về cuộc chiến
Việt Nam.
Nguyễn Gia Tiến
Nhà báo
Mỹ William F. Jasper, chủ bút tờ tuần san The New American số 25 tháng
3, 2002 đã đề cập đến 7 huyền thoại thường được lưu truyền ở Hoa Kỳ
về cuộc chiến Việt Nam (Seven Myths About the Vietnam War).
Các huyền thoại
này nói lên một số những thành kiến sai lầm, cho đến ngày nay vẫn
còn tồn tại trong dư luận Mỹ và Tây Âu. Chẳng hạn có thể kể, sự
lấp liếm nói Hoa Kỳ không thể thắng bằng quân sự tại Việt Nam, sự
bịp bợm cho rằng tập đoàn CS Hà Nội là những người “quốc gia yêu
nước giành độc lập”. Thậm chí còn tồn tại những âm mưu nhằm che
đậy, cản trở những phanh phui về vai trò phản bội của giới báo chí
truyền thông Mỹ mà đa số là thiên tả, đã tiếp tay với Cộng Sản
trong thời chiến, góp phần không nhỏ vào sự thất bại của Hoa Kỳ.
Vài thập niên sau chiến tranh, một số tài liệu của Bộ Quốc phòng
Mỹ đã được giải mật. Người ta phải sững sờ khi thấy những chuyện
không thể ngờ. Ví dụ các chỉ thị rất ngu xuẩn gọi là “luật lệ giao
tranh” ( Rules of Engagement, ROE) do nhóm dân sự lãnh đạo bộ Quốc
phòng, tiêu biểu là Mc Namara, áp đặt đối với các cấp chỉ huy quân
sự Mỹ. Các chỉ thị này đã ngăn cản rất nhiều hiệu năng chiến đấu
của quân đội Hoa Kỳ. Chẳng hạn những lịnh cấm máy bay Mỹ không được
tấn công các dàn hỏa tiễn SAM “đang trong giai đoạn lắp ráp “ (vì sợ
đụng chạm tới các cố vấn Liên Sôù!), không được tấn công máy bay
MIG trên phi đạo chưa cất cánh, hoặc ngay cả khi các MIG này đang bay
nhưng...không có “hành động thù nghịch”! Cấm đánh phá các xe tải,
nếu chúng không di chuyển trên xa lộ, v.v...! Các lệnh lạc xuất phát
từ Bộ Quốc phòng Mỹ đôi khi còn trái ngược, và thường xuyên chậm
chạp, rụt rè, không đáp ứng được với biến chuyển của tình hình
chiến trường. Những tướng lãnh nổi tiếng như Curtis LeMay, Nathan
Twining, Arleigh Burke...đều hết sức bất bình, và đồng thanh cho rằng
cuộc chiến đã có thể thắng dễ dàng, nhanh chóng, nếu không có sự
điều hành ngu xuẩn của nhóm lãnh đạo dân sự Mỹ. Mặt khác, cuộc
Tổng công kích Tết Mậu thân đã là một thảm bại cho Cộng quân, và
đám phóng viên chiến trường thật ra đã tường thuật khá trung thực
như vậy về Hoa Kỳ. Nhưng giới cầm đầu báo chí truyền thông thiên tả
Mỹ, tiêu biểu như Walter Cronkite của đài CBS và đồng bọn, đã dàn
dựng thành một sự thất bại của Hoa Kỳ, gây ảnh hưởng tâm lý trầm
trọng trong quần chúng Mỹ. Nhân vật Hồ Chí Minh, xuyên xuốt là một
cán bộ CS quốc tế, được Liên Sô gửi sang làm phụ tá cho Mikhail
Borodin từ thập niên 1920 để hoạt đông tại Trung Hoa, thì được đánh
bóng thành “cha già dân tộc” dưới ngòi bút của những Jean Lacouture,
Stanley Karnow, Wilfred Burchett...và trang trọng đăng lại trên các báo
lớn tại Hoa Kỳ. Còn sự kiên cường chiến đấu, sự hy sinh của Quân
Dân Miền Nam chống lại Cộng Sản để tự vệ, thì đã hoàn toàn bị bỏ
qua.
Ngày nay, gần ba
chục năm sau khi chiến tranh chấm dứt, số người Mỹ nói lên sự thật
về cuộc chiến Việt Nam vẫn chỉ mới đếm được trên đầu ngón tay. Trong
các thư viện hiện nay ở Hoa Kỳ còn đầy rẫy các tài liệu, sách báo
bịp bợm của bọn phản chiến Mỹ, của Việt Cộng. Phía Cộng Đồng người
Việt tị nạn, số tài liệu còn quá ít để nói lên sự thật cho người
Mỹ và giới trẻ Việt Nam tại hải ngoại. Một vài cấp lãnh đạo cũ
của VNCH đã viết hồi ký, một số có giá trị, một số chỉ để tự đánh
bóng cá nhân, thậm chí đôi khi còn kêu gọi “quên quá khứ, xóa bỏ
hận thù”! Có lẽ đây là phương cách tốt nhất để tiếp tay vào sự
bóp méo Lịch sử của Cộng Sản, và sẽ rất có hiệu quả để duy trì sau
này nơi giới trẻ hải ngoại cái mặc cảm là hậu duệ của bọn “đĩ
điếm, tay sai đế quốc” bỏ chạy ra nước ngoài khi xưa! Có thể hy vọng
được gì nhiều chăng, nơi một giới trẻ mang hành trang tâm lý như vậy?
Cần nhận định là các cố gắng nói lên sự thật về Lịch sử, về cuộc
chiến vừa qua, hoàn toàn không do động lực của sự “hận thù” như một
số người ngộ nhận. Bởi vì nếu giới trẻ trong và ngoài nước biết rõ
lịch sử, biết rõ bản chất thực sự của bọn cầm quyền Hà Nội hiện
nay, nhận thức được nguyên nhân của sự nghèo đói, tụt hậu tại Việt
Nam, nhận diện được tập đoàn nào đang kìm hãm, cản trở đà tiến hóa
của dân tộc, thì họ càng có thêm quyết tâm để hành động, mau chóng
giải thể chế độ. Nếu Hải ngoại không làm việc này thì giới trẻ sẽ
tiếp tục tìm ra được “sự thực” trong loại tài liệu mà mấy tên trí
thức thiên tả Mỹ tại trường Đai Học Massachusetts đang ráo riết cộng
tác với hai cán bộ văn hóa VC để sắp viết ra về Lịch sử người Việt
tị nạn!
Việc nói lên sự
thực Lịch sử để cảnh giác không phải là hành động “chống Cộng
xuông” mà có người bảo rằng “lỗi thời”, vì cho rằng ngày nay Việt
Nam “đâu còn Cộng Sản” nữa! Đúng, Việt Nam không còn Cộng Sản, nhưng
còn nguyên vẹn một chế độ toàn trị, xây dựng trên nhà tù và họng
súng, như ở Miền Bắc từ hơn nửa thế kỷ nay. Sự lẫn lộn, không phân
biệt nổi một chế độ toàn trị (totalitarianism) kiểu Cộng sản, với
một thể chế độc tài (authoritarianism) như Singapore, Đại Hàn, là
chứng tỏ sự hời hợt hoặc ấu trĩ trong nhận thức.
Người ta còn
phải sửng sốt khi chế độ vô luật pháp hiện nay, chế độ Mafia Đỏ Hà
Nội (danh từ được cả những người CS như Dương Thu Hương xác nhận), lại
được một số người ở Hải ngoại coi là một chế độ...”tư bản bình
thường”ù! Chế độ này, với hơn mười năm “đổi mới”, đã tập tành “làm
kinh tế tư bản” với những thành quả thảm hại ra sao, mọi người đều
thấy rõù!
Thật ra có thể
nhận định không sai bao nhiêu, là nhóm lãnh đạo Hà Nội hiện nay mù
tịt về Tư bản, cũng như đàn anh của họ và Hồ Chí Minh khi xưa mù tịt
về Cộng Sản. Thực vậy, chưa chắc gì họ Hồ và đàn em trước đây đã
hiểu thế nào là Cộng Sản, nhưng cái “láu” của họ là biết dựa vào
một thế lực ngoại bang để nắm quyền bằng mọi giá, dù phải xử dụng
những thủ đoạn tột cùng bất nhân. Tất cả tài năng, bản lãnh của
họ là bắt chước, là rập khuôn theo đàn anh Nga Tàu để tồn tại. Và
mọi nỗ lực, ưu tư duy nhất chỉ là bám chặt chính quyền. Cho nên, nếu
nhóm Hồ Chí Minh ngự trị được tại Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay, có
lẽ là vì họ đã kết tinh, vận dụng tối đa được những gì lưu manh, ma
giáo nhất còn tồn tại trong nhân tính ! Các nhóm Quốc Gia không
CS khác đều thua, thất bại trước CS, là vì kém...ma giáo! Thực là đơn
giản! Nhưng khá đau thương! Ngày nay, khi Liên Sô xụp đổ thì nhóm đàn
em Hồ lại tiếp tục cái “láu” này bằng cách bám xát Băc Kinh, dựa
thế đàn anh Phương Bắc để ngự trị, dù có phải cắt biển, dâng đất,
của Tổ tiên. Vì vậy, nếu Cộng Đồng hải ngoại tiếp tục có hành
động tố cáo, chống cái láu vặt, chống cái lưu manh, cái vô nhân,
của tập đoàn Hà Nội, thì cũng là điều bình thường, hợp lý. Vả để
cho “tiện việc sổ sách”, cho “gọn, nhẹ”, thì tiếp tục gọi sự chống
đối này là “chống Cộng” cũng chẳng sai bao nhiêu.
Người viết bài này
vẫn “chịu” câu nói của một anh bạn, đã từng bị đi tù CS. Để trả lời
câu hỏi có phải anh “chống Cộng”vì “hận thù bị cải tạo”, anh ta
nói:” Sự chống Cộng thật ra cũng bình thường như người qua đường,
thấy kẻ cướp rựt đồ của người khác rồi bỏ chạy, thì phải hô hoán,
kêu cảnh sát, thế thôi. Lờ đi, không kêu cảnh sát mới là chuyện
bất bình thường!”
Thụy Sĩ, tháng 7, 2002