VAI
TR̉ CUẢ OMEGA-3 FATTY ACIDS
TRONG
VIỆC ĐIỀU-TRỊ VÀ PH̉NG NGỪA BỆNH
Trịnh Cường, M.D. & Giang Nguyễn Trịnh, R.Ph.,D.Ph.
Nhập đề
Sự thông dụng của dầu
cá trong việc ẩm thực tăng giảm vào thập
niên 90. Vào những năm cuối 1990, khi cuộc nghiên
cứu lâm sàng rộng lớn như GISSI được
đăng tải nêu lên lợi ích của omega-3 acids, th́
dầu cá trở thành một món bổ túc được
t́m kiếm nhiều nhất. Tuy nhiên v́ mùi vị không
được ưa thích của dầu cá, nó không
được dung nạp tốt ngay cả đối
với những người từng cổ vơ nó hăng say
nhất. Nhờ phương pháp lọc dầu
được cải tiến sự tinh khiết và mùi
vị đă gia tăng và c̣n nhiều thêm nghiên cứu
để chứng tỏ lợi ích cuả dầu cá
vượt khỏi lợi ích cho tim. Trong một hội thảo gần đây
tại Đại-Học Columbia, có nhiều nghiên cứu
gia lỗi lạc trong lănh vực nghiên cứu về omega-3
fatty acids tham dự. Bài sau đây đề cập tới
những khuyến dụ về Điều-Trị cũng
như pḥng ngừa do Viện Dinh Dưỡng thuộc
Đại-Học Columbia, Nữu Ước, cung cấp.
Mục
đích của cuộc
hội thảo là tả rơ
chức năng của omega-3 fatty acids (đặc biệt
chuỗi dài (LC) eicosapentanoic acid (EPA) C20:5n-3, và docosahexanoic
acid (DHA) C22:6n-3, gia tăng sự hiểu biết những
ảnh hưởng không tốt trong việc dùng ít n-3 fatty
acid và áp dụng những phát
hiện liên hệ tới LCn-3 fatty acids trong sự cải
thiện sức khỏe.
Omega-3
fatty acid và n-6 fatty acids là những chất béo không băo hoà
(polyunsaturated fatty acids-PUFA) v́ chúng không thể tổng
hợp được trong
cơ thể. Nguồn gốc chính của 18-carbon fatty acids
(linoleic acid-LNA) là hạt flaxeed, hạt đậu nành,
canola, và hạt bông g̣n, hạt lúa ḿ và dầu walnut. Linoleic
acid (LA), chất 18-carbon fatty acid được t́m thấy
trong safflower, bắp, đậu nành, hạt bông g̣n; thịt
là nguồn gốc LC n-6 fatty acid, arachidonic acid (AA) (C20:4n-6).
Cá và dầu cá là nguồn gốc của 20- và 22- fatty acids.
Các 18-carbon PUFAs xuất xứ từ thảo mộc có
thể biến đổi được (dầu rằng
không hoàn hảo) thành chuỗi dài và h́nh thức có
hoạt tính biến
dưỡng hơn AA, EPA,và DHA. Sự biến đổi
của n-3 và n-6 fatty acids dùng những diếu-tố
giống nhau. Qua một số giải băo ḥa (desaturation) và
kéo dài, LA được biến thành AA, trong khi LNA
được biến thành EPA và kéo dài thành DHA. Nguồn
gốc chuỗi ngắn n-3 fatty acid như dầu canola,
flaxseed, và các cây có lá có ít ảnh hưởng tới
nồng độ DHA và EPA trong các mô.
AA và EPA, cả hai đều là
20-carbon fatty acids, l2 chất dẫn tới các ecosanoids.
Đa số những t́m ṭi đều chú trọng tới
prostaglandins, thromboxanes và leukotrienes xuất xứ từ AA và
EPA. AA là chất dẫn tới eicosanoid có hoạt tính mạnh,
trong khi EPA là chất dẫn tới những eicosanoids ít
hoạt tính hơn. AA và EPA ở trong màng phospholipid hai
lớp của tế bào. AA là chất dẫn tới
loại 2 prostaglandins và thromboxanes và loại 4 leukotrienes.
Loại 2 và 4 eicosanoids biến thể từ AA có thể gây
viêm và c̣n có thể làm co các mạch máu, kích thích sự
kết tụ tiểu cầu và là những hoá chất
độc tùy theo nơi nào trong cơ thể mà eicosanoids
được tăng hoạt. EPA là chất dẫn
tới loại 3 prostaglandins và thromboxanes và loại 5
leukotrienes; chúng ít mạnh hơn loại 2 và 4 và có
đặc tính làm nở mạch máu cũng như ngăn
kết tụ tiểu cầu.
Phospholipase
A2 được kích thích bởi những agonists sinh lư
để tách fatty acid ra khỏi màng phospholipid hai lớp,
fatty acids sau đó được biến thành eicosanoids qua
hai đường cyclooxygenase(COX) và lipoxygenase (LOX). N-6 và n-3
fatty acids dành diếu-tố COX và LOX để biến thành
eisosanoids. V́ vậy, sự hiện diện đúng mức
của EPA trong phospholipid làm giảm mức độ
eicosanoids xuất xứ
từ AA có thể bằng cách giảm mức độ
diếu-tố dùng để biến AA ra prostaglandins và
leukotrienes; v́ vậy DHA là một 22-carbon fatty acid và v́
vậy không trực tiếp biến thành eicosanoids, tuy nhiên,
DHA có thể được biến đổi ngược
lại thành EPA. DHA là một fatty acid có nhiều trong màng
tế bào, nó hiện diện trong tất cả các mô và
đặc biệt có nhiều
trong mô thần kinh (60% năo bộ có PUFAs, nhất là DHA)
và vơng mô và rất cần thiết cho sự phát triển
thị giác và hệ thống thần kinh. EPA
được coi như có tính kháng viêm.
Cho
tới nay, những cuộc t́m ṭi về n-3 fatty acids đă
đưa tới những kết quả trái ngược,
phần lớn là v́ những cách nghiên cứu không
được rơ rệt (nhận xét thay v́ can thiệp).
Sự thay đổi về mẫu số, cũng như
tổng số khác biệt và sự kéo dài cung cấp n-3
fatty acids.
Omega-3
fatty acids và thời kỳ thai nghén
Đă
có một số nghiên cứu rộng răi liên quan tới
omega-3 fatty acid và thai nghén. Đo lường kết quả
gồm có thời gian thai nghén, cân nặng cuả trẻ
sơ sinh, tiền sản giật (preeclampsia), hư thai tái
hồi, và sự trầm cảm của người
mẹ. Những nghiên cứu nhận xét đă t́m thấy
liên hệ giữa sự tiêu thụ cá và thời gian thai
nghén và cân nặng khi mới sanh. Trong một cuộc nghiên
cứu ngẫu hợp thực hiện tại nhiều trung tâm, sự bổ túc 2.7 g EPA
và DHA từ tuần 20 thụ thai hay 6.1g EPA và DHA từ
tuần 33, làm giảm nguy cơ sanh thiếu tháng, trong khi
nghiên cứu không thấy có ảnh hưởng tới
thời gian thụ thai. Một nghiên cứu bởi Smuts và
cộng sự viên cho thấy 1 bổ túc DHA trong trứng
(133g DHA trong một quả trứng) trong ba tháng cuối gia
tăng thời gian có thai tới 6 ngày trong một mẫu
số Mỹ gốc Phi Châu so với một số kiểm
soát.
Tiền
sản giật là một vấn đề thông
thường trong thời kỳ có thai, đặc biết
nếu tuổi người mẹ tăng lên. Những
nhận xét về tác dụng của n-3 fatty acids đối
với tiền sản giật cho thấy có lợi ích, tuy
nhiên những nghiên cứu ngẫu hợp có kiểm soát
không cho thấy có tác dụng tốt đối với tiền sản giật khi dùng
dầu cá.
Tác
dụng cuả n-3 fatty acids trên sự sẩy thai tái
diễn có nhiều hứa hẹn. Một cuộc nghiên
cứu dùng dầu cá bổ túc cho bệnh nhân bị
hội-chứng kháng phospholipid kéo dài đi đôi với
sẩy thai tái diễn cho thấy sau 3 năm, 86% bệnh
nhân sanh được con khỏe mạnh.
Mức
độ DHA giảm đi trong thời kỳ thai nghén
(cũng như sau khi sanh) v́ DHA được chuyển qua
trẻ sơ sanh để giúp sự phát triển thần
kinh hệ. Sự trầm cảm thường đi đôi
với mức độ thấp n-3 fatty acids, đặc
biệt DHA. Một cuộc nghiên cứu nhận xét rộng
lớn, thực hiện tại nhiều quốc gia về
sự trầm cảm sau khi sanh t́m thấy một liên
hệ âm giữa sự tiêu
thụ đồ biển và nồng độ DHA trong
sữa và bệnh trầm cảm, tuy nhiên AA và EPA không có liên hệ với
bệnh trầm cảm.
Những
nghiên cứu đó có thể bị giới hạn v́ sử
dụng những thử thách không thích hợp với phát
triển tuổi tác, mẫu số, liều DHA, sự mâu
thuẫn của những chế độ ẩm thực
để kiểm soát, hay sự tiếp xúc với DHA trong
tử cung. Ta cần có sự hợp tác giữa chuyên viên
dinh dưỡng, y-sĩ nhi khoa và khoa học gia nghiên
cứu phát triển thần kinh hệ để t́m
tiến triển trong cuộc t́m ṭi. Những lợi ích
đặc biệt của sự tiêu thụ đầy
đủ DHA trong giai đoạn phát triển nhanh cuả
năo bộ không có thể đo được cho tới lúc
đứa nhỏ đă lớn hơn. Carlson và cộng
sự viên đă bàn tới
những tác dụng tốt của sự cung cấp
sớm DHA có liên quan tới chỉ số Bayley Psychomotor
Developmental Index (PDI) ( khuôn vàng thước ngọc cuả
sự phát triển thần kinh hệ, đo lường
sự kiểm soát thân ḿnh, sự khéo léo về phối
hợp và cử động tinh tế) bằng dấu ghi
vào 30 tháng, mức thông minh(IQ) ở 4 tuổi, dấu ghi MFFT
(Matching Familiar Figures Test) và sự lanh lẹ ở 6
tuổi, và áp huyết máu khi tim trương thấp lúc 6
tuổi.
Những nghiên cứu về
sự phát triển trẻ sơ sinh thường so sánh
sữa bột với sữa người. Mức
độ trong sữa người thay đổi và dân
sống tại Hoa Kỳ bị coi như có nguy cơ có
mức độ thấp v́ đàn bà tại Hoa Kỳ tiêu
thụ ít DHA so với đàn bà ở nước khác.
Mức độ DHA trong sữa người thay
đổi tùy theo sự khác biệt tiêu thụ. Đàn bà
Nhật và Trung Hoa sống gần biển có mức
độ DHA trong sữa cao nhất. Đàn bà tại Hoa
Kỳ có mức độ DHA thấp nhất trong sữa.
Tại Hoa Kỳ, sữa bột cho trẻ sơ sinh được
bổ túc thêm DHA vào năm 2002. Để có thể
đạt được mức độ tiêu thụ
trung b́nh DHA trên hoàn cầu, sữa bột cần chứa
đựng 0.3% tớI 0.4% FHA và những đàn bà cho con bú cần phải
được bổ túc 300mg mỗi ngày. Arachidonic acid (AA)
cũng cần được thêm vào sữa bột
để giống sữa người với mức
từ 0.4% tới 0.6% AA của tổng số fatty acid trong
sữa bột.
Việc
sử dụng phụ trợ dầu cá đă được nghiên cứu trong một
sồ điều kiện viêm như: bệnh viêm dạng
khớp, bệnh viêm ruột và
bệnh suyễn.
Bao
nhiêu Omega-3 acid mới đủ và nguồn gốc cuả
chúng phải từ đâu?
Sự
tiêu thụ vừa đủ cho LNA đă được
ấn định trung b́nh là 1.6g cho đàn ông và 1.1g cho
đàn bà. Tiêu thụ vừa đủ là mức độ
tối thiểu cần để tránh t́nh trạng
thiếu hụt, nhưng không kể tới trường
hợp pḥng ngừa. Nhiều tổ chức và chuyên viên
như: Hội Tâm-Học Hoa Kỳ (American Heart Association),
Mức độ có thể chấp thuận
được cuả các chất dinh dưỡng (Acceptable Macronutrient Range- AMDR),
những chỉ dẫn về ẩm thực năm 2005
(2005 Dietary Guidelines), Chương Tŕnh giáo Dục về
cholesterol (National Cholesterol Education Program-NCEP), Tổ Chức
Y-Tế hề Giới (World Health Organization), và Hội
Quốc Tế Nghiên cứu Fatty acids và Lipids (International
Society for the Study of Fatty Acids and Lipids-ISSFAL), đă đăng
tải những khuyến dụ về sự tiêu thụ cá
và dầu cá.
Một
vài khuyến dụ là gia tăng tiêu thụ cá, trong khi
những khuyến dụ khác cho biết mức độ
nhất định EPA và DHA như là chất bổ túc hay
là từ nguồn gốc biển. Cá chứa đựng
nhiều n-3 fatty acids như cá anchovies, mackerel, cá hồi, cá
sardines, cá chép biển, cá lưỡi kiếm, và cá
hương (trout). Một số cá trên cần phải
được tiêu thụ có giới hạn v́ chứa
đựng thủy ngân và độc tố khác. Cá
lưỡi kiếm, mackerel, cá mập và tilefish phải
được giới hạn cho 7 ounces mỗi tuần; cá
tuna và red snapper phải được giới hạn cho 14
ounces mỗi tuần; trong khi cá hồi, cá chê, mahi mahi và tune
trong hộp không cần giới hạn. Nguồn gốc
nước chứa đựng mức độ các
độc -tố khác nhau về thủy ngân, PCBs, digoxin và
những chất khác có thể làm thay đổi những
khuyến dụ trên.
Trái
lại với những chuyên gia khác, Kris-Etherton cho rằng
dầu walnut, đậu nành và canola có thể đóng góp cho
mức cần thiết LNA. Để chứng minh sư
kiện trên cuộc nghiên cứu Lyon Diet Heart Study. Một loại
ẩm thực Địa Trung Hải sẽ cung cấp
khoảng 0.6% tới 1% nhiên liệu hay 2g LNA, không quá 7g LA
mỗi ngày, có nhiều oleic acid, ít mỡ băo ḥa, và ít nguồn gốc n-6 fatty acids. Cách
ẩm thực Hoa Kỳ , tuy nhiên không bắt chước
sự tiêu thụ fatty acid như trên và rất có nhiều
n-6 fatty acids, ngăn chận LNA có thể biến
đổi ra EPA và DHA.
Những
nghiên cứu dịch tễ học tại Hoa Kỳ báo cáo
rằng 500mg/ngày fatty acid có thể giảm nguy cơ mắc
bệnh tim mạch. Chế độ ẩm thực trung
b́nh của Hoa Kỳ chỉ cung cấp 100mg EPA và DHA mỗi
ngày. Như vậy chỉ là 5 phần kém hơn mức
khuyến dụ để
hưởng lợi trên phương diện bệnh tim mạch
và cũng 5 lần thấp hơn mức khuyến dụ
của Tổ Chức Y-Tế Quốc- Tế về EPA và
DHA.
Kết
Luận
Sự bổ túc Omega-3 Fatty Acids trong thời kỳ thai nghén có gia tăng thời gian và cân nặng trẻ sơ sinh, một lợi ích có thể cho những đàn bà hay bị sẩy thai, và sự giảm thiểu sanh thiếu tháng. Tuy nhiên không thấy có giảm nguy cơ tiền sản giật.
Có những bằng chứng hiển nhiên rằng n-3 fatty acids tăng sự bén nhậy thị giác cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ khi người mẹ hay đứa bé được bổ túc với DHA. DHA có thể là một chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển trong suốt thời gian có thai và tới 2 tuổi đời.
Cuộc nghiên cứu cho thấy mức độ DHA thấp là một nguy cơ mắc bệnh sa sút trí tuệ.
Mức độ tổng quát n-3 fatty acids, EPA và DHA thấp đưa tới nguy cơ bệnh tim mạch cao.
Sự cung cấp trong ẩm thực hay bổ túc được coi như đề pḥng hạng nh́ hay hạng ba.
Omega-3 fatty acids cũng giúp đề pḥng bệnh tiểu đường loại 2 và hội-chứng chuyển hóa, hai tiền lượng dẫn tới bệnh tim mạch.
Có một phần nào giúp pḥng ngừa bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia), bệnh trầm cảm và hay rối loạn gây thù nghịch; tuy nhiên nhiều cuộc nghiên cứu rộng lớn cần được thực hiện.
Những tính chất kháng viêm của n-3 fatty acids có giúp giảm triệu chứng bệnh viêm khớp dạng thấp và có thể gia tăng thời gian thuyên giảm bệnh Crohn, tuy nhiên những nghiên cứu về bệnh suyễn và ruột già dễ kích thích đă đưa tới kết quả không rơ rệt.
Những khuyến dụ về nhu cầu bổ túc n-3 fatty acids hăy c̣n trong ṿng bàn căi. Chúng thay đổi tùy theo bệnh cần pḥng ngừa: mức độ EPA và DHA bắt đầu từ 180mg (đề pḥng bệnh sa sút trí tuệ) tới 500mg mỗi ngày (giảm bệnh tim mạch) tới 1000mg (giảm bệnh tâm trí). Nguồn gốc từ biển chứa đựng EPA và DHA và không đ̣i hỏi phải kéo dài hay giải băo ḥa mới có công hiệu. Nhiều nghiên cứu c̣n cần thiết để t́m những trường hợp trong đó n-3 fatty acids có lợi ích và để xác định mức độ và nguồn gốc của chúng.
3 December 2005
BS Trịnh Cường & DS Trịnh
Nguyễn Đàm Giang.
Home | Literature
| Poetry
| Science
| Great Places
| Music and
Other | Comments
Copyright © 2005 Sóng Viêt-Đàm Giang All Rights Reserved
This site is continually updated