CÁI SỰ ... ĐỜI

TRUYỆN PHIẾM CỦA LÃO ĐỒ THÂM

"Sáng trăng mà ngỡ tối trời,
Em ngồi, em để Sự Đời em ra
Sự Đời như ... cái lá đa
Đen hơn mõm chó, chém cha Sự Đời

Viếttruyện phiếm này để riêng tặng những bằng hữu Khóa 61 của Trung tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, nhân dịp các bạn ấy chọn Houston làm nơi họp mặt khóa vào Đêm Không Gian 18 với chủ đề "CÒN CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ ...". Có một số độc giả thuộc Khóa 61 đã biết Lão Đồ Thâm là ai rồi, nhưng còn lại một số vị chả biếât Đồ Thâm là thằng "cha căng chú kiết" nào. Bởi thế, Đồ Thâm xin lượt qua đôi hàng tiểu sử gốc gác để quí vị chưa biết đỡ thắc mắc.

Số là khi thằng Đầu Bếp đảm đương Giai Phẩm Lý Tưởng của Hội Không Quân Houston, nó chẳng kiếm đâu ra người để "trám" bài vở cho đầy tờ báo, nên nó đề nghị Đồ Thâm giữ tiết mục "Truyện Phiếm" như các cụ xưa thường nói: "thừa giấy làm chi, chẳng vẽ voi". Tóm lại, Đồ Thâm chỉ là một cầu thủ phòng hờ trong đội bóng Lý Tưởng, chỉ cần đến hắn nhỡ khi ra quân mà đội bóng thiếu mất một ... tay chơi nhà nghề.

Thằng Đầu Bếp giảng giải: "Viết phiếm cũng giống như nói phiếm đều toàn là những chuyện bá vơ, bâng quơ không đầu không đuôi. Người viết chẳng cần phải sắp xếp nội dung hoặc bố cục câu chuyện một cách mạch lạc mà độc giả muốn hiểu thế nào cũng được, tùy theo cảm quan của mỗi người. Vậy ông chẳng có gì phải lo sợ độc giả cười về sự yếu kém của mình". Nghe thằng Đầu Bếp nói xuôi tai, Đồ Thâm bèn đánh bạo chơi trò đánh đu ... với chữ nghĩa.

Đồ Thâm xuất thân con nhà nông chân lấm tay bùn trải mấy đời, chuyên môn cầy sâu cuốc bẩm, thức khuya dậy sớm lo việc đồng áng. Bọn cộng sản xếp những người thuộc giai cấp như Đồ Thâm là bần cố nông ... ngũ đại (xin đừng nói lái). Vì chiến tranh lan tràn trên đất nước, hắn mới theo nghề binh bị và ngáp phải ruồi ... trở thành chú lính lái tàu bay. Vốn căn bản học hành đã không bao nhiêu, lại thêm những tháng năm quân ngũ lo miệt mài trận mạc, thành thử chẳng có cơ hội trau dồi kiến thức, vì thế sự hiểu biết của hắn rất nông cạn.

Các bạn thắc mắc vì sao một kẻ "tài sơ trí thiểu" như thế mà dám mon men vào cõi báo chí viết lách ư ? Và tại sao dám mang danh "Đồ" như thể là ông Đồ chuyên bày "mực Tầu, giấy đỏ" mỗi độ Xuân về trong bài thơ "Ông Đồ Già" của Vũ Đình Liên ư ?

Xin thưa, như trên đã nói Đồ Thâm dám liều mạng là tại nghe lời dụ dỗ của thằng Đầu Bếp. Còn cái bút hiệu Đồ Thâm sở dĩ mà có là vì Đồ Thâm sinh quán làng Nho Lâm, Phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An là nơi đẻ ra nhiều vị khoa bảng như Tiến Sĩ, Hoàng Giáp và ... rất đông Thầy Đồ đến nỗi hai chữ Đồ Nghệ rất phổ biến trong dân gian. Thầy Đồ cũng từng là sĩ tử vác lều chỏng vào Kinh ứng thí, nhưng không thành công trong nghiệp khoa cử để tiến thân trên bước đường hoạn lộ, bèn đi làm nghề "gõ đầu trẻ" (gia sư: "précepteur") cho kẻ giàu có để kiếm tiền độ nhật. Chữ nghĩa của ông Đồ đầy bụng (như Tú Xương) nhưng không gặp thời hoặc hay phạm "trường quy" mới ra nông nổi lêu lổng, chơi bời ("Vị Xuyên có Tú Xương, Dở dở lại ương ương, Cao lâu thời ăn quịt, thổ đĩ lại chơi lường") . Đồ Thâm này không có ý định nhập nhằng để tự khoe ta đây cũng là một tay "hay chữ lỏng" nhưng chẳng gặp thời. Đồ Thâm chỉ là kẻ luôn nhớ cội nguồn, nhớ về xứ Nghệ có lắm Thầy Đồ mà tự đặt cho mình chữ Đồ. Còn Thâm là tại nước da sậm của con nhà gốc nông dân đen bóng như nồi đồng mắt cua, chứ chẳng phải thâm thúy hay uyên thâm gì cả. Nói tóm lại, chẳng qua vì không muốn quên gốc gác của mình nên lấy bút hiệu "Đồ Thâm" để nhắc nhở mình là anh nhà quê xứ Nghệ mà lại xuất thân con nhà nông dân. Thế mà đôi khi, chữ "Đồ" đã bị những kẻ có óc hài hước, tiếu lâm diễn nghĩa một cách thô tục, bậy bạ quá sức.

Anh Không Quân mang ngoại hiệu Thầy Tầu đang cư ngụ ở thành phố Ba-Lê hoa lệ là người chuyên môn xuyên tạc, bẻ cong bẻ queo chữ nghĩa của Thánh hiền. Có người chiến sĩ nhờ tài cầm quân đánh thắng nhiều trận lớn như Ấp Bắc, Đỗ Xá, Đồng Xoài, Bình Giã, Bình Long, Pleime ... được tôn vinh là bậc anh hùng bách chiến bách thắng; tới khi xe tăng quân thù mới tràn đến Xuân Lộc mà anh đã vội quăng súng bỏ chạy thoát thân sang tận đất Hoa Kỳ. Nay kẻ thù vì nhu cầu tồn tại, chúng mở rộng cửa ... để hốt đô-la, người anh hùng ấy hớn hở về thăm quê hương (hay thăm cái gì thì không biết). Thầy Tầu bèn hỏi:

-- Khi nhập nội Việt Nam, anh phải lót tờ giấy bạc xanh xanh dưới tấm thông hành để thằng bộ đội mặt mũi non choẹt không làm khó dễ, cho đi trót lọt qua cửa khẩu, anh không thấy xấu hổ hay sao ?

Người chiến sĩ anh hùng một thời, ấp úng tìm phương chống chế:

-- Thuở nhỏ, ông cụ tôi từng cho đi tắm biển ở Vịnh Hạ Long, đi nghỉ mát trên đỉnh Chapa, đi viếng cảnh Chùa Hương Tích, duy chỉ có Đồ Sơn là nơi tôi chưa từng đặt chân đến nên tôi phải về để nhìn thấy nó một lần trước khi nhắm mắt.

Thầy Tầu tủm tỉm cười khen (vừa hóm hỉnh vừa xỏ lá kềnh):

-- Rõ ràng quan bác là người ấp ủ "giấc mộng lớn" như thi sĩ Tản Đà. "Đồ Nhà" là thứ đồ thiệt, quan bác để mốc meo chẳng ngó ngàng gì tới; lại cất công vượt trùng dương ngàn dậm để đi thăm đồ giả là thứ "Đồ Sơn" chỉ được cái hào nhoáng nhờ sơn phết bề ngoài.

Người chiến sĩ anh hùng đau và cay lắm nhưng không biết trả lời sao cho ổn về cái hành động quên mình là kẻ đào binh. Đồ Sơn là một trong những danh lam thắng cảnh nước nhà còn bị đem ra chế giễu trong dân gian. Huống hồ Đồ Thâm thì làm sao tránh khỏi "bia miệng" ?

Tóm lại, xin minh xác một lần nữa, Đồ Thâm này chỉ để nói lên hình ảnh của anh học trò nghèo có nước da đen bóng của một nông dân dầm mưa dải nắng trên cái xứ sở nổi danh "đất cầy lên sỏi đá" (hay chó ăn đá, gà ăn muối), xin bạn đọc đừng hiểu theo cái nghĩa "hóm hỉnh" như cái ông Thầy Tầu bên Paris kia thì rất tổn thương lòng khiêm tốn của kẻ nông dân này.

Do cái tinh thần hủ lậu, tồn cổ của nông dân, Đồ Thâm đã sống trên đất Mỹ ngót 26 năm qua mà không len được vào "dòng chính" (mainstream) của xã hội văn minh tiến bộ, quanh năm chỉ du dú ở xó nhà như dán ngày. May nhờ có ông hàng xóm là cụ Thông Thái kết bạn vong niên, nên cũng đỡ quạnh hiu trong quãng đời tị nạn.

Cụ Thông Thái, tên Thông họ Thái Vì đổi đời, tên họ cũng bị đảo ngược, chứ cụ ấy không hề tự phong cho mình là nhà thông thái, uyên bác. Cụ cũng là một dân cầy, lớn lên vào buổi thế giới chiến tranh thứ hai bùng nổ, Tây thuộc địa xứ An-Nam ta mộ lính thợ sang mẫu quốc làm hỏa đầu quân (ordinance) lo việc ẩm thực cho quan Pháp đánh giặc. Chiến tranh chấm dứt, cụ không trở về nguyên quán. Cụ tâm sự: "Những nhà cách mạng lão thành như cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh, cụ Nguyễn Thế Truyền ... bôn ba xứ người tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân; còn tao tài hèn sức mọn, tao quyết định ở lại mẫu quốc là để ... trả thù dân tộc. Thằng Tây sang đô hộ xứ mình, bao nhiêu đàn bà con gái đẹp chúng nó cum ráo trọi, thì nay được dịp tao phải trả thù chớ !". Đồ Thâm phân vân tự hỏi chẳng hiểu cụ Thông Thái giải bày như thế là để ngụy biện cho việc làm của mình hay cụ thực tâm nghĩ rằng sự trả thù dân tộc theo cái kiểu đó cũng là một hành động yêu nước thương nòi ? Nhưng cụ bày tỏ tâm tình của cụ một cách quả quyết như đinh đóng cột thì chắc chắn cụ tin tưởng đấy là chân lý. Đồ Thâm nghi cụ ngụy biện (kể cũng bậy thật) là tại vì thấy thiên hạ lập nên nhiều tổ chức kháng chiến ma giả danh quá, nên sinh lòng hoài nghi bất cứ ai nhân danh lý tưởng cao đẹp.

Có điều đáng nói là khi cụ Thông Thái xuất ngoại tùng chinh, trên người cụ chưa trang bị chữ a, chữ b nào cả, đến nỗi cụ không biết ký tên của mình mà phải dùng "nhất chỉ thần công" (nôm na là lăn tay) mà sau bao năm "trả thù dân tộc" của nhiều giống dân khác nhau, cụ được dịp trau dồi nhiều ngôn ngữ (vừa bác học, vừa đường phố), rồi bỗng trở thành một người có thể nói thao thao năm bảy thứ tiếng ngoại quốc, thông kim bác cổ như một học giả chính hiệu làu làu triết lý, khoa học nhân văn. Cụ nói về Mạnh Đức Tư Cưu (Montesqieu), Lư Thoa (Voltaire), Tolstoi, Shakespeare, Lâm Ngữ Đường, Lỗ Tấn ... nghe rất đả lỗ tai. Hoặc giả cụ "phịa" ra thì cũng khó lòng kiểm chứng. Cho nên, ngoài tình bạn hàng xóm vong niên cùng nhau chén thù chén tạc sớm hôm, cụ Thông Thái còn là người thầy của Đồ Thâm nữa.

Đồ Thâm có thằng cháu nội sinh đẻ tại Mỹ, được bố nó giao cho "babysit". Cuối tuần bố nó còn chịu khó chở đến Chùa để học tiếng Việt. Thành thử giữa hai ông cháu trao đổi với nhau hằng ngày không có vấn đề trở ngại ngôn ngữ. Thằng bé có khiếu "ngoại ngữ" (tiếng Việt), lại thêm mang tính hiếu kỳ, cứ hay đặt những câu hỏi cắc cớ làm cho Đồ Thâm bí không trả lời được. Đồ Thâm thường phải chạy sang nhà ông hàng xóm, cụ Thông Thái, để nhờ giải thích. Do những lần đàm đạo với cụ, trí óc Đồ Thâm cũng tỏa ra được phần nào.

Mới đây thằng bé hỏi:

-- Ông ơi, tại sao các cụ nhà ta xưa thường nói: "Người ăn thì còn, con ăn thì mất" hả ông?

Câu nói đầu cửa miệng thế gian ai nấy thường nghe và chắc ai nấy cũng hiểu, thế mà Đồ Thâm, "vua rối trí", cứ lẩm bẩm lặp đi lặp lại câu hỏi của thằng cháu nội hoài mà không thể nào giảng cho nó hiểu được. Đồ Thâm bèn dẫn thằng cháu nội chạy sang nhờ vả bộ óc Thông Thái của ông hàng xóm vậy. Dưới đây là những gì cụ Thông Thái giảng:

-- Nói chung các dân tộc Á Châu, đặc biệt là Trung Hoa và Việt Nam, rất chuộng điều ân nghĩa. Cái câu "chữ ÂN đáng giá ngàn vàng" là do sự tích Hàn Tín khi công thành danh toại đã mang một ngàn lạng vàng để đền ơn Phiếu Mẫu cho mình bát cơm ăn đỡ đói lòng thuở hàn vi.

Không đợi cụ Thông Thái dứt lời, thằng cháu nội Đồ Thâm hỏi:

-- Thưa ông, Hàn Tín và Phiếu Mẫu là ai vậy?

Cụ Thông Thái đưa tay xoa đầu thằng bé, rồi khen:

-- Cháu có đầu óc học hỏi thật đáng quí. Hàn Tín là người ở đất Hoài Âm bên Trung Hoa, rất tài ba lỗi lạc, thuở thanh niên còn hàn vi, anh ta thường đi câu cá đổi lấy gạo mà ăn. Khi không câu được cá thì chàng đành chịu đói. Nhiều bữa đói tưởng chết, chàng bèn sang nhà bà hàng xóm xin ăn. Người đàn bà ấy làm nghề giặt quần áo nên gọi là Phiếu Mẫu, cho chàng bát cơm ăn đỡ đói lòng. Hàn Tín hứa với bà rằng khi công thành danh toại sẽ trả ơn bà ngàn lạng vàng. Quả nhiên sau này được Trương Lương, Tiêu Hà, Hạ Hầu Anh tiến cử chức Đại Soái Nguyên Nhung, phò Lưu Bang diệt Sở Bá Vương Hạng Võ, lập nên nhà Hán. Hàn Tín nhớ ân xưa bèn đem một ngàn lạng vàng tặng Phiếu Mẫu. Ngày còn mồ ma chế độ Việt Nam Cộng Hòa, có bà mẹ buôn thúng bán mẹt, cố dành dụm tiền bạc nuôi con ăn học thành tài. Anh con về sau làm đến chức Tổng Trưởng, giàu sang phú quí mà vẫn để mặc bà mẹ già ngồi bán thuốc lá lẻ ở góc chợ Ông Tạ để kiếm tiền độ nhật. Thiên hạ chê cười ông Tổng Trưởng quá sức. Cho nên cái câu "Người ăn thì còn, con ăn thì mất" có nghĩa là cho người thì người trả ơn, cho con thì con coi đó như là bổn phận của bố mẹ. (They take it for granted). Gặp đứa con có hiếu thì không nói làm gì; gặp phải đứa con bất hiếu như ông Tổng Trưởng kia thì đau lắm.

Nghe lời giảng của cụ Thông Thái xong, hai ông cháu Đồ Thâm cám ơn người, rồi dắt nhau về nhà. Trên đường về, thằng cháu hỏi:

-- Mười mấy năm trước đây, ông có người bạn rất thân thiết là Người Nhạn Trắng Phạm Đăng Cường mà ông ví hai người là Bá Nha – Tử Kỳ thời nay. Tại sao ông ví như thế hả ông ? Bá Nha, Tử Kỳ là ai vậy ông ?

Không ngờ thằng cháu nội lại lưu tâm đến cả bạn bè của mình, Đồ Thâm càng yêu thằng cháu nội của mình hơn:

-- Trong một bài viết cho Lý Tưởng, ông Phạm Đăng Cường bày tỏ lòng biết ơn Quân Đội, đặc biệt Không Quân, đã cho nhiều thanh niên đi du học để trở thành phi công. Nên ngày nay mấy ông Không Quân, dù mất nước, họ còn có thể lớn tiếng hát lên "Ôi, phi công danh tiếng muôn đời". Lời phát biểu của ông Phạm Đăng Cường đã khiến cho ông nội con thấm thía cái ân tình của người đồng đội nhớ đến cội nguồn, nên ông mạo muội ví ông Cường với ông như đôi bạn tri kỷ...

Ngừng một lát, Đồ Thâm tiếp:

-- Bá Nha là người đời Tống, làm quan đến chức Thượng Đại Phu, có tài chơi đàn rất giỏi. Bá Nha thường phàn nàn trong thiên hạ chưa ai có thể thưởng thức được tiếng đàn của mình. Một đêm trăng sáng, nhân đi sứ ở nước Sở về, lại có gió mát, cảnh vật nên thơ gợi hứng, Bá Nha bèn cho quân ghé thuyền vào bến Hàm Dương lấy đàn ra gẩy. Trên bờ sông, Tử Kỳ vừa đốn củi về, nghe tiếng đàn trầm bổng liền dừng lại nghe trộm. Cung đàn đang trầm bổng nhặt khoan, chợt đàn đứt dây, Bá Nha cho rằng đây là có người đang rình nghe. Nhưng lại nghĩ nơi này vắng vẻ, núi non chập chùng, chắc là có bọn trộm đạo gì chăng, liền sai quân sĩ lên bờ tìm bắt. Tử Kỳ vội lên tiếng đáp: "Tôi là người đốn củi, chợt qua đây nghe đại nhân gẩy khúc đàn hay nên trộm lắng nghe, chứ không phải là người bất lương". Bá Nha không tin một gã tiều phu trẻ tuổi lại biết thưởng thức tiếng đàn tuyệt diệu của mình, liền hỏi: "Ta đàn bản gì ban nảy đó?". Tử Kỳ không chút ngần ngại đáp: "Ngài đàn bản Đức Khổng Phu Tử thương tiếc thầy Nhan Hồi. Bá Nha nghe xong, có ý trọng người am hiểu tiếng đàn của mình, mời xuống thuyền mình và lên dây gẩy một đàn khác, tâm trí lại nghĩ mình đang ở chốn non cao. Tử Kỳ khen hay: "Tiếng đàn cao vút, chí của Ngài vời vọi ở chốn non cao (Nga nga hồ chí tại cao sơn)". Bá Nha lại đàn một bản khác tâm trí nghĩ mình đang ở nơi dòng nước chảy xiết. Tử Kỳ lại khen hay: "Chí của Ngài cuồn cuộn như dòng nước chảy (Dương dương hồ chí tại lưu thủy)". Bá Nha phải nhìn nhận Tử Kỳ là người tri âm của mình, nên rất quí mến. Cả hai cùng đàm đạo rất tương đắc. Bá Nha mời Tử Kỳ cùng về kinh đô nước Tống để chung hưởng phú quí. Tử Kỳ từ chối vì còn cha mẹ già phải phụng dưỡng, không thể trái đạo làm con. Cả hai hẹn nhau đến sang năm cùng hội ngộ ở nơi này. Y hẹn qua năm sau, Bá Nha vào triều xin nhà vua về thăm nhà, đến chỗ cũ đem đàn ra gẩy mà không thấy Tử Kỳ đâu, tiếng đàn lại nghe như oán như than. Bá Nha sinh nghi liền tìm đến nhà hỏi thì mới biết Tử Kỳ đã chết. Bá Nha thương tiếc khôn nguôi, xin đến mả để thăm người bạn tri kỷ tri âm lần cuối cùng. Đến phần mộ Tử Kỳ, Bá Nha đem đàn ra gẩy một bản ai điếu, khóc than thảm thiết, đàn xong liền đập đàn vỡ tan, thề trọn đời không đàn nữa, vì thiếu bạn tri âm. Trong giờ phút lâm chung, nhà cách mạng Phan Bội Châu làm bài thơ Gởi Phường Hậu Tử có câu: "Đàn Bá Nha mấy kẻ thưởng âm? Bỗng nghe qua khóc trộm, lại thương thầm, Chung Kỳ chết ném đàn không gẩy nữa"...

Thằng cháu nội Đồ Thâm nghe ông dẫn giải xong, trầm trồ khen:

-- Ông cũng khá biết tích xưa đấy chứ nhỉ?

Đồ Thâm hơi ngượng bởi lời khen của thằng cháu nội, vì kỳ thực cái biết của Đồ Thâm là do cụ Thông Thái truyền đạt. Nó hỏi tiếp:

-- Bây giờ Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã tan hàng, thì làm sao những người Không Quân Việt Nam ở hải ngoại làm ăn khá giả có thể noi gương Hàn Tín để đền ơn Không Quân được hả ông?

-- Cháu nói đúng, Không Quân Việt Nam Cộng Hòa không còn nữa, nhưng người Không Quân Việt Nam bất hạnh vẫn còn bên quê nhà. Những ai có lòng "khinh tài trọng nghĩa", ý thức được nhờ đâu mà mình có ngày hôm nay và biết mình rồi cuối cuộc đời cũng ra đi với hai bàn tay trắng thì vẫn phải dang tay cứu giúp những người anh em khốn cùng để hàn gắng vết thương của dĩ vãng. Bởi thế, Hội Không Quân Việt Nam Cộng Hòa tại Houston đặt tên cho Đêm Không Gian 18 bằng cái chủ đề "CÒN CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ ..." là để nhắc nhau đừng quên nghĩa vụ của mình đối với anh em, chứ không phải chỉ để nhớ một thời tung mây lướt gió dọc ngang, ngang dọc ...

Thằng cháu nội gật gù:

-- Có lẽ rồi đây, con sẽ noi gương các bạn ông, con sẽ đi Không Quân. Con thấy người Không Quân các ông tình nghĩa quá !