buổi sáng, lúc
Trung úy Nguyễn Thành Trung vừa oanh tạc Dinh Độc Lập, thì Bộ Tư Lệnh Không Quân
bảo tôi phải cho ngăn cản và bắt đáp, nếu Trung bay qua Phan Rang. Lệnh đã được
cấp tốc thi hành, và Trung đã không bay qua đây. Đặc biệt Cha giáo sứ Hồ Diêm,
với niềm phấn khởi, đến thăm Trung tướng Nghi để hoan nghênh quân Dù đã giải tỏa
được Phan Rang. Điểm đáng đề cao là chính Cha, cùng với lực lượng Nghĩa quân và
Nhân dân tự vệ của giáo sứ, đã thành công bảo vệ địa phận mình chống lại các cố
gắng len lỏi xâm nhập của địch.
Ngày 9.4.1975, Trung tá Lê Văn Bút, Không đoàn trưởng Không đoàn 72 Chiến
Thuật, bay chỉ huy 40 trực thăng HU với 12 trực thăng Võ trang cơ hữu cùng 8
trực thăng Chinook từ Biên Hòa biệt phái. Mục đích là để lên Khánh Dương tìm
kiếm và chở về các toán còn kẹt lại của Lữ đoàn 3 Dù, gồm 2 Tiểu đoàn 2 và 6
cùng một số quân của Tiểu đoàn 5, lúc Nha Trang rút chạy. Cùng đi có Trung tá
Trần Đăng Khôi, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 3 Dù phụ giúp tìm kiếm, chọn bãi đáp để rước
toán thất lạc nầy trở về. Bấy giờ khu vực Khánh Dương đa trở thành vùng địch
kiểm soât, nên tôi cho bay theo 2 phi đội A-37 yểm trợ. Kết quả là đoàn trực
thăng đã mang về đến căn cứ Phan Rang, hơn 600 người mà phần lớn lă quân nhân
của các Tiểu đoàn 2 và 6, cùng một số thất lạc của Tiểu đoàn 5 với một số ít dân
sự chạy loạn đi theo. Toán nầy vào buổi chiều được chở toàn bộ vào Saigon. Cuộc
hành quân trực thăng vận thành công tốt đẹp, đem về được số quân nhân thất lạc
của Lữ đoàn 3 Dù. Thật đúng là một chuyến bốc quân lịch sử. Đoàn trực thăng 60
chiếc đã phải bay qua vùng địch chiếm với mọi hiểm nguy và bất trắc khôn lường.
Trong thị xã, Đại tá Trần Văn Tự Tỉnh trưởng tiếp tục chấn chỉnh các phần
vụ hành chánh, đồng thời lo chỉnh đốn hàng ngũ các đơn vị Địa phương quân. Ngoài
thị xã, dân chúng hãy còn e dè ở lại, nhưng không tuôn chạy nhiều như những ngày
trước. Cuộc sống có chỉ dấu trở lại bình thường, tạo nhiều phấn khởi.
Các ngày 10 và 11. 4.1975 có được sự yên tĩnh trong toàn bộ vùng Phan Rang.
Bộ Tư lệnh tiền phương đang trù tính kế hoạch chiếm lại Cam Ranh để sau đó lấy
lại Nha Trang. Địch sau khi bị đuổi khỏi các địa điểm xâm nhập đang tập trung ém
quân tại vùng Vườn Dừa ở Cam Lâm chờ đợi viện quân.
Ngày 12.4.75 là ngày khởi đầu có bất trắc trong việc phòng thủ Phan Rang.
Lệnh từ Quân đoàn III cho biết sẽ rút Lữ đoàn 2 Dù và Tiểu đoàn 5 Dù vào
ngày 13.4.1975, và thay bằng Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn, và Sư
đoàn 2 Bộ binh với 2 trung đoàn, cùng 2 Chi đội Pháo và Chi đội Thiết vận xa.
Liên đoàn 31 Biệt động quân vừa rút khỏi Chơn Thành, sau nhiều ngày tác chiến
gian khổ với nhiều tổn thất, chưa kịp nghĩ dưỡng quân, thì được tung ra tiền
tuyến với quân số thiếu thốn trầm trọng. Sư đoàn 2 Bộ binh cũng vừa tháo chạy từ
Quảng Ngải, vừa tập trung tại Bình Tuy và đang được bổ sung quân số thì được
lịnh phải ra Phan Rang, trong khi cả đơn vị hảy còn hoang mang, dao động. Vì
chưa kịp bổ sung thiết bị, đơn vị nầy phải thu lượm một số pháo và thiết vận xa
để mang theo cùng với các trung đoàn ra Phan Rang bằng đường bộ.
Bộ Tổng tham mưu Phòng 7 vừa bổ sung toán thám sát, vì kiểm thính phát hiện
rộ lên nhiều liên lạc vô tuyến của các đơn vị địch xung quanh Phan Rang. Chuẩn
tướng Lê Quang Lưởng Tư lệnh Sư đoàn Dù và Trung tướng Trần Văn Minh Tư lệnh
Không Quân, cùng đến thám sát công cuộc phòng thủ. Cả hai vị đều tỏ ý bất đồng
về việc điều quân nầy. Trung tướng Minh nói để căn cứ không quân làm tiền đồn là
sai lầm, vì khi hữu sự dưới lằn đạn pháo thì không thể sửa chửa, trang bị cho
phi cơ có khả năng hành quân như yêu cầu được. Chuẩn tướng Lưỡng cũng nói, muốn
giữ Phan Rang làm bàn đạp để lấy lại Cam Ranh và Nha Trang, tại sao lại rút đơn
vị đang chiến đấu tốt mà thay bằng 2 đơn vị đã từng vội vã rút quân vă còn đang
chờ đợi bổ sung quân số. Trung tướng Nghi cũng bất ngờ vì không có được những
đơn vị như đã hứa trước lúc ra nhận trách nhiệm phòng thủ Phan Rang.
III. TRẬN CHIẾN QUYẾT ĐỊNH
Ngày 13.4.1975 là ngày đánh dấu nhiều việc không may xảy đến cho tuyến
phòng thủ Phan Rang. Trong ngày, liên tục toán kiểm thính Phòng 7 TTM báo cáo có
sự hoạt động bất thường của các đơn vị Sư đoàn 325 và Sư đoàn 3 Bắc Việt. Tướng
Times của Tòa Đại sứ Mỹ hấp tấp bay đến, dẫn theo Ông Lewis, chuyên viên truyền
tin, để chuyển về Tòa Đại sứ mọi biến chuyển mới nhứt của mặt trận. Ông Lewis ở
lại, rất tích cực làm việc và rất bình tĩnh lúc địch dồn dập tấn công.
Sau mấy ngày ém quân, địch bắt đầu chuyển quân từ khu ém quân và khởi sự
pháo kích văo căn cứ không quân. Các đơn vị địch đang tìm cách tấn công các điểm
cao ở vùng đồ Du Long và phía Đông Ba Râu. Đơn vị địch 968 cũng bắt đầu xâm nhập
lẻ tẻ từ phía Tây của căn cứ không quân, phối họp với từng đợt pháo kích. Tiếc
thay, trong tình thế như vậy mà cơ cấu phòng thủ phải thi hành lệnh thay quân
đang chiến đấu tốt, bằng 2 đơn vị vừa mới được bổ sung sau khi bị tổn thất nhiều
về trang bị và tinh thần. Trong khi bộ phận lớn của Lữ đoàn 2 Dù, gồm Tiểu đoàn
7 với các bộ phần nặng và Tiểu đoăn 5 của Lữ đoăn 3 Dù rời căn cứ, thì Đại tá
Nguyễn Văn Biết, chỉ huy trưởng Liên đoàn 31 Biệt động quân và 3 tiểu đoàn 31,
36 và 52 cũng vừa từ Biên Hòa tới bằng phi cơ C-130. Quân số Liên đoàn gồm
khoảng 1.000 người. Các đơn vị liền vội vã đến trám vào các địa điểm đóng quân
của Tiểu đoăn 11 Dù tại Du Long và Ba Râu. Tiểu đoàn 31 trám tại Du long, Tiểu
đoàn 36 trám từ Ba Râu đến Cá Đú và Tiểu đoàn 52 làm trừ bị. Đang thay quân thì
chạm súng với các toán thăm dò của địch. Cùng lúc, Trung đoàn 4 của Sư đoàn 2 Bộ
Binh, quân số khoảng 450 người, từ Bình Tuy theo đường bộ cũng vừa tới, và được
giao trách nhiệm trấn giữ mặt Tây căn cứ và bảo vệ phi trường thay cho Tiểu đoàn
5 Dù vừa rời căn cứ.
Theo khuyến cáo của Bộ Tư lệnh Không quân, Đại tá Nguyễn Đình Giao, Tham
mưu trưởng Sư đoàn 6 Không quân được nhiệm vụ cùng các chuyên viên về Tân Sơn
Nhất để phụ lo việc quân số và tiếp liệu cho Sư đoàn.
Ngày 14.4.1975, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, cùng
Trung đoàn 5 vừa đến với khoảng 450 quân, được giao nhiệm vụ bảo vệ mặt Nam căn
cứ và phi trường vì Lữ đoàn 2 Dù đã hết nhiệm vụ và đã bàn giao với Trung đoàn 4
hôm qua. Lực lượng Pháo binh chỉ có 1 Pháo đội 105 ly hiện diện tăng phái cho
Tiểu khu trong đó có một Trung đội đóng tại An Phước, phía Nam phi trường lối 10
km. Thị xả được phòng vệ bởi khoảng 1 tiểu đoàn Địa phương quân còn lại. Cùng
lúc, Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, theo lệnh, đề cử Đại tá Trương Đăng Liêm Trung
đoàn trưởng Trung đoàn 4 giử chức vụ tỉnh thưởng thay Đại tá Trần Văn Tự. Cũng
để dự phòng cho những ngày tác chiến sắp tới, Bộ Tư lệnh Không quân cũng vừa gởi
đến, một phi cơ C-47 để tăng cường phương tiện hành quân cho Bộ Tư lệnh Hành
quân.
Bên ngoài căn cứ, từ sáng sớm, địch lần lượt tung vài đơn vị cấp Đại đội từ
khu ém quân, đánh thăm dò cơ cấu phòng thủ tại Du Long và Ba Râu. Một trong các
đơn vị nầy đã xâm nhập được vào cổng số 2 phi trường về phía Bắc, lúc mờ sáng.
Phi cơ trực thăng tuần tiểu phát hiện, và cùng với trực thăng võ trang, yểm trợ
cho một bộ phận của Tiểu đoàn 11 Dù đang chờ phi cơ về hậu tuyến, được gởi ra
tiêu diệt toán xâm nhập nầy. Kết quả địch rút chạy, bỏ lại gần 100 tên bị hạ với
khoảng 80 vũ khí đủ loại, trong đó có 2 súng cối 82 ly và 2 khẩu đại bác không
giựt 75 ly. Ta chỉ có 6 chiến sĩ hy sinh và 1 thiết vận xa phòng thủ phi trường
bị chây. Trung tướng Nghi tưởng thưởng ngay huy chương Anh dũng bội tinh cho các
quân nhân hữu công. Khoảng trưa, Tướng Nghi và tôi cùng Đại tá Lương chạy xe
thong thả từ phi trường đến Ba Tháp, Ba Râu và Du Long thị sát công việc phòng
thủ. Tại Du Long Tướng Nghi có tập họp và trấn an số Nghĩa quân có mặt tại đây.
Tóm lại, mặc dầu hôm nay có các cuộc đánh thăm dò của địch, mặt trận vẫn
đứng vững như những ngày qua. . Ngày 15.4.1975 từ sáng sớm địch liên tục pháo
từng chập vào căn cứ. Buổi chiều khoảng 2 giờ, có phái đoàn của Trung tướng Trần
Văn Đôn Tổng trưởng Quốc phòng và Trung tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn
3 đến thị sát mặt trận. Sau khi thăm thị xả, nghe Tướng Nghi thuyết trình tình
hình và ghi nhận các đề nghị, Trung tướng Tổng trưởng Quốc phòng tỏ vẻ chú trọng
đến việc phòng thủ Phan Rang và hứa sẽ tìm mọi cách bổ sung đầy đủ mọi trang
thiết bị thiếu hụt. Từ chiều trở đi, Trung tướng Nghi liên tiếp nhận được tin
địch sẽ tập trung tấn công đêm nay. Một trong những công điện của Bộ chỉ huy
địch với danh hiệu Sông Hồng, đóng tại Ba Râu, cho hay địch sẽ tấn công vào Phan
Rang lúc 5 giờ sáng. Tiến quân theo đường rầy xe lửa cùng với 300 chiến xa, theo
quốc lộ 1 phát xuất từ rừng dừa ở Ba Ngòi. Biết ý định của địch, Trung tướng
Nghi báo động ngay mọi nơi đề phòng, đặc biệt là Liên đoàn 31 Biệt động quân có
nhiệm vụ án ngữ ở Du Long.
Quả nhiên, sau 8 giờ tối địch gia tăng cường độ pháo vào phi trường, đồng
thời cho di chuyển suốt đêm rất nhiều đoàn xe chở bộ binh, thiết giáp, pháo binh
v.v& Chúng vượt đồi Du Long, chủ yếu chỉ để tràn qua phòng tuyến phòng thủ của
Tiểu đoàn 31 Biệt động quân mà tiến nhanh về hướng Nam. Tiểu đoàn 31 đã ở tại
chổ chiến đấu gan dạ mặc dầu đoàn xe địch vượt được qua. Tại Ba Râu, Ba Tháp và
Cá Đú, từ địa điểm đóng quân chờ di chuyển về hậu cứ, từ 2 giờ sáng trở đi, Tiểu
đoàn 11 Dù trừ và Tiểu đoàn 3 Dù, cùng với Tiểu đoàn 36 Biệt động quân vừa trám
chổ, chạm địch ác liệt, làm chậm sức tấn công ồ ạt của đoàn cơ giới địch. Liên
tục bị oanh kích, chúng tẻ xuống đường, tắt đèn và lại tiến tới. Phi cơ A-37
không ngớt tung xuống đợt oanh tạc ngăn chăn, nhưng vì không đủ phương tiện soi
sáng và hỏa long, nên chúng vẫn tràn qua, sau khi bị tổn thất khá nặng nề. Bên
ta có 4 A-37 bị bắn bể bình xăng phải về đáp. Trận nầy Không đoàn 92/Chiến thuật
đã tung toàn lực phi cơ cơ hữu kể cả 4 A-1 của Phi đoàn 530 . Tôi cùng Trung tá
Lưu đức Thanh Phụ tá Hành quân Sư đoàn 6 KQ đích thân theo dỏi trận đánh suốt
đêm. Chúng tôi liên tục đốc thúc phần tham gia của không quân, kể từ lúc các đơn
vị bộ binh chạm súng, liên tục báo cáo địch đang xử dụng hàng đoàn xe để đến
sáng chạy từ Du Long tràn xuống. Cuối cùng, đoàn xe tắt đèn vượt qua Ba Râu, vă
chiếm thị xả lúc 7 giờ sáng ngày 16.4.1975.
Tại Bộ chỉ huy tiền phương, Trung tướng Nghi cũng theo dỏi trận chiến suốt
đêm và không nhận được tin gì từ Du Long của Liên đoàn 31 Biệt động quân sau 3
giờ sáng. (Sau nầy, Thiếu tá Đào Kim Minh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 36 Biệt
động quân và Thiếu tá Nguyễn văn Tú Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 31 Biệt động quân
có nhiệm vụ trấn giữ Ba Râu và Du Long cho biết không hiểu vì lý do gì mà từ 2
giờ sáng không liên lạc được với Bộ chỉ huy. Sở dỉ cần liên lạc khẩn cấp là vì
đã 3 ngày, từ lúc thay quân, cứ liên miên đụng địch nên cấp số đạn dược mang
theo đã gần cạn. Đến sáng, khu vực trách nhiệm vẫn yên tịnh như sau những lần
chạm súng. Trên đường vẫn an toàn nhưng nhìn vào phi trường thấy đang bị pháo
kích.)
Ngày 16.4.1975, lúc vừa sáng, địch lại lẻ tẻ xâm nhập vào cổng số 2 của phi
trường về hướng Bắc và kho bom ở hướng Tây. Đến khi phòng không chúng, bắn trúng
chiếc phi cơ quan sát O-1 vừa cất cánh quan sát hành quân, phải trở lại đâp khẩn
cấp, thì đồng thời chúng gia tăng số lượng pháo kích. Lúc bấy giờ mới khoảng gần
8 giờ sáng. Đại tá Biết bổng báo cáo là Du long bị mất và địch đã vào thị xã
khiến cho Trung tướng Nghi phải tìm phương thế thích nghi. Cùng lúc, Chuẩn tướng
Nhựt vừa đặt văn phòng cạnh Văn phòng Trung tướng Nghi, liền được mời tham gia
vào việc duyệt xét tình hình. Sau đó Ông đi thị sát mặt trận tại nơi trách nhiệm
của đơn vị mình .
Trong khi Trung đoàn 4 Bộ Binh đang án ngữ bên ngoài phía Tây của phi
trường và Trung đoàn 5 đang phòng ngự địch tràn lên từ thị xả, thì bên trong căn
cứ tình hình bắt đầu có chiều hướng bất lợi. Địch vẫn giữ mức độ pháo kích quấy
rối từng chập. Nhân có các khoảng trống giữa những đợt pháo kích, một số lớn phi
cơ đã rời căn cứ. Còn lại chỉ có một số rất ít trực thăng võ trang và tản thương
ở lại đến phút chót.
**Khoảng hơn 9 giờ sáng, khi trực thăng võ trang bị hỏa tiển SA7 bắn tại
ngọn đồi gần phi trường thì tình hình đã khá nguy ngập. Trung đoàn 4 báo cáo
đang chạm địch. Toán Dù bảo vệ Bộ Tư lệnh Tiền phương đang thanh toán các toán
VC lẻ tẻ chạy lạng quạng gần khu vực Bộ Tư lệnh Tiền phương. Đến lúc nầy, Trung
tướng Nghi vẫn tin tưởng văo khả năng chiến đấu của Trung đoàn 4 bảo vệ phi
trường và Trung đoàn 5 án ngữ ngăn chận địch tràn vào cổng số 1 của căn cứ.
**Đến khoảng gần 10 giờ, khi tiếng súng càng lúc càng dồn dập, Tướng Nghi
liền họp cùng Chuẩn tướng Nhựt, Đại tá Lương và tôi để tái duyệt xét tình hình.
Vì lẽ mặt trận đã bị thủng từ Du Long và địch đang hăm dọa căn cứ nên Trung
tướng Nghi dự tính có thể sẽ dời Bộ Tư lệnh Tiền phương về Cà Ná để lập tuyến
phòng thủ mới tại đó, nếu địch chọc thủng được phòng tuyến bảo vệ phi trường. Dự
trù sẽ đi khỏi phi trường từ cổng số 1 và đi cùng Trung đoàn 5.
**Khoảng 10,30 giờ sáng, mãi đến khi các toán quân địch sắp tiến vào Bộ Tư
lệnh Tiền phương thì Trung tướng Nghi mới ra lịnh rời căn cứ bằng đường bộ, từng
đơn vị theo đơn vị trưởng mình rút theo hướng Nam về Cá Ná để lập phòng tuyến
mới. Trung tướng Nghi, Đại tá Lương, Ông Lewis chuyên viên Tòa Đại sứ Mỹ cùng
các quân nhân của Bộ Tư lệnh Tiền phương, Sư đoàn 6 Không quân, Lữ đoàn 2 Dù
cùng các toán quân lẻ tẻ của Liên đoàn 3I Biệt động quân lối 400 người rời căn
cứ tiến ra cổng số 1 về hướng Nam.
Đoàn quân di chuyển trật tự đến cổng số 1 khoảng 11 giờ, để cùng đi với
Trung đoàn 5 về Cà Ná như dự định. Tại đây, vì không liên lạc được với Chuẩn
tướng Nhựt, nên Trung tướng Nghi quyết định theo đường rào phía Nam, di chuyển
dọc theo đường từ Tour Cham đến ngã ba An Phước. Đoàn quân an toàn đến Thôn Mỹ
Đức lúc 12 giờ trưa. Trên đường rút khỏi Ba Tháp, Tiểu đoàn 3 Dù lần xuống bãi
biển, tẻ sâu về hướng Nam và không còn thấy Giang đoàn 27, chiến hạm WHEC cùng
bất cứ chiếc tàu nào khác tại cảng Ninh Chử. Đến một bãi cát xa hơn về hướng Nam
của thị xả, đơn vị Dù nầy, gặp và kháng cự với một toán quân địch khác đến bao
vây. Sau khi thoát vòng vây với ít nhiều tổn thất, Tiểu đoàn 3 Dù được một đoàn
trực thăng, bốc về an toăn. (Đoàn trực thăng cấp cứu nầy, dự trù đón Bộ tư lệnh
tiền phương, nhưng vì Trung tướng Nghi không thuận cho đáp vì lý do an toàn bãi
đáp, nên trên đường trở về, mới bốc được toán Dù trên.). Tiểu đoàn 11 Dù còn lại
rút được qua sông, phối hợp với toán quân vừa thoát khỏi trận phục kích ở Thôn
Phú Qúy về được an toàn. Liên đoàn 31 Biệt động quân và Sư đoàn 2 Bộ binh với
một ít đơn vị cố gắng di chuyển về Nam lại chịu thêm tổn thất trên đường rút
lui. Đại tá Lê Thương, Chỉ huy trưởng Pháo binh Sư đoàn 2 Bộ binh, trên đường
rút về An Phước nơi có Trung đội Pháo binh đang trú đóng, cũng gặp địch đã đóng
làm nút chận tại đây rồi .
Tại phi trường, khi đoàn quân của Trung tướng Nghi di chuyển khá xa, thì Sư
đoàn 325 VC phối họp với Sư đoàn 3 VC cùng Đoàn 968 tấn công và chiếm phi trường
lúc 11,30 giờ trưa. Thiệt hại của Sư đoăn 6 không quân rất đáng kể vì mất toàn
bộ kho bom đạn và các trang thiết bị phụ thuộc, với lối 10 phi cơ đủ loại không
bay được. Tuy nhiên tổn thất hành quân tương đối là nhẹ: 1 A-37 rớt, 4 A-37 bị
bắn về đáp an toàn, 2 trực thăng cháy, 1 phi cơ quan sát cùng khá nhiều trực
thăng bị bắn nhưng về đáp được an toàn.
Hải quân ta chỉ có một số ít Giang thuyền bị chìm và một chiến hạm bị pháo.
Tại Thôn Mỹ Đức lúc khoảng 4 giờ chiều, Trung tướng Nghi được toán truyền
tin của Đại tá Lương cho hay có 1 đoàn phi cơ xin xác nhận vị trí để xuống bốc.
Lúc bấy giờ, với số gần 700 quân nhân và thân nhân nên khó bóc hết được, vả lại
khi trực thăng đến, khó lòng mà giữ được trật tự, chắc chắn sẽ tạo hổn loạn làm
lộ mục tiêu giúp địch đến vây bắt. Vì vậy Trung tướng Nghi quyết định vì sự an
toàn cho đồng đội, từng khổ cực chiến đấu với nhau mà không vì an toàn cho bản
thân, nên ra lịnh toán cứu cấp đó không nên đáp, và chỉ nên đến ngày hôm sau,
tại một địa điểm xa hơn về phía Nam.
Lúc 9 giờ tối, dưới sự hướng dẫn của Đại tá Lương, đoàn người bắt đầu rời
Thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa thì bị phục kích. Trung tướng Nghi, Ông Lewis
và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Chúng dẫn 3 chúng tôi ngược về Nha
Trang sáng hôm sau. Trên đường tôi thấy rất nhiều xe địch nằm la liệt dọc hai
bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất thiểu, lang thang đi ngược trở
về. Tôi bổng cảm nhận rất có tội đối với đồng bào, vì làm tướng mà không giữ
được thành. Ở tại Đồn điền Yersin 2 ngày, chúng đưa chúng tôi ra Đà Nẳng bằng
đường bộ. Tại đây, ngày 22/4/1975 chúng đem phi cơ chở chúng tôi ra Bắc, giam
tại nhà giam Sơn Tây nơi từng giam giữ tù binh Mỹ. Chúng thả Ông Lewis vào tháng
8.1975, Trung tướng Nghi vào năm 1988 và tôi năm 1992.
IV. KẾT LUẬN
Sư đoàn 6 Không quân rời Pleiku ngày 16/3/1975 đến tạm trú tại Nha Trang.
Ngày 22.3.1975 được lịnh đến căn cứ Phan Rang đồn trú. Chưa kịp thích nghi với
sanh hoạt địa phương thì phải đương đầu với nhiều nổi ưu lự kể từ lúc Nha Trang
rút bỏ. Liên tiếp trong 16 ngày, toàn thể quân nhân Sư đoàn 6 Không quân đã khắc
phục bao khó khăn, trong một hoàn cảnh khác thường của một căn cứ Không quân
bổng trở thành một tiền đồn, vừa thi hành các phi vụ, vừa tham gia chiến đấu như
bộ binh.
**Địa phương quân và Nghĩa quân Phan Rang có những đơn vị hoàn thành nhiệm
vụ bảo vệ đáng khen, như việc bảo vệ Giáo sứ Hồ Diêm được an toàn là một thí dụ.
**Sư đoàn 2 Bộ binh với 2 Trung đoàn 4 và 5, tuy có một số lớn quân nhân
hảy còn hoang mang, dao động vì lo lắng cho thân nhân còn kẹt lại khi đơn vị vội
vả rút lui, nhưng cũng đã cố gắng tham dự.
**Liên đoàn 31 Biệt động quân với 3 Tiểu đoàn 31, 36 và 52, chứng minh được
tinh thần của người chiến sĩ mũ nâu, mặc dầu sau những trận đánh ác liệt tại
Chơn Thành được điều động thẳng ra Phan Rang, không có một ngày nghĩ dưỡng quân,
cũng như không được bổ sung quân số, tái trang bị đầy đủ.
**Lữ đoăn 2 Dù với các Tiểu đoàn 3, 7 và 11 cùng Tiểu đoàn 5 của Lữ đoàn 3
Dù đã chiến đấu rất tích cực và tạo được sự tin tưởng của nhiều người, quả xứng
đáng là những đơn vị thiện chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Với những đơn vị như trên cộng thêm Phan Rang có vị trí rất thuận lợi cho
việc phòng thủ, đáng lý Phan Rang không thể bị chiếm quá nhanh như thế được.
Chiếm được Phan Rang, địch mới có lý do tung ra kế hoạch Tổng công kích, mà đáng
lý ra theo dự trù, chúng chỉ có thể tung ra vào năm 1976 thay vì năm 1975. Tướng
VC Văn Tiến Dũng, sau chiến thắng, đê tuyên bố tại Cuba: " Khi chiếm được Phan
Rang thì coi như chiếm được miền Nam." Lời tuyên bố nầy chứng minh được việc
chọn phòng tuyến Phan Rang là một quyết định đứng đắn của Bộ Tổng tham mưu Quân
lực Việt Nam Cộng Hòa. Việc mất Phan Rang quả đúng là một tổn thất quâ lớn cho
công cuộc bảo vệ Miền Nam
vậy.
Đã hơn 25 năm, chắc chắn tôi không thể còn nhớ đầy đủ các diễn biến liên
quan đến việc phòng thủ Phan Rang. Tôi đã tham khảo một vài tài liệu và tiếp xúc
một vài thân hữu. Cộng với ký ức, tôi đã cố gắng ghi lại trong bài viết nầy mọi
hiểu biết có thể có và đương nhiên chắc phải có nhiều thiếu sót.
Viết xong ngày 15 tháng 1 năm 2002
Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang