NAM TRUNG TẠP NGÂM

 

THỜI KỲ LÀM QUAN Ở QUẢNG B̀NH VÀ HUẾ (1804- 1814)

 

Nam Trung Tạp Ngâm gồm 40 bài Nguyễn Du làm trong thời gian giữ chức quan ở Phú Xuân và Quảng B́nh rồi lại trở về Phú Xuân, từ năm 1804 cho đến năm ông qua đời (1820), là 16 năm. Tập thơ này xuất hiện trong bản dịch của cụ Lê Thước, sau khi cụ Lê Thước có được bản sao chụp gồm 40 bài thơ qua thuộc quyền sở hữu của cụ Hoàng Xuân Hăn ở Pháp.

Năm 1804, Nguyễn Du cáo bệnh, xin về hưu, từ quan, nhưng chỉ được có hơn một tháng th́ có chỉ vua triệu vào cung giữ chức Đông các điện học sĩ, nên đánh phải đi. Bài Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành làm lúc lên đường trẩy kinh (tháng giêng năm Ất Sửu, 1805).

 

Việc làm quan với Nguyễn Du chỉ là chuyện mưu sinh chứ không phải là chuyện công danh. Đời sống của ông rất thanh bạch. Thời gian làm Bố chánh ở Quảng B́nh, gia phả chép: “Phàm những việc trong hạt, như lính tráng, dân sự kiện thưa, tiền nong, lương thực, và các hạng thuế, ông đều bàn bạc thương lượng với các quan lưu thủ, kư lục để thi hành. Chính sự giản dị, không cần tiếng tăm nên được sĩ phu và nhân dân quư mến”.

Mặc dù vậy ông “ thường bị quan trên quở trách nên lấy làm uất ức, bất chí”. Điều ấy được phản ảnh vào những bài thơ trong tập này. Trong t́nh cảnh làm quan không mấy toại ư, nên Nguyễn Du lại ao ước về nhà ăn uống đạm bạc, làm bạn với hươu nai; quanh đi quẩn lại giống như thời ở Thái B́nh và làm quan ở Bắc Hà.

 

Qua hai tập thơ chữ Hán, Thanh Hiên thi tập và Nam Trung tạp ngâm, chúng ta hiểu thêm hơn về thân thế và t́nh cảm của Nguyễn Du.

 

Nam Trung Tạp Ngâm

 

79 Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành

80 –84 Mộng đắc thái liên (5 bài)

85 Thu chí

86 Điệu khuyển

87-89 Ngẫu thư công quán bích (3 bài)

90 Tống nhân

 

91-95 Ngẫu hứng (5 bài)

96 Ngẫu đề

97 Thủy liên đạo trung tảo hành

98 Tân thu ngẫu hứng

99 Dạ toạ

100 Tặng nhân

101 Tái thử nguyên vận

102 Tạp nag6m

103-104 Giang đầu tản bộ

105 Ngẫu đắc

106 Pháo đài

107 Thành hạ khí mă

108 Vọng thiên thai tự

109-110 Giản công bộ, thiềm sự trần (2 bài)

111 Thu nhật kư hứng

112 Sơn trung tức sự

113 Độ linh giang

114 Nễ-giang khấu hương vọng

115 Y nguyên vận kư thanh oai Ngô Tứ Miên

116 Tống Ngô nhữ sơn công xuất trấn Nghệ An

117-118 Đại tác cửu thú tư quy (2 bài)

 

 

 

 

 

 

 

79 /249

 

PHƯỢNG HOÀNG LỘ THƯỢNG TẢO HÀNH

 

Chinh phu hoài văng lộ

Dạ sắc thượng mông mông

Nguyệt lạc viên thanh ngoại

Nhân hành hổ tích trung

Lực suy thường úy lộ

Phát đoản bất câm phong

Dă túc phùng tiều giả

Tương liên bất tại đồng

 

SÁNG ĐI  TRÊN ĐƯỜNG PHƯỢNG HOÀNG

 

Thân người đi măi đường xa

Sắc đêm cao thẳm thật là mênh mang

Ngoài thành vượn hú trăng tà

Ngang vùng chân hổ vết tàn c̣n mang

Sợ đường sức lực kém dần

Ngại thêm gió thổi tóc gần ngắn trơ

Quán trọ gặp được tiều phu

Cảm thương nhau xá phải chung cảnh t́nh

 

 

 

Chú thích:

 

Phượng Hoàng: từ tỉnh lỵ Hà Tĩnh đi vào có núi Phượng Hoàng và quán Phượng Hoàng.

Năm Giáp Tí 1804 Nguyễn Du bị bệnh xin từ chức về quê nghỉ. Được hơn một tháng th́ có chỉ gọi vào kinh. Bài này có thể làm trên đường vào kinh lần ấy.

 

 

 

80/249

 

MỘNG ĐẮC THÁI LIÊN

 

Khẩn thúc giáp điệp quần (1)

Thái liên trạo tiểu đĩnh

Hồ thủy hà xung dung

Thủy chung hữu nhân ảnh

 

81/249

II

 

Thái, thái Tây hồ liên

Hoa, thực câu thướng thuyền

Hoa dĩ tặng sở úy

Thực dĩ tặng sở liên

 

82/249

III

 

Kim thần khứ thái liên

Nải ước đông lân nữ (2)

Bất tri lai bất lai

Cách hoa văn tiếu ngữ

 

 

 

83/249

IV

 

Công tri liên liên hoa

Thủy gia liên liên cán?

Kỳ trung hữu chân ty

Khiên liên bất khả đoạn

 

84/249

V

 

Liên diệp hà thanh thanh

Liên hoa kiều doanh doanh

Thái chi vật thương ngẫu

Minh niên bất phục sinh

 

CHIÊM BAO THẤY HÁI SEN

 

I

Xắn quần cánh bướm cho gọn gàng

Chèo chiếc thuyền xinh để hái sen

Mặt hồ sóng nước tràn lai láng

Dưới nước ẩn in bóng người mang

 

II

Hái, hái hoa Sen tại hồ Tây

Hoa, gương đều hái bỏ lên thuyền

Hoa này tặng kẻ ḿnh kính phục

C̣n gương mang tặng kẻ thân t́nh

 

III

Sáng nay đi hái đóa hoa sen

Hẹn cô hàng xóm cùng đi với

Chưa biết có đến hay không đây?

Chợt vọng qua hoa tiếng nói cười

 

IV

Hoa sen th́ ai cũng thích

C̣n cuống có mấy ai ưa

Trong cuống ẩn những sợi tơ

Bền dai không hề đứt đoạn

 

V

Lá cây sen th́ xanh xanh

Bông hoa sen th́ mơn mởn

Hái sen nhớ nương nhẹ ngó

Kẻo năm sau hoa không mọc.

 

 

Chú thích:

 

Bài này sáng tác thời làm quan với nhà Nguyễn, năm mơ thấy hái sen ở Hồ Tây hồi c̣n trẻ sống ở Thăng Long.

(1) Giáp diệp quần: quần bay phấp phới như cánh bướm.

(2) Có sách nói rằng “cô hàng xóm” trong bài thơ này là Hồ Xuân Hương, dựa theo một bài thơ  coi như  lưu bút  của Hồ Xuân Hương, đó là bài thơ nôm gửi  “Cần Chánh Điện Học Sĩ Nguyễn Hầu”.

 

 

 

 

85/249

 

THU CHÍ

 

Hương giang nhất phiến nguyệt (1)

Kim cổ hứa đa sầu

Văng sự bi thanh trủng

Tân thu đáo bạch đầu

Hữu h́nh đồ dịch dịch

Vô bệnh cố câu câu (2)

Hồi thủ Lam giang phố

Nhàn tâm tạ bạch âu.

 

THU ĐẾN

 

Mảnh trăng trên sông Hương

Gợi mối sầu xa xưa

Mộ  xanh cảm chuyện cũ

Thu mới thêm bạc đầu

Có thân lận v́ thân

Không bệnh vẫn lom khom

Nh́n lại bến Lam Giang

Ḷng nhàn phụ âu trắng

 

Chú thích:

 

(1) Hương Giang: tên con sông nổi tiếng chảy qua thành phố Huế, ra cửa Thuận An.

Mùa Xuân năm Ất Sửu (1805), Nguyễn Du được thăng làm Đông Các điện học sĩ, tước Du Đức Hầu, và làm việc tại kinh đô Huế.

(2) Câu câu: bệnh gù lưng, Nguyễn Du ư nói làm quan cứ phải khúm núm, lom khom giống như bị gù lưng không thẳng được, ngậm ngùi v́ muốn nhàn mà không được.

 

 

 

86/249

 

ĐIỆU KHUYỂN

 

Tuấn mă bất lăo tử

Liệt nữ vô thiện chung

Phàm sinh phụ kỳ khí

Thiên địa phi sở dung

Niêm nhĩ thuộc thổ súc

Dữ nhân mao cốt đồng (1)

Tham tiến bất tri chỉ

Vẫn thân hàn sơn trung

Vẫn thân vật thán uyển

Sổ thí vô toàn công

 

THƯƠNG CON CHÓ

 

Ngựa tài không chết già

Nữ danh không chết bệnh

Phàm sinh phú oai hùng

Trời đố kỵ không dung

Vật nhà cùng một loài

Lông xương cùng một giống

Ưng tiến không biết lùi

Bỏ thây trong núi lạnh

Bỏ thân chẳng nên oán

Thử nữa cũng hoài công

 

 

Chú thích:

 

(1). Ư câu này giống như câu “Mao cốt khởi thù chúng” (lông và xương cũng giống như những con ngựa khác) trong bài Bạch mă của Đỗ Phủ.

Bởi vậy nên hiểu chữ nhân ở đây như chữ chúng.

 

 

 

 

87/249

 

NGẪU THƯ CÔNG QUÁN BÍCH

 

Tam Thủ

I

Triêu san nhất vu phạn

Mộ dục nhất bồn thủy

Bế môn tạ tri giao

Khai song kiến kinh kỷ

Song ngoại kinh kỷ mạn thả trường

Mỹ nhân du du cách cao tường

Đỗ vũ nhất thanh xuân khứ hĩ (1)

Hồn hề! quy lai! bi cố hương!

 

NGẪU ĐỀ VÁCH NHÀ CÔNG I

 

Sớm lùa một bát cơm

Chiều tắm một chậu nước

Đóng cổng phụ ḷng khách

Mở cửa ngắm cây gai

Ngoài cửa lan tràn cây gai mọc

Người đẹp xa vời cách tường cao

Chim cuốc kêu sầu báo xuân tận

Hồn ơi! hăy về! buồn quê xưa!

 

 

 

Chú thích:

 

(1). Câu này vốn khuyết hai chữ, có lẽ nhà thơ dùng câu thơ cổ “Đỗ vũ nhất thanh xuân khứ hĩ ”.

 

 

 

 

 

88/249

 

NGẪU THƯ CÔNG QUÁN BÍCH II

 

Xương hạp môn tiền xuân sắc lan

Cách giang san đối Ngự B́nh san (1)

Xuân ṭng giang thượng hà lai xứ

Nhân ỷ thiên nhai trê nhất quan

Măn địa phồn thanh man dạ vũ

Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn

Đào hoa mạc trượng đông quân ư (2)

Bàng hữu phong di tính tối toan (3)

 

NGẪU ĐỀ VÁCH NHÀ CÔNG II

 

Trước cửa điện vua xuân sắp tàn

Biệt sông, đối núi Ngự B́nh xa

Xuân theo ḍng nước về đâu đó

Người dựa theo trời bởi chức quan

Đất đầy đêm mưa nghe nhộn nhịp

Một giường cô quạnh lạnh khí xuân

Hoa đào chớ ỷ xuân che chở

Thần gió ghen tuông chực kề bên.

 

 

 

Chú thích:

 

(1) Ngự B́nh san: quả núi cách kinh thành Huế chừng năm cây số về phía nam; từ trong thành trông ra giống như bức b́nh phong đặït trước nơi vua ngự.

(2) Đông quân: thần mặt trời, hoặc thần phương đông. Cũng có nghĩa là thần coi mùa xuân. Trong bài dùng theo nghĩa chúa xuân.

(3) Phong di: d́ gió, có nghĩa là thần gió.

 

 

 

 

 

89/249

 

NGẪU THƯ CÔNG QUÁN BÍCH III

 

Đông vọng giang đầu vọng cố giao

Phù vân vô định thủy thao thao

Phong xuy cổ trủng phù vinh tận

Nhật lạc b́nh sa chiến cốt cao

Sơn nguyệt giang phong như hữu đăi

Nham thê cốc ẩm bất từ lao

B́nh sinh dĩ tuyệt vân tiêu mộng

Phạ kiến bàng-phân vấn vũ mao (1)

 

NGẪU ĐỀ VÁCH NHÀ CÔNG III

 

Đầu sông ngoảnh đông ngóng quê hương

Thấy toàn mây nổi nước tuôn gịng

Gió thổi mồ xưa vinh hiển cạn

Chiều rơi băi cát chiến cốt chồng

Trăng núi gió sông dường có hẹn

Nhà thô nước suối chằng nề hà

Nay th́ đă dứt mây cao mộng

V́ e người hỏi cánh lông nào.

 

 

Chú thích:

 

(1) Câu này Nguyễn Du ư nói ḿnh là con cháu những người trước kia phục vụ nhà Lê, nay làm quan với nhà Nguyễn, nên không có người nâng đỡ.

 

 

 

.

 

90/249

 

TỐNG NHÂN

 

 

 

Hương Cần quan đạo liễu thanh thanh (1)

Giang bắc giang nam vô hạn t́nh

Thượng uyển oanh kiều đa đố sắc (2)

Cố hương thuần lăo thượng kham canh

Triều đ́nh hữu đạo thành quân hiếu (3)

Trúc thạch đa tàm phụ nhĩ minh

Trù trướng thâm tiêu cô đối ảnh

Măn sàng trê vũ bất kham thinh

 

TIỄN BẠN

 

Đường qua Hương Cần liễu xanh xanh

Kẻ bắc người nam chí t́nh thân

Vườn vua oanh diễm ghen nhau sắc

Thuần già quê cũ ngon tô canh

Ơn triều đ́nh giúp ông tṛn hiếu

Trúc đá tôi thẹn lỗi cũng đành

Ngậm ngùi canh khua riêng đối bóng

Bên giường mưa măi dạ tṛng trành.

 

 

 

Chú thích:

 

 (1) Hương Cần: tên một làng cách kinh thành Huế chừng 4 km về phía bắc. Đường quan  ra bắc đi qua đó.

(2) Thượng uyển: vườn hoa của vua, đây ư chỉ triều đ́nh.

(3) Theo ư câu thơ này th́ người bạn của Nguyễn Du làm quan ở kinh được vua cho cáo quan về phụng dưỡng cha mẹ già.

 

 

 

 

 

91/249

 

NGẪU HỨNG

Ngũ Thủ

 

I

Tam nguyệt xuân th́ trưởng đậu miêu

Hoàng hồ ph́ măn bạch hồ kiêu

Chủ nhân tại lữ  bất quy khứ

Khả tích Hồng Sơn thuộc văn kiều

 

I

Xuân tháng ba mầm đậu trổ nhiều

Cáo vàng hổ trắng béo thêm kiêu

Chủ nhà xa măi chưa về được

Tiếc để Hồng Sơn tay bác tiều

 

92/249

II

 

Lô hoa sơ bạch, cúc sơ hoàng

Thiên lư hương tâm dạ cộng trường

Cưỡng khởi thôi song vọng minh nguyệt

Lục âm trùng điệp bất di quang

 

II

Hoa lau chớm trắng, cúc chớm vàng

Thương quê ngàn dặm ḷng xốn xang

Ráng mở cửa ra t́m trăng sáng

Tối chùm bát ngát chẳng lọt trăng

 

93/249

III

 

Nhất đái ba tiêu lục phúc giang

Bán gian yên tỏa tạp trần ai

Khả liên đ́nh thảo sam trừ tận

Tha nhật xuân phong hà xứ lai?

 

III

Một rặng chuối xanh phủ ngợp sàn

Căn nhà khói, lửa, bụi đóng tràn

Tiếc cho cỏ trước sân trụi hết

Biết có lối nào đón gió xuân?

 

 

94/249

IV

 

Cố hương cang hạn cửu phương nông

Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng (1)

Thí tự thuần lô tối quan thiết (2)

Hoài quy nguyên bất đăi thu phong (3)

 

IV

Quê hương hạn hán hại việc nông

Mười miệng trẻ thơ sắc đói cùng

Rau thuần cá vược mà nhớ quá

Cứ  về cần chi gió thu trông

 

 

 

Chú thích:

 

(1) Thập khẩu hài nhi: theo gia phả th́ người vợ đầu của Nguyễn Du, con gái Đoàn Nguyễn Thục, chỉ sinh được một người con trai, tên là Nguyễn Tứ, năm Quí Dậu theo cha đi Trung Quốc, về nhà được mấy tháng th́ mất. Bà vợ kế ho Vơ, sinh được một người con trai tên Nguyễn Ngũ. Lại c̣n có bà vợ thiếp sinh được mười trai, sáu gái.

(2) Thuần lô: rau thuần, cá vược. Ngày xưa ở nước Tần có người tên là Trương Hàn đi làm quan xa, gặp gió thu, nhớ rau thuần, cá vược ở quê nhà mà bỏ quan về.

Thuần: (hay chún) tên một loại cây mọc trong chỗ nước cạn, lá h́nh bầu dục, dùng để nấu canh.

Lô: cá vược, hay cá lú là loài cá biển, ḿnh dẹt màu trắng có chấm đen, đầu to vảy nhỏ, phần trước mang giống như răng cưa, vị rất ngon (cũng thường đọc là lư)

(3) Hai câu cuối bài thơ tỏ ư tác giả muốn cáo quan về ngay không cần đợi có gió thu, nhớ rau thuần cá vược, mới nghĩ đến chuyện về.

 

 

 

 

95/249

V

Hữu nhất nhân yên lương khả ai

Phá y tàn lạp sắc như hôi

Tị nhân đản mịch đạo bàng tẩu

Tri thị Thăng Long thành lư lai

 

V

Có một người vẻ thật đáng thương

Da sạm tro, áo nón rách bươm

Tránh người đi rảo bên mé lộ

Ra người Thăng Long mới về thành.

 

 

96/249

 

NGẪU ĐỀ

 

Bạch địa đ́nh tŕ dạ sắc không

Thâm đường tiễu tiễu há liêm lung

Đinh đông châm chữ thiên gia nguyệt

Tiêu tác ba tiêu nhất viện phong

Thập khẩu đề cơ Hoàng-lĩnh bắc

Nhất thân ngọa bệnh đế thành đông (1)

Tri giao quái ngă sầu đa mộng

Thiên hạ hà nhân bất mộng trung?

 

 

 

NGẪU ĐỀ

 

Đất đ́nh trắng toát đêm lặng tanh

Nhà sâu buồn bă thả lơi màn

Tiếng chày nện rộn trăng ngàn nóc

Lao xao tàu chuối gió trước sân

Mười miệng đói dài bắc Hoành Sơn

Ḿnh ta nằm liệt bệnh thành đông

Bạn trách ta cứ phiền cùng mộng

Là người ai tránh được mộng mơ?

 

 

Chú thích:

 

Đế thành đông: phía đông đế thành tức thành Huế. Nguyễn Du được thăng Hàm Đông các điện học sĩ từ năm 1805 đến năm 1809 th́ có chỉ bổ làm chức cai bạ dinh Quảng B́nh.

 

 

 

 

97/249

 

THỦY-LIÊN ĐẠO TRUNG TẢO HÀNH (1)

 

 

Bi mạc bi hề hành đạo nan

Thảo đầu lộ túc phạm suy nhan

Bách niên cổ đạo giai thành hác

Nhất đái b́nh lâm bất kiến san (2)

Đa bệnh nhất thân cung đạo lộ

Ngũ canh tàn mộng túc hương quan

Ngẫu phùng quí khách hương dư thoại (3)

Tạc tuế triều thiên xạ phóng hoàn (4)

 

 

ĐI SỚM TRÊN ĐƯỜNG THỦY-LIÊN

 

Thương cho đi đường nhỏ gian nan

Cỏ ngập sương phơi sắc phai tàn

Trăm năm đường cổ thành ng̣i lạch

Núi đâu chẳng thấy, phẳng rừng bằng

Một thân nhiều bệnh trải đường xa

Canh năm tàn mộng nhớ quê nhà

T́nh cờ gặp khách nghe kể chuyện

Năm trước chầu vua nay được về.

 

 

 

 

Chú thích:

 

(1) Thủy Liên:  ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng B́nh, trước kia có tổng Thủy Liên, không biết có phải nhà thơ tả chặng đường thuộc tổng ấy không?

(2) B́nh Lâm: trong bài thơ chép chữ lâm là tới. Nghi sai. Chúng tôi tạm thay chữ lâm là rừng cho thông nghĩa.

(3) Dư thoại: trong bài thơ chép là trà thoại, không có nghĩa. Nghi là dư thoại.

(4) Phóng: quan ở kinh đô được bổ ra ngoài.

 

 

 

 

98/249

 

TÂN THU NGẪU HỨNG

 

Giang Thành nhất ngọa duyệt tam chu (1)

Bắc vọng gia hương thiên tận đầu

Lệ Thủy Cẩm Sơn giai thi khách  (2)

Bạch vân hồng thụ bất thăng thu

Thử thân dĩ tác phàn lung vật

Hà xứ trùng tầm hăn mạn du?

Mạc hướng thiên nhai thán luân lạc

Hà nam kim thị đế vương chu (3)

 

ĐẦU MÙA THU NGẪU HỨNG

 

Giang Thành nằm măi ba năm trôi

Ngóng bắc quê nhà tận cuối trời

Lệ Thủy Cẩm Sơn ta là khách

Mây trắng cây hồng sắc thu tươi

Thân ta như vật bị nhốt lồng

Đâu c̣n phóng khoáng thỏa chơi rong

Nh́n phía chân trời than chi nữa

Cũng đất nhà vua phía nam song.

 

 

Chú thích:

 

 (1) Giang Thành: ngôi thành ở bên sông, đây chỉ thành Đông Hải bên sông Nhật Lệ, tức là tỉnh thành Quảng B́nh ngày nay. Tại nơi đây Nguyễn Du làm cai bạ gần bốn năm, từ năm 1809 đến năm 1813. Như vậy bài này làm vào năm 1811.

(2) Lệ Thủy, Cẩm Sơn: tên sông và tên núi thuộc tỉnh Quảng B́nh.

(3) Hà Nam: phía nam sông, tức từ sông Nhật Lệ trở vào Nam

 

 

 

.

99/249

 

DẠ TỌA

 

Tứ bích cùng thanh náo dạ miên

Ải sàng di hướng khúc lan biên

Vi phong bất động sương thùy địa

Tà nguyệt vô quang tinh măn thiên

Kim cổ nhàn sầu lai túy hậu

Thuần lô hương tứ tại thu tiên

Bạch đầu sở kế duy y thực

Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên!

 

ĐÊM NGỒI

 

Bốn vách trùng reo ngủ không yên

Chuyển giường gần đến song cửa  bên

Gió nhẹ màn sương sa gần đất

Trăng tà sao sáng trên không biên

Rượu vào thêm sầu chuyện mới cũ

Nhớ rau nhớ cá chẳng chờ thu

Bạc đầu cũng chuyện lo cơm áo

Ca ngông ngày trẻ há được ư!

 

 

 

 

100/249

 

TẶNG NHÂN

 

Doanh doanh nhất thủy giới cô thôn

Trung hữu cao nhân bất xuất môn

Tiêu lộc mộng trường tâm bất cạnh (1)

Tần Tùy văng sự khẩu năng ngôn

Xuân vân măn kính quần my lộc

Thu đạo đăng trường đốc tử tôn

Ngă dục quải quan ṭng thử thệ (2)

Dữ ông thọ tuế lạc cầm tôn

 

TẶNG BẠN

 

Trong thôn xóm vắng cạnh sông xinh

Có kẻ học cao tự  khóa ḿnh

Tiêu lộc mộng dài ḷng đă nguội

Tần Tùy chuyện cũ không lặng thinh

Mây xuân đầy núi bạn hươu làm bạn

Đồng thu ruộng ngát nhắc bày con

Treo mũ về quê ḷng tôi muốn

Cùng ông vui thú đờn, rượu ngon.

 

 

 

Chú thích:

 

(1) Tiêu lộc mộng: giấc mơ lấy lá chuối giấu hươu. Sách liệt tử chép: Có người

hái củi, thấy hươu chạy, đón đánh chết, sợ người ta thấy, đem giấu vào hang, lấy

lá chuối phủ kín, sau quên không biết giấu nơi nào, rồi cho là ḿnh đă chiêm bao.

(2) Quản quải: treo mũ, nghĩa là từ quan. Đời nhà Hán có người tên là Phùng Minh, thấy Vương Măn giết con, bèn nói: "Tam cương đă tuyệt, ḿnh không bỏ đi th́ sẽ mắc vạ". Liền đó, cởi mũ treo ở của thành đem vợ con trốn ra bể. Về sau người ta dùng hai chữ "quải quan" để nói việc từ quan về nhà.

 

 

 

 

 

 

101/249

 

TÁI THỨ  NGUYÊN VẬN

 

Trạm nguyên lưu thủy phát sơn thôn (1)

Nhật Lệ triều đầu dũng hải môn (2)

Thanh Vị trọc Kinh đồng bất túc (3)

Hoàn hoa lục trúc lưỡng vong ngôn (4)

Tuế thu truật mễ kham cung khách

Thiên giả tùng niên cập băo tôn

Phù thế kỷ kinh tang lỗ biến

Sàn đầu y cựu tửu doanh tôn

 

HỌA THEO BÀI TRƯỚC

 

TẶNG BẠN

 

Nước sông Trạm nguồn từ núi xinh

Nước sông cửa Lệ biển vỗ ḿnh

Vị Kinh trong đục gịng chảy miết

Vàng hoa, xanh trúc đều lặng thinh

Lúa nếp hàng năm dư đăi khách

Trời cho tuổi lăo có cháu đàn

Cuộc thế biến đổi dâu hóa muối

Đầu giường như trước rượu vẫn tràn

 

 

Chú thích:

 

(1) Trạm nguyên: sông Trạm thuộc huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng B́nh.

(2) Nhật Lệ: tên một con sông phát nguyên từ dăy Trường Sơn quan tỉnh lỵ Quảng B́nh chảy ra cửa Nhật Lệ.

(3) Vị, Kinh: tên hai con sông ở phía tây bắc Trung Quốc, thuộc phần đất hai tỉnh Cam Túc và Thiểm Tâỵ Nước sông Vị trong, nước sông Kinh đục, khi nước hai sông nhập làm một, th́ trong đục chia nhau rơ rệt, do đó người ta dùng hai tiếng Kinh Vị để gợi ư trong đục khác nhau.

(4) Hoàng hoa, lục trúc: hoa vàng, trúc xanh chỉ bạn và ḿnh.

 

 

 

 

102/249

 

TẠP NGÂM

 

Bạch vân sơ khởi Lệ Giang thành (1)

Thử khí tài thu, thiên khí thanh

Thành ngoại sơn sơn giai mộ sắc

Giang đầu thụ thụ các thu thanh

Tha hương bạch phát lăo bất tử

Tạc tuế hoàng hoa kim cánh sinh

Vị ngă Hồng Sơn tạ tùng thạch

Tái vô diện mục kiến đồng minh.

 

VIẾT CHƠI

 

Trên thành sông Lệ mây trắng giăng

Hơi nắng vừa hết khí thu sang

Ngoài thành núi núi sắc chiều nhuốm

Đầu sông cây cối tiếng thu vang

Xa quê đầu bạc già c̣n sống

Cúc vàng năm trước lại nở rồi

Tạ từ non Lĩnh giùm ta nhé

Mặt nào nh́n lại bạn cùng thời.

 

 

 

Chú thích:  

(1). Lệ Giang thành: bức thành bên sông Nhật Lệ, tức là tỉnh thành Quảng B́nh.

 

 

 

 

 

103/249

 

GIANG ĐẦU TẢN BỘ

I

 

Tản phát cuồng ca tứ sở chi

Lục tần phong khởi, tịch dương vi

Bạch vân lưu thủy đồng vô tận

Ngư phủ phù âu lưỡng bất nghi

Vô lụy vị ưng chiêu quỉ trách (1)

Bất tài đa khủng tốc quan phi (2)

Niên niên thu sắc hồn như hử

Nhân tại tha hương bất tự tri

 

DẠO CHƠI ĐẦU SÔNG

I

 

Xơa tóc hát sằng bước lanh quanh

Trong chiều gió động đám rau xanh

Mây trắng nước trôi vẫn c̣n măi

Chim âu, ngư phủ chung ḷng thành

Không lụy người chẳng e quỷ trách

Kém tài nên khiếp việc quan sai

Hàng năm thu sắc  vẫn thế cả

Chỉ khách tha phương không biết hoài

 

 

Chú thích:

 

(1) Quỉ: ở đây ư chỉ những người ác.

(2) Đại Nam chính biên liệt truyện chép: "Khi ra làm quan ông thường bị quan trên quở trách nên lấy làm uất ức, bực trí". Chắc là nói thời kỳ nàỵ.

 

 

 

 

 

104/249

 

GIANG ĐẦU TẢN BỘ

II

 

Xúc ca thanh đoản mạn thanh trường

Bạch phát tiêu tiêu cổ đạo bàng

Tế giản thủy thanh lưu tích vũ

B́nh sa nhân ảnh tại tà dương

Quyên ai mạc báo sinh hà bổ (1)

Nhi nữ thành quần tử bất phương

Hồi thủ cố hương thu sắc viễn

Hoành sơn vân thụ chính thương thương

 

 

DẠO CHƠI ĐẦU SÔNG

II

 

Nhanh chậm ngắn dài tiếng ca đưa

Tóc bạc phơ phơ dạo lối xưa

Nước mưa lạch nhỏ reo róc rách

Chiều soi trên cát bóng người qua

Hưởng ơn chưa đáp sống lây lất

Trai gái cả đàn chết cũng cam

Ngoảnh nh́n quê cũ đường xa lắc

Hoành sơn xanh mát núi cùng cây

 

 

Chú thích:

 

(1).Quyên ai: quyên là giọt nước, ai là hạt bụi. Nghĩa bóng là mảy may.

Đỗ Phủ có câu thơ Vị hữu quyên ai đáp thành triều (chưa báo đáp được nhà vua một mảy may).

 

 

 

 

 

105/249

 

NGẪU ĐẮC

 

Cô thành nhật mộ khởi âm vân

Thanh thảo man man đáo hải tần

Khoáng dă biến mai vô chủ cốt

Thù phương độc thác hữu quan thân

Sự lai đồ lệ giai kiêu ngă

Lăo khứ văn chương diệc tị nhân

Vọng ngoại Hồng Sơn tam bách lư

Tương ṭng há xứ vấn tiền lân

 

 

T̀NH CỜ LÀM ĐƯỢC THƠ

 

Chiều về mây phủ thành vắng tanh

Cỏ mướt trải dài đến biển xanh

Đồng hoang xương lấp mộ vô chủ

Chốn xa cô quạnh một thân quan

Khi có việc nghênh ngang nha chức

Già thân  thơ phú cũng lánh xa

Ngóng  núi Hồng ngoài ba trăm dặm

Xóm cũ nơi nào biết hỏi thăm.

 

 

 

106/249

 

PHÁO ĐÀI (1)

 

Nam bắc xa thư khánh đại đồng (2)

Pháo đài hư thiết thổ thành đông

Sơn băng thạch liệt thành do tráng

Hán đoạt Tần tranh sự dĩ không (3)

Tạc giả đại khuy sinh vật đức

Nhĩ lai bất quư sát nhân công

Thanh b́nh th́ tiết vô tranh chiến

Ngưu độc ưu sừ chính trọng nông

 

PHÁO ĐÀI

 

Nam Bắc, xe, chữ gần ḥa đồng

Pháo đài bỏ vắng đất thành đông

Núi lở, đá tan thành c̣n vững

Hán Tần tranh chấp rồi cũng xong

Ngay trước tổn đức lành muôn vật

Thời nay chém giết hết là công

Thời b́nh chiến tranh không c̣n nữa

Trâu ḅ cầy cuốc trọng nghề nông.

 

 

 

Chú thích:

 

(1) Pháo đài: đây chỉ pháo đài đặt ở Lũy Thầy trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh.

Khi Nguyễn Du làm cai bạ Quảng B́nh th́ việc phân tranh đă chấm dứt, pháo đài tuy c̣n, nhưng không cần đến nữạ.

(2) Xe thư đại đồng: xe cùng cỡ, chữ viết cùng thể, do câu sách trung dung: ?Xa đồng quĩ, thư đồng văn?, chỉ đất nước được thống nhất.

(3) Hán Tần: chỉ Trịnh Nguyễn.

 

 

 

 

107/249

 

THÀNH HẠ KHÍ MĂ

 

Thùy gia lăo mă khí thành âm

Mao ám b́ can sấu bất câm

Thạch lũy thu hàn kinh thảo đoản

Sa trường nhật mộ trận vân thâm

Cơ lai bất tác cầu nhân thái

Lăo khứ chung hoài báo quốc tâm

Nại đắc phong sương toàn nhĩ tính

Mạc giao ky trập tái tương xâm

 

 

CON NGỰA BỎ Ở CHÂN THÀNH

 

Ngựa già nhà ai cạnh chân thành

Lông sạm, da bọc xương gầy xanh

Lối đá cỏ thu lạnh xơ xác

Xa xa chiều xuống mây vờn quanh

Bụng có đói chẳng cần ai giúp

Thân tuy già vẫn giữ ḷng trung

Đă quen sương gió trời cho tính

Chớ lại để thân nịt đai cương.

 

 

 

108/249

 

VỌNG THIÊN-THAI TỰ

 

Thiên-thai sơn tại đế thành đông (1)

Cách nhất điều giang tự bất thông

Cổ tự thu mai hoàng diệp lư,

Tiên triều tăng lăo bạch vân trung

Khả liên bạch phát cung khu dịch

Bất dữ thanh sơn tương thủy chung

Kư đắc niên tiền tằng nhất đáo

Cảnh-Hưng do quải cựu thời chung (2)

 

 

NGÓNG LÊN CHÙA THIÊN THAI

 

Núi Thiên-thai thành Huế phương đông

Khó tới lui cách một gịng sông

Chùa xưa lá thu vàng phủ kín

Triều cũ tăng già bạc mây bông

Thương ḿnh đầu bạc c̣n long đong

Trung nghĩa chưa tṛn cùng núi sông

Nhớ lại năm trước từng thăm viếng

Cảnh-Hưng thời cũ vẫn treo chuông

 

 

 

Chú thích:

 

(1) Thiên Thai sơn: núi Thiên Thai ở phía đông thành Huế

(2) Cảnh-Hưng:  niên hiệu Lê Hiển Tông (1740- 1786).

 

 

 

 

 

109/249

 

GIẢN CÔNG BỘ THIÊM SỰ TRẦN (1)

 

Thanh sơn ngoại hữu bất qui nhân (2)

Sơn Bắc sơn Nam tẫn bạch vân

Thất nguyệt hựu phùng thu đáo nhăn

Thiên nhai không đái lăo tùy thân

Bách niên cổ lũy yên hà hợp (3)

Nhất đái hàn sa thảo thụ phân

Ư biến lan can vô dữ ngữ

Kỷ hồi kinh tọa ức Trần Tuân (4)

 

 

GỬI ÔNG TRẦN THIÊM SỰ BỘ CÔNG I

 

Ngoài non xanh có kẻ chưa về

Bắc nam giăng mắc mây bốn bề

Tiết thu tháng bẩy đà thấy rơ

Góc trời già cả theo rề rề

Hàng trăm năm, lũy thành mây tụ

Dải cát lạnh, cây cỏ phân chia

Tưa lan can chẳng người tṛ chuyện

Giật ḿnh tưởng gặp Trần Tuân gia.

 

 

 

Chú thích:

 

(1) Theo câu cuối cùng th́ ông Thiềm sự họ Trần này có lẽ là Trần văn Tuân, làm tham tri Bộ Lại dưới triều Gia Long đồng thời với Nguyễn Du.

(2) Tự nói ḿnh.

(3) Bài này làm lúc ở Quảng B́nh cho nên mới nói đến "bách niên cổ luỹ", chỉ Luỹ Thầy, bức thành ở Quảng B́nh, nơi xẩy ra những trận đánh nhau kịch liệt giữ họ Trịnh và họ Nguyễn, cũng như giữa quân Gia Long và quân Tây Sơn.

(4) Kinh tọa: do tích Trần Tuân tự Mạnh Công người Hán to lớn vạm vỡ, tính mến khách thường tháo chốt xe cuả khách ném xuống giếng để lưu khách la.i. Ông đi dến đâu ai cũng trọng vo.ng. Có người trùng tên cũng xưng là Trần Mạnh công mỗi khi đến nhà ai, mọi người đều kinh động nhưng khi vào th́ biết là không phải , do đó người ta đặt cho cái tên là “Kinh tọa”. Câu này ư Nguyễn Du muốn nói là người ḿnh nhớ trùng tên với Trần Tuân.

 

 

 

 

 

110/249

 

GIẢN CÔNG BỘ THIÊM SỰ TRẦN II

 

Thanh phong niểu niểu tự giang tân

Minh nguyệt thanh sơn thướng hải tần

Nan đắc tương phùng như thử da

Khả liên đồng thị vị quy nhân

Âm phù tuế văn sinh tiên đố

U thất thu hàn hiện quỉ lân

Dạ độc minh minh Chiêu Ẩn phú

Hồng Sơn tàm phụ nhất sơn vân

 

GỬI ÔNG TRẦN, THIÊM SỰ BỘ CÔNG II

 

Gió mát hiu hiu thổi từ sông

Trăng sáng núi xanh hướng bể trông

Gặp nhau như đêm nay thật khó

Thân phận đôi ta khách tha phương

Sách Âm phù mốc nẩy mọt khôn

Nhà tối thu rét quỷ dọa hồn

Bài phú Chiêu Ẩn đêm đọc rơ

Thẹn ḷng ta phụ núi mây Hồng

 

 

Chú thích:

 

(1) Âm phù: tức Âm phù kinh, một bộ sách cổ cuả Trung Quốc, nói về đạo lăo, đạo tiên.

(2) Chiêu Ẩn phú: chỉ bài phú Chiêu Ẩn sĩ cuả học tṛ Hoài Nam Tiểu Sơn đời Hán, đại ư hiệu triệu các bậc c̣n đi ở ẩn.

 

 

 

 

111/249

 

THU NHẬT KƯ HỨNG

 

Tây phong tài đáo bất quy nhân

Đốn giác hàn uy dĩ thập phần

Cố quốc hà sơn khan lạc nhật

Tha hương thân thế thác phù vân

Hốt  kinh lăo cảnh kim triêu thị

Hà xứ thu thanh tac dạ văn

Tự sẩn bạch đầu khiếm thu thập

Măn đ́nh hoàng diệp lạc phân phân

 

NGÀY THU CẢM HỨNG

 

Gió tây vừa viếng khách ly hương

Đà thấy  lạnh lẽo mười phần vương

Quê nhà sông núi ngày đă tắt

Đất khách thân ta gửi mây nương

Hôm nay chợt sợ cảnh già mang

Đêm qua nghe thoảng tiếng thu vang

Cười thầm đầu bạc tính toán vụng

Rơi rụng ngoài sân đầy lá vàng

 

 

 

112/249

 

SƠN TRUNG TỨC-SỰ (1)

 

Điệp điệp tằng loan thạch tác đôi

Yên la bố địa mật nan khai (2)

Hốt phùng hăi thú thụ gian xuất

Tri hữu tiều phu lâm hạ laị

Thiêu dă tân ngân thanh thảo tận

Ỷ sơn cựu kính bạch vân thôị

Sơn linh cố tuyệt khinh ph́ lộ (3)

Biến liệt nguy cương dữ hiểm nhai

 

TRONG NÚI TỨC SỰ

 

Núi cao trùng điệp đá chất đầy

Cỏ Yên La mọc chằng chịt dây

Ḱa con thú hăi hoảng hốt chạy

Có người hái củi dưới rừng đây

Vết cháy cỏ xanh c̣n dấu vết

Mây trắng ùn lên núi đường về

Thần núi cố t́nh ngăn khách quư

G̣ cao, vách đá hiểm muôn bề

 

 

 

Chú thích:

 

(1) Trong thời gian làm quan ở Quảng B́nh, Nguyễn Du có xin về quê nghỉ hai tháng vào mùa thu năm Nhâm thân (1812), lấy cớ về xây mộ ông Nguyễn Nễ . Bài thơ này làm vào hồi đó.

(2) Yên la: tên một loại cỏ dây mọc lan trên mặt đất

(3) Khinh ph́: do câu phi mă, khinh cừu (cưỡi ngựa béo, mặc áo cừu) trong sách Luận ngữ, ư nói người phong lưu sang trọng.

 

 

 

 

113/249

 

ĐỘ LINH GIANG

 

B́nh sa tận xứ thuỷ thiên phù

Hạo hạo yên ba cổ độ thu

Nhất vọng tân nhai thông cự hải

Lịch triều cương giới tại trung lưu

Tam quân cựu bích phi hoàng diệp (1)

Bách chiến tàn hài ngoạ lục vu

Bắc thướng thổ dân mạc tương tị

Táp niên tiền thị ngă đông chu

 

 

QUA Đ̉ SÔNG GIANH

 

Tuốt xa băi cát nước trời liền

Bến xưa thu khói sóng triền miên

Mắt nh́n  sông chảy thông ra biển

Triều xưa gịng nước vạch hai bên

Lá vàng bay ba quân thành cũ

Xương tàn trăm trận cỏ xanh bầy

Người dân vùng bắc chớ tị ngại

Ba mươi năm trước bạn vui vầy

 

 

Chú thích:

 

Linh Giang: sông Gianh, thuộc tỉnh Quảng B́nh, thời xưa là con sông chia cách hai miền Nam Bắc.

(1) Cựu Bích: luỹ cũ, chỉ Luỹ Thầy

 

 

 

 

 

 

114/249

 

NỄ GIANG KHẨU HƯƠNG VỌNG

 

Vọng vọng gia hương tự nhật biên (1)

Hoành Sơn chỉ cách nhất sơn điên

Khả liên qui lộ  tài tam nhật

Độc băo hương tâm dĩ tứ niên (2)

Yến đảo thu tàn thanh nhập hải

Nễ giang trào hướng bạch hàm thiên

Ngoại châu kim dữ ngô châu biệt

Khán khán nhân phong bất tự tiền

 

 

 

NGÓNG VỀ QUÊ HƯƠNG TỪ CỬA SÔNG NỄ

 

Ngong ngóng quê hương xa tít trời

Dù cách Hoành Sơn một núi thôi

Đường đi đây đó ba ngày tới

Mà ôm nỗi nhớ bốn năm rồi

Ḥn Yến muà thu xanh quyện biển

Triều lên sông Nễ bạc ánh  dương

Châu này khác hẳn châu ta cũ

Nh́n dân phong tục biết hai đường

 

 

 

Chú thích:

 

Nễ Giang: tên một con sông ở phía bắc tỉnh Quảng B́nh gồm đèo Ngang đi vào, tức sông Ṛn

(1) Nhật biên: bên mặt trời, nghĩa bóng chỉ một nơi xa.

(2) Tứ niên: chỉ thời gian tác giả làm cai ba.Quảng B́nh từ năm Kỷ Tị (1809) đến năm Nhâm Thân (1812). Bài thơ này làm vào cuối năm 1812.

 

 

 

.

 

115/249

 

Y NGUYÊN VẬN KƯ THANH OAI NGÔ TỨ NGUYÊN

 

Nhất dạ tây phong đáo hải mi

Đồng niên giao nghị thượng y y

Đại canh hữu thiệt sinh trường túc (1)

Khứ quốc hà tâm lăo bất quy

Tiêu khát nhật tăng Tư Mă bệnh (2)

Mộnh hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi (3)

Lâm giang vị cảm đề Anh Vơ (4)

Hoàn hữu trung nguyên nhất đại nhi (5)

 

 

HOẠ BÀI GỬI ÔNG NGÔ TỨ NGUYÊN Ở THANH OAI

 

Trên bờ biển một đêm gió thổi

T́nh bạn đồng năm vẫn chẳng phôi

Miệng lưỡi thay cày anh sống đủ

Tôi già thân đất khách vẫn  trôi

Anh: tiểu đường bệnh Tương càng nặng

Tôi mộng thơ gửi Đỗ hàng đêm

Anh Vơ qua sông thơ chưa đặng

Tài cao thêm kẻ đất trung nguyên

 

 

 

Chú thích:

 

Thanh Oai: tên huyện ở Hà Đông (nay thuộc Hà Sơn B́nh), quê của Ngô Tứ Nguyên (không rơ tên thật là ǵ).

(1) Đại canh hữu thiệt: dùng lưỡi tahy cày, nghĩa là dạy học tṛ.

(2) Tiêu khát: bệnh uống nhiều nước, tức bệnh đái ra chất đường. Tư Mă Tương Như mắc bệnh này.

(3) Thiếu Lăng: tên hiệu của Đỗ Phủ, một nhà thơ lớn đời Đường, (Trung quốc).

(4) Anh Vơ: tức Anh Vơ Châu, tên một băi cát ở tây nam thành Vũ Xương, giữa sông Trường Giang. Trong bài thơ của Thôi Hiệu đề lầu Hoàng Hạc, có câu: Phương thảo thê thê Anh Vơ châụ Đây nhắc lại tích Lư Bạch thấy bài thơ Thôi Hiệu hay quá, không đề thơ nữa.

(5) Trong tập này, tác giả không ghi bài nguyên xướng.

 

 

 

 

116/249

 

TỐNG NGÔ NHƯ SƠN CÔNG XUẤT NGHỆ AN

 

Cẩm La giang thượng khấu chinh an (1)

Bát hội phi nan tích biệt nan

Bát đại kỳ văn hoa lưỡng quốc (2)

Nhất xa cao vũ nhận toàn Hoan (3)

Nhân ṭng đạm bạc tư vi chính

Thiên vị kiềm lê bất phóng nhàn

Bắc vọnh Hồng sơn khai đức diệu

Thiên nhai cử tửu khách hương quan

 

 

TỐNG ÔNG NGÔ NHỮ SƠN RA LÀM HIỆP TRẤN NGHỆ AN

 

Bến Cẩm lưu ngựa tiễn ông đi

Gặp nhau không bơ khó biệt ly

Văn như tám đại gia hai nước

Châu Hoan mưa hưởng vết ông di

B́nh dị tính giúp việc công chính

Cũng v́ dân nên chẳng thể nhàn

Trông về Hồng Lĩnh thấy sao đức

Chén rượu mừng quê xa dặm ngàn

 

 

 

 

Chú thích:

Ngô Nhữ Sơn: tức Ngô Nhân Tĩnh, tự Nhữ Sơn, nghuyên người Trung Quốc sang ở Gia Định, thành người Việt Nam. Ông học giỏi thơ hay.Tháng giêng năm Gia Long thứ mười (1811), ông đang làm quan tham trị Bộ Hộ ở Huế, được bổ hiệp trấn Nghệ An. Lúc đó Nguyễn Du đang làm cai bạ Quảng B́nh, có thơ này tiễn ông.

(1) Cẩm La: Không biết ở đâu, có lẽ là ở Quảng B́nh, v́ Nguyễn Du gặp Ngô Nhữ Sơn ở Quảng B́nh.

(2) Bát đại kỳ văn: tức văn chương của tám bực đại gia Đường Tống.

Hoa lưỡng quốc: làm đẹp hai nước, chỉ nước ta và Trung Quốc.

(3) Ư câu thơ nói: ông thi hành chính sách tốt, nhân dân Nghệ An được nhờ như cây cối gặp mưa . Năm ấy, dân Nghệ Tĩnh đói kém, thuế tô, thuế điền thiếu kể tới mười vạn. Khi Nhân Tĩnh đến nơi có tâu về triều xin hoăn thâu thuế

 

 

 

 

117/249

 

ĐAI TÁC CỬU THÚ TƯ QUY I

 

Quan ngoại thu phong tống địch xuy

Ban Siêu đầu bạch vị thành quy

Thập niên hứa quốc quân ân trọng

Thiên lư ly gia lữ mộng tŕ

Dạ tú vinh hoa thân ngoại huyễn

TRiêu vân danh lợi nhăn tiền phi

Lũng thiên tuế tuế qua điền thục (1)

Khổ tận cam lai thượng hữu kỳ

 

 

 

BÀI THƠ CỦA NGƯỜI ĐI THÚ ĐĂ LÂU CHƯA VỀ I

 

Ngoài ải tiếng sáo gió thu đưa

Đầu bạc chưa về Ban Siêu xưa

Ơn vua cao mười năm phụng quốc

Giấc mộng xa ngàn dặm vẫn dư

Vinh hiển gấm đêm thân như ảnh

Lợi danh ngày sớm đổi như mây

Ruộng dưa lại chín thêm lần nữa

Hết khổ đến sướng sẽ có ngày

 

 

 

Chú thích:

Ban Siêu: người đời Đông Hán, đi chinh phục các nước Tây vực ở tây bắc Trung Quốc, xa nhà hơn ba mươi năm, khi già mới về.

 

(1) Qua điền thục: ruộng dưa chín. Theo Tả truyện: Liênxứng và Quản Chi Phủ đi thú đất Quỷ Khâu, khi đi là mùa dưa chín, hẹn đến mùa dưa năm sau sẽ được về. Đây nói năm nào cũng dưa chín tức là đi thú đă lâu năm chưa về.

 

 

 

 

118/249

 

ĐẠI TÁC CỬU THÚ TƯ QUI  II

 

 

Thiên nhận Hoành Sơn nhất đái

Bạch vân hồi thủ cách thiên nha (nhai)

Tân thu khí hậu thôi hàn chử

Cố quốc quan sơn kư dạ già

Thiên địa nhất thân trung dịch hiếu

Phong trần vạn lư quốc phong gia

Nguyệt trung hoành địch thái vô lại

Bán dạ giang thành suy “Lạc hoa” (1)

 

 

 

BÀI THƠ CHO NGƯỜI ĐI THÚ LÂU NĂM CHƯA VỀ II

 

 

Hoành Sơn cao ngất, một ḍng sông

Ngoảnh nh́n mây trắng trời xa trông

Thu về khí lạnh tiếng chày vải

Quê cũ kèn đêm gợi nhớ mong

Trời đất một thân trung thay hiếu

Trần ai ngàn dặm nước làm nhà

Đêm trăng tiếng sáo thảm sầu quá

Nửa đêm vẳng khúc "Mai Rụng Hoa"

 

 

Đàm Giang phỏng dịch.

 

24 November 2005

 

 

 

 

Home | Literature | Poetry | Science | Great Places | Fiction and More | Comments

Copyright © 2005 Sóng Viêt-Đàm Giang All Rights Reserved

This site is continually updated.