GIẤC MƠ KINH
HOÀNG
Phan Đức Minh
Tác giả Phan Đức
Minh, nguyên sĩ quan QLVNCH,chánh án ToàÁn Quân Sự, cựu tù cải tạo,
hiện cư trú tại San Diego, từng góp nhiều bài Viết Về Nước Mỹ đặc
biệt. Bài mới nhất của ông lần này kể chuyện một giấc mơ, đúng
hơn, một ác mộng có thực của những người tới Mỹ theo diện HO:
chuyện khó quên trong nhà tù Cộng Sản.
...Ba hồi kẻng báo thức vang lên, tôi bật đầu dậy như cái máy đã
hoạt động như thế lâu ngày. Suốt cuộc đời ba chìm bẩy nổi, chín
cái lênh đênh, từ lúc14, 15 tuổi bỏ trường học đi kháng chiến, đánh
Tây, chui hầm, rúc hố, 2 lần bị Tây bắt nhốt đầu vào tù, rồi 23
năm lính, hơn 12 năm tu øcải tạo, phiêu bạt giang hồ qua bao nhiêu
trại toàn la ørừng với núi âm u, hiểm hóc, giáp biên giới Lào, bao
phen chết lên chết xuống, cho tới lúc này, tôi vẫn không ghét cái
gì bằng ghét những tiếng kẻng báo thức ác ôn, khốn nạn đó vì nó
lại bắt đầu một ngày lao động kinh khủng trong cái đói khát, khổ
sở, nhục nhằn đến tận cùng cuả cuộc đờị
Tất
cả chung quanh đều tối om. Ngọn đèn dầu là chiếc lọ đựng thuốc, đốt
bằng dầu cặn, lớn cỡ quả trứng gà, thường treo ở góc tường phía
trước cầu tiêu cuối phòng đã tắt ngủm từ lúc nào vì số lượng dầu
cặn nhà bếp phát không đủ cho 1 đêm thắp sáng. Có tiếng la chí
choé, chửi thề tùm lum. Tên ngồi trên bàn cầu tiêu chưa kịp lên
tiếng thì đã bị thằng đứng phiá dưới, kẹt quá vội vã... đi một
đường vòng cầu, tưới ướt sũng từ cổ trở xuống. Cảnh náo loạn này
thường xuyên xẩy ra vì tay nào cũng khôn ngoan, kinh nghiệm đầy mình,
cứ thức dậy sớm hơn người khác một tí là phải lò mò, rón rén lần
vào cái cầu tiêu duy nhất ở cuối phòng, lo “giải quyết bầu tâm sự”
cái đã. Nếu không, khi kẻng báo thức vang lên la øgần một trăm tên
tù cải tạo cuả nhà 10, cái nhà nhốt những tên được coi là ác ôn
côn đồ thượng hạng: cấp chức cao, có thành tích chống phá cách mạng
hung hãn nhất, nhiều phen bị nhốt chuồng cọp vv...sẽ đổ xô vào cái
nhà cầu chỉ có 2 bàn cầu dành cho việc “đại sự” còn “tiểu sự” thì
cứ việc thoải mái tưới xuống cái rãnh trước bồn nước, do tên tù
trực phòng gánh nước giếng đổ vô đó từ chiều hôm trước.
Đèn điện bật sáng 10 phút cho tù dọn dẹp đủ thứ trên đời trên cái
“lãnh thổ” dành cho mỗi tên: chiều dài 2 mét theo bệ si-măng, chiều
ngang đo đúng 3 gang tay cuả tôi. Khi ngủ ma ønằm ngưả la đụng hay đè
lên nhau cho nên ban đêm khi ngủ chỉ có cách nằm nghiêng mà thôi. Bệ
si-măng làm giường ngủ là ở trình độ cao cấp nhất, do công an “phát
minh”ra. Những năm đầu, quân đội nhân dân quản lý tù, thứ quản lý
tù tài tử, không chuyên nghiệp, người ta cho tù ngủ trên những cái
sạp đan bằng nưá, tre rừng, cây nhỏ. Sài kiểu này, đập cho chết dân
tù nhà ta vẫn tìm cách dấu diếm, gùi nhét đâu đó vài ba mẩu giấy
linh tinh, mấy thứ đồ “quốc cấm, nguy hiểm, bí mật”. Công an xài bệ
si- măng thì tù chỉ còn nước...khóc mà thôi, nhét cái gì xuống si-
măng được nưã?
Có tiếng chià khoá mở cưả sắt, rồi tiếng kéo cây sắt chặn ngang
bên ngoài kêu rầm rầm. Tên tù trong Ban trật tự Trại (gốc con Ông,
cháu Cha nón cối, hay có dây mơ rễ má với cán bộ cuả trại ) quát
to: “Nhà 10 ra tập họp điểm danh, mau lên!”. Những con người vọt ra
khỏi cưả, đứng sau hàng rào kẽm gai, vặn mình,vặn mẩy, vung tay, vung
chân cho khỏi mỏi sau một đêm ngủ theo cái kiểu co quắp, úp thià (
xếp muỗng ) vì vùng núi ban đêm lạnh nhiều hơn nóng. Muà đông thì
thôi, lạnh khỏi nói, lạnh muốn chết luôn. Ba hồi còi rít lên, tất
cả dân tù ngồi chồm hổm xuống đất, 10 tên 1 hàng cho cán bộ trực
trại điểm danh, ghi sổ. Xong màn điểm danh, một số chạy vô trong nhà
lo dọn dẹp, chuẩn bị lãnh khoai sắn, đồ đem theo đi lao động. Riêng
tôi, cái bao cát có quai đeo, nắp đậy,cài nút áo, do vợ con đem cho
khi “thăm nuôi” đã sống chết theo sát bên tôi bao nhiêu năm rồi,
không nhớ nưã.
Công an mà nghe nói “thăm nuôi” là có chầu bị hỏi thăm sức khoẻ vì
Đảng và Nhà Nước có để cho ai đói đâu mà phải”nuôi”, phải nói là”
đi thăm” mới đúng chính sách. Trong túi là phần khoai sắn ăn trưa
nhét trong cái lon gô đen sì, nham nhở vì đã qua nhiều phen “trận mạc,
khói lưả “, là cái lon đựng sưã bột Guigoz cho con nít truớc 1975 được
bọn tù chúng tôi dùng làm nồi niêu, soong chảo, nấu nướng đủ thứ
trên đời, bất cứ thứ gì kiếm được, khi công an đóng chốt ở xa, thả
tù vào núi, vô rừng lao động. Ngoài ra còn có bi đông nước, lãnh
theo tiêu chuẩn nhà bếp, uống cho một ngày, một cái bao ni lông để
nếu hoàn cảnh cho phép thì” cải thiện” tức là kiếm chác tí rau hoang,
cà dại, con cóc, con nhái bỏ vô, đến trưa nghỉ giải lao, tìm cách xoay
sở biến thành thức ăn bồi dưỡng, không bổ bề ngang cũng bổ bề
dọc, miễn sao đừng chết hay ngất ngư là được rồi. Con gì cũng ăn
hết, trừ có con...dao vàcon... bù-loong là chịu chết, chưa bao giờ dám
ăn thử.
Một
số anh em vọt ra phiá cầu tiêu công cộng cuả trại, có khi để“giải
quyết bầu tâm sự” mà cũng có khi là để liên lạc, trao đổi dấm dúi
cái này cái nọ với bạn bè ở nhà khác hay với đám tù hình
sự...Phải đóng tuồng cho khéo, kẻo công an hay đám ăng-ten [bọn tù
được công an tuyển chọn, cho hưởng đặc ân: lon gạo, miếng thịt, miếng
cá mỗi tháng, giao nhiệm vụ theo dõi và báo cáo về mọi hành động
lén lút, vi phạm nội quy] biết được thì cuộc đời khốn khổ, khốn nạn
ngaỵ
Tôi chê ghét cộng sản từ A đến Z, nhưng tôi phải phục chúng nó ở
cái chỗ biến được một số ít Sĩ Quan đi tù cải tạo trở thành cái
thứ “ăng ten” ghê tởm như thế đấy!
Một hồi kẻng dài điểm thêm 3 tiếng đằng sau là chúng tôi ào ra
phiá cổng trại, ngồi chồm hổm trên cái sân đất rộng, xếp hàng
điểm số, đi lao động. Tên công an trực trại, ngồi trong “lô cốt” dò
sổ rồi kêu: “Nhà 10!” Chúng tôi đứng bật dậy, đi ra cổng, thứ tự
hàng 1 theo sự điều khiển cuả tên tù Đội Trưởng hay Đội Phó (được
công an tuyển chọn theo tiêu chuẩn cuả chúng), đếm số rồi bước ra
khỏi cổng. Mấy tên trực dụng cụ chạy vào kho nhận va øvác đi theo
mấy bó rựa (dao đi làm rừng) vì hôm nay, nhà 10 chúng tôi có nhiệm
vụ đi lấy mây, tiêu chuẩn tối thiểu 70 cây, dài 2 mét. Nghe qua thì
coi bộ ngon ăn, nhưng tìm cho ra chỗ rừng nào có hay còn mây, sau cả
chục năm trời càn quét, rồi vác bó mây như thế từ đỉnh núi nào đó
xuống chân núi, tới địa điểm tập họp đúng giờ, theo công an dẫn về
trại, có khi cách xa cả chục cây số thì không phải chuyện dễ, dù
rằng chúng tôi đã có kinh nghiệm cả chục năm lên rừng xuống núi
theo sư phụ nón cối học võ “Lao động là vinh quang”.
Dao rừng phải cột lại thành từng bó, tới địa điểm do công an quyết
định mới được tháo ra, phát dao cho từng ngườị Phát trước, sợ tù
dùng làm vũ khí... hỏi thăm sức khoẻ bọn công an áp giảị
Trại cuả chúng tôi đã có một vụ âm mưu nổi loạn,cướp súng, giết
công an, đốt trại rồi kéo nhau qua biên giới Lào, ngay sau vụ Trung
Quốc kéo quân sang đánh phá 6 Tỉnh Miền Bắc hồi đầu năm 1979, dậy
cho Hà Nội ”Một bài học” vì đã dám theo Sư Phụ Liên Sô, đem quân
sang Căm-Bốt oánh cho bọn cầm quyền Khờ-Me đỏ, con đẻ cuả Trung
Quốc, rách như cái mền, chạy tá hoả tam tinh lên rừng lên núị Âm
mưu nổi loạn này bị bại lộ,cộng sản đã lập Toà án nhân dân ngay tại
trại, xử tử hình Sĩ Quan cầm đầu, còn lại thì lãnh án từ 15 năm tù
tù trở lên cho đến chung thân khổ saị Trung Uý Nguyễn Văn Sĩ, Biệt
Động Quân, Trưởng Ban tuyên truyền, chắc nó thương tôi, chớ không
phải nó quên. Vì quên làm sao được khi có tin tức chi, công việc ra
sao, nó cũng chớp nhoáng cho tôi hay để lo liệu công việc, ở ngay
góc đống rác cạnh hàng rào kẽm gai ngăn nhà 10 cuả tôi với nhà 11
cuả nó, khi chập choạng tối, sau khi điểm danh và trước khi tù phải
vào phòng để khoá cưả sắt. Nó còn có dịp giới thiệu tôi với Sĩ
Quan Thủ Lãnh âm mưu nổi loạn này nưã chớ!Ít lâu sau nó được thả
ra, về Sài Gòn rồi cưới vợ,cưới cô con gái thương yêu nó hết mình.
Chưa cưới hỏi chi cả mà cứ 6 tháng 1 lần, cô từ Sài Gòn ra Trung,
lên núi thăm nó đàng hoàng. Mối tình sao mà cao đẹp đến thế! Vậy
mà khi điều tra ra, nó bị công an Sài Gòn bắt lại, từ giã người vợ
thương yêu nó nhất trên đời này, đưa về trại cũ, đánh đập, tra khảo
tàn nhẫn. Nó phải khai ra vô số những người đã liên lạc với
nó,nhưng nó lại không khai tôi vào số đó. Tôi chỉ biết thầm cảm ơn
và cầu xin Trời Đất phù hộ cho nó mà thôi vì sau đó, nó bị tống vô
sà-lim, ngục tối, tôi chẳng bao giờ gặp nó nưã, trừ 1 lần cuối
cùng nó bị điệu ra trước Toà án nhân dân lập ngay trong trại, xét
xử theo “Luật Rừng” cho 5,6 trăm tù thứ dữ coi cho sợ. Đi tù cải tạo
thì bao giờ mà chẳng lao động khổ sai, cho nên có thêm 2 tiếng khổ
sai vào bản án chung thân coi bộ hơi dư thưà, phí phạm. Mỗi khi lên
rừng lấy mây, tôi thường đi cặp đôi với thằng bạn thân, Đại Uý H.
trước làm ởTiểu Khu Quảng Nam. Nó ít tuổi hơn tôi, cấp chức cũ cũng
nhỏ hơn nên nó luôn gọi tôi là Bác. Còn tôi cứ gọi hắn bằng
tên...cúng cơm cho thân mật. Thằng bạn này thuộc loại “Số đỏ” bởi
vì có 2 vợ mà khi đi tù, cả 2 bà vợ đềụ.. nhất trí cao coi nhau: vợ
cả, vợ hai, hai vợ đều là vợ cả.Hai Bà vẫn một lòng chia sẻ với
nhau anh chồng chung như thuở nào, thay phiên nhau đi thăm nuôi đàng
hoàng. Thật đáng khen, đáng phục hai Bà này, không như nhiều tay
khác, khi mũ mãng cân đai thì vợ cả, vợ hai, vợ ba nưã chưa biết
chừng, nhưng khi đi tù cải tạo thì vơ ïhai, vợ ba lễ phép trả lại Ông
chồng cho bà vợ cả . Hai đưá chúng tôi luôn đi lấy mây cùng với nhau
vì nhiều lý do : hạp tính tình, vui vẻ, tin cậylẫn nhau, sẵn sàng giúp
đỡ nhau lúc khó khăn. Vả lại đi đông người thì cánh rừng nào có
mây là quân ta càn quét mau hết, bưã khác sẽ...chết nhăn răng ra
với nhaụ Cứ đi hai thằng, cố tìm ra chỗ có mây, nếu trúng mánh, vớ
được “Kho vàng” thì hai thằng cứ thủng thẳng xài dần, yên chí lớn,
khỏi lo, đỡ tổn thọ . Hai thằng chúng tôi luôn đi vào những cánh
rừng sâu, lạ hoắc, cây cối, dây rừng chằng chịt, không có dấu vết
chân người, nhất là có suối nước róc rách chẩy phiá dưới, rồi chui
rúc, đi ngược lên đỉnh núi là dễ trúng mánh, vớ được cả” Kho mây”
là thường.
Bưã nay, ông bạn Đại Uý H. bị đau, ói mưả cả đêm, trạm y tế cho nằm
nhà, nhưng phải quét dọn vệ sinh trong phòng và chung quanh. Cán bộ
bảo “Đi học tập cải tạo là không được phép đaụ Mà nếu đau thì cũng
phải cố gắng lao động nhẹ,chớ nằm một chỗ là con người hư hỏng,
bết bát rồi chết luôn”.
Trại có vô số Bác sĩ thứ thiệt nhưng đám Bác sĩ la ødân chuyên môn
cho nên sớm được về, sau vài ba năm chi đó để chính quyền mới có
thể sài trong các bệnh viện vì đám Bác sĩ từ ngoài Bắc kéo vào, đa
số...dốt và ngu bỏ mẹ. Bậc Trung Học ở Bắc lúc đó ve àtrước chỉ có
10 năm, thay vì 12 năm như trong Nam. Lên Đại Học theo ngành Y Khoa lại
phải học cấp tốc bậy bạ vài ba năm để ra phục vụ ngay cho chiến trường,
con ông, cháu cha thì ở bệnh viện. Trình độ đã kém, học thêm sách
vở thì chỉ có ít sách tiếng Nga, sách Anh-Mỹ đế quốc phản động không
có. Mãi sau này mới có ít sách y khoa bằng tiếng Pháp, nhưng không
đủ trình độ để đọc thành rạ.. dốt vẫn hoàn dốt. Còn lại một mình
anh bạn cuả tôi gốc gác là Bác Sĩ Thiếu Tá quân ỵ Anh ta phải ở
lại khá lâu vì hai tội :Không ra trình diện theo lệnh chính quyền mới,
kèm thêm cái tội mưu toan vượt biển để làm...Việt Kiều phản động
hay yêu nước chi đó. Vì là Bác sĩ thứ thiệt nên anh ta được làm
Trưởng Bệnh Xá cuả trại, có 5, 7 cái chõng tre và mớ dụng cụ y khoa
dọ..thơ rèn trong trại làm ra từ những mảnh kim khí tháo gỡ ơ mấy
chiếc xe G.M.C. cuả quân đội cũ bỏ lại đâu đó trong vùng. Bọn tù
chúng tôi đã từng phải đem ba lô đi gùi mỗi đưá vài ba mảnh kim khí
do đám tù có tay nghề, tháo gỡ ra từ mấy hôm trước. Đeo ba lô đựng
sắt thép trên lưng thì phải biết, trông thấy ông nội, ông ngoại, lè
lưỡi cả ra với nhau. Bưã đó, tôi đi cùng anh bạn thân, tốt bụng.
Hắn to con, khoẻ mạnh hơn tôi, lại có vợ và em gái thăm nuôi khá
đậm nên đi đường, thấy tôi sắp lè lưỡi ra, hắn cười toe, ghé tai
tôi nói nhỏ “Ngài Quan Toà đưa nhà cháu gùi đỡ cho một mảnh nhỏ,
nhà cháu không chết đâu, mà Ngài cũng khỏi hết sống!” .Hắn nheo
mắt cười tình rồi rút trong ba lô cuả tôi một mảnh nhỏ, đút vào ba
lô cuả hắn. Xin một lần nưã cảm ơn hắn nếu hắn còn sống và đang
có mặt đâu đó hay trên đất nước Hoa Kỳ nàỵ Anh bạn Bác sĩ Thiếu
Tá, Trưởng Bệnh Xá nói trên có lần bị đưổi ra khỏi Bệnh Xá vì cái
tội nói thật với phái đoàn thanh tra ở Trung Ương về thăm trại. Có
công an lớn nhỏ đứng bên cạnh, mà khi phái đoàn hỏi về ăn uống
cuả bệnh nhân, anh bảo quá thiếu thốn, hỏi về thuốc men, anh bảo
chẳng có gì ngoài quinine trị sốt rét và APC, cuả quân đội cũ để
lại, trị cảm sốt và hầm ba làng đủ thứ bệnh, vài ba thứ thuốc Nam
làm từ cây lá do tù trồng lên, hỏi về vệ sinh thì anh bảo: bệnh xá
ở ngay cạnh khu vực làm phân tươi để trồng rau, trồng luá, mất vệ
sinh...Bị tống ra ngoài, đi làm lao động, một hôm đi nhổ sắn, lúc
gánh lên đỉnh đồi, ngồi nghỉ, lấy sức xuống dốc, tìm gói đồ ăn trưa
quý hoá vợ đem cho, buộc ở thắt lưng bằng dây rừng, thì gói đồ ăn đã
rơi rớt đâu mất tiêu, chắc là mất trong khi len lỏi trong rẫy sắn,
chặt cây, nhổ gốc, chặt củ, xếp vô quang gánh đầy ụ gần 50 kí lô,
ngày làm 2 chuyến. Bọn chúng tôi ngồi quanh đó phải bóp mồm, bóp
miệng, mỗi đưá cho cậu Bác Sĩ nhà ta miếng khoai, miếng sắn để”cưú
nguy dân tộc”.Buồn quá, anh Bác Sĩ nhà ta bèn hát mấy câu đầu cuả
Bài” Quốc Tế Ca”, bài hát hàng đầu số 1, gốc tiếng Nga, dịch ra đủ
thứ ngôn ngữ, sài chung cho cả phong trào cộng sản thế giới, đã dịch
sang tiếng Việt. Anh hát”Vùng lên! Hỡi các nô lệ ở thế gian!Vùng
lên hỡi ai cực khổ bần hàn...”Đói và buồn vì mất gói đồ ăn, Anh ta
hết hát nổi được nưã. Vậy mà tối về trại, công an quản giáo lôi
anh ra hỏi tội (vì có ăng-ten báo cáo) : Tại sao Anh lại hát như thế?
Anh cãi “Thưa cán bộ, tôi hát bài Quốc Tế Ca la øbài ca cách mạng cơ
mà!” -Nhưng tại sao anh chỉ hát có mấy câu đầu, kêu gọi ai vùng lên,
trong lúc anh đang phấn đấu lao động mệt mỏi?- Thì tôi chỉ thuộc có
ngần đó câu thôị Vả lại càng lao động mệt mỏi tôi càng phải phấn
đấụ Muốn phấn đấu có hiệu quả, tôi phải hát bài ca cuả cách
mạng, nhất là Bài Quốc Tế Cạ - Anh ngoan cố lắm biết chưa?Bài Quốc
Tế Ca, bài ca cách mạng quan trọng mà bạ đâu hát đó, lại chỉ thuộc
có mấy câu đầu là thiếu phấn đấu học hỏị Ngay chính cái thân tôi,
nếu hát, chắc cũng chỉ thuộc ngần đó mà thôi, thêm tí ti câu đầu
bằng tiếng Pháp “Debout! Esclaves de la terrẹ..” Ngay ngày hôm sau anh
bạn Bác Sĩ cuả tôi bị tống vào chuồng cọp, cùm chân 1 tháng chi đó!
Nghe đâu bây giơ anh và gia đình ở Úc Đại Lợị Xin cảm ơn anh bạn đã 2
lần cho tôi 2 ống thuốc tê 2cc (vợ đem cho) rồi 2 lần vặn bể tan nát
2 cái răng cuả tôi, lôi chúng nó ra bằng cái kìm to tổ bố do thợ
rèn cuả trại sản xuất, Đau quá, tôi chỉ biết ngồi trên cái ghế đẩu
gỗ, dựa lưng vào tường, 2 tay níu lấy cái mặt ghế đẩu cứng ngắc,
chịu trận. Rồi cũng xong. Bác sĩ sản khoa, giải phẫu, không phải Nha
Sĩ mà như thế cũng giỏi chán!
Ấy chết! Đang nói chyện lên rừng lấy mây cơ mà! Thằng bạn đau nằm
nhà, tôi lên rừng một mình theo hướng đi thường lệ. Bắt đầu tới con
suối nhỏ, tôi quan sát thấy mấy đám cát trắng bên bờ giáp bià
rừng, có vô số dấu chân thú rừng, ban đêm mò xuống suối uống
nước.Theo kinh nghiệm cuả dân vùng núi tôi học được, thì dấu chân
hầu hết là cuả bầy heo rừng, nhưng cũng có cả dấu chân cuả “Ông Ba
Mươi” tức là Cọp nưã chớ. Tôi hơi ngán, nhưng hoàn cảnh này không ai
cho phép ngán cả. Ban ngày Cọp đi đâu mất tiêu, nhưng nếu gặp nó thì
bắt buộc tôi phải quay lưng vào gốc cây lớn ma chiến đấu với nó
bằng con dao rừng cho đến chết thì thôị Mà có chết cũng xong cái
kiếp tù tội ghê gớm, kinh khủng, không biết có ngày nào rạ Tôi leo
lên núi dựa theo con suối chừng gần cây số(kilometer), ngó lên cao
thấy có bóng dáng lá mây quen thuộc. Tôi dừng lại ở điểm đó,
không vào sâu nưã,Ỷ rồi leo ngược dốc đi thẳng lên, lấy tiếng suối
róc rách làm chuẩn cho khỏi lạc. Thỉnh thoảng tôi lấy con dao rừng
chặt một mảng vỏ thân cây lớn đánh dấu đường đi,chốc nưã biết
đường mà về. Càng leo lên núi cao, cây cối càng chằng chịt, nhưng như
thế mới dễ có mâỵTrời Đất không nỡ hại tôi, một vùng mây chằng
chịt hiện ra trước mắt. Mây nằm la liệt dưới mặt đất, mây leo lên
tuốt cây cao, toàn mây là mây thôị Đúng là”Kho Vàng cuả Hoàng Đế
Salomon thời Cổ La Mã rồi!” Tôi mừng hết lớn, bèn ngồi xuống hòn
đá to bự để thở cái đã. Có tiếng sột soạt càng lúc càng rõ ràng
hướng về phiá trước mặt tôị Chết cha! Thú dữ đuổi theo con mồi nào
đó. Tôi núp vào sau một thân cây to bự, dựa lưng vào cây, thủ con
dao rừng thật chắc trong tay, sẵn sàng liều mạng. Tôi chợt thoáng
nhớ tới câu “Plutôt souffrir que mourir - Thà khổ cực còn hơn là
chết” cuả Victor Hugo, hay La Fontaine chi đó (lâu quá quên mất
rồi)trong bài thơ “La Mort et le bucheron- Thần chết và người tiều phu
đốn củi”.Bản năng con người lúc này bảo tôi phải sống để hi vọng
có ngày trở về như những người bạn tù khác. May quá! Con thú dữ
đuổi mồi vòng theo hướng khác, xa dần...Tôi ra khỏi chỗ núp, quan
sát rồi bắt đầu lấy mây, kẻo không kịp giờ tập họp ở điểm qui
định.
Với con dao rừng, tôi rút những sợi dây mây nằm ngổn ngang dưới
đất, lẫn lộn với lá rừng đã khô, mục nát vì mưa gió, róc bỏ vỏ
ngoài, chặt một đoạn dài 10 gang tay cuả tôi, tức là dài 2 mét đó.
Cứ kéo rồi róc vỏ va chặt một hồi, vứt mỗi chỗ mươi đoạn, tôi
đoán chừng đã được già nưả số ấn định. Đói và mệt quá, tôi tìm
một hòn đá ngồi thở ra va ølôi mấy miếng sắn luộc lạnh ngắt, thâm
sì, trong cái lon gô đen trũi ở trong cái túi xách đeo chéo trên vai,
buộc chặt ngang bụng bằng dây rừng, ra ăn. Đi rừng la cái túi phải
đeo kiểu đó, vật bất ly thân, nếu không lỡ ra lạc chỗ, không tìm
thấy nó thì chỉ có nước chết mà thôị Khoai sắn ăn trưa, bi đông nước
lạnh là cả cuộc sống cuả tù cải tạo chúng tôi đấy! Thấy đã hồi
sức, tôi lại rút mây, lấy dao róc vỏ khô và chặt tiếp. Khi kiểm
lại thấy đủ số, tôi chặt dây rừng, buộc chặt hai đầu và khúc giưã
làm ba bó nhỏ rồi cứ vác từng bó phóng dần xuống phiá chân núi,
nghe loáng thoáng có tiếng nước suối chẩy róc rách, rì ràọ Có bó
theo dốc trượt xuống ngon lành từng quãng. Có bó mắc dịch, mới trượt
được vài mét đã mắc cây, dây leo chằng chịt, nằm quay cu lơ ra đó,
làm tôi lại phải tới nơi, lôi lên và phóng xuống. Vưà di chuyển
xuống núi, tôi vưà chặt mớ dây rừng, cuốn vòng lại, quàng chéo
lên vai để lát nưã xuống chân núi, bờ suối sẽ dùng tới nó. Con
suối đây rồi! Ba bó mây nằm ba chỗ,chênh vênh trên những mỏm đá.
Đồng hồ đeo tay đã bị công an tịch thu khi mới vô trại cho nên tôi
không đoán rõ được giờ giấc ra sao, chỉ biết... cố gắng phấn đấu di
chuyển từ mỏm đá này sang mỏm đá khác, gom ba bó mây lại, cột chung
thành một bó to bự, cột chặt hai đầu, thêm vòng dây cột ở khúc
giưã cho chắc ăn. Xong đâu đó, tôi lấy 2 sợi dây rừng lớn hơn buộc
chặt vào vòng dây ở khúc giưã rồi tới vòng dây ở một đầụ Nghỉ
một lát lấy sức, tôi thả bó mây bự xuống suối cho dòng nước đẩy
đi, tôi chỉ việc giữ cho chắc hai sợi dây rừng để điều chỉnh cho bó
mây trôi xuôi theo dòng suối, ra ngoài rừng. Thật là khó khăn, trơn
trợt với mấy cái mỏm đá rêu xanh bám đầy,lắm lúc muốn té chết
luôn. Có nhiều chỗ tôi phải lội luôn xuống suối, cầm dây hướng
dẫn, bó mây mới chịu trôi đị Nếu không, nó sẽ mắc cứng ở mấy cái
chỗ khúc khuỷu, quanh co, lồi lõm những mỏm đá ác ôn, mất dậy!.
Mấy miếng sắn luộc thâm sì, lạnh ngắt, chua lè được đưa vào bao tử cuả
tôi hẳn hoi, đàng hoàng mà sao lúc này chúng nó đi đâu mất tiêụ
Đói lại hoàn đói, đói muôn năm... Ngó quanh, ngó quẩn chẳng thấy
có giống chi ăn được, tôi bẻ đại một chùm trái cây lạ hoắc sa
øxuống bờ suối, trái to bằng đầu ngón taỵ Tôi làm thử một trái rồi
nghe ngóng. Làm tiếp trái thứ hai, trái thứ bạ.. chẳng chết thằng
Tây đen nào cả sau vài ba phút. Tôi dư biết là dù có chết, cũng
chưa đủ thời gian để cho cái chết nó tới vì mới có mấy phút thôi,
nhằm nhò chi. Cái đói nó xúi
tôi: cứ ăn đại, ăn tới đi, đói chịu chi cho nổi, ra khỏi rừng còn
phải vác bó mây dài, to tổ bố về trại nưã cơ mà. Thế là tôi làm
luôn một bụng chẳng sợ cái chi hết trơn. Hình như tất cả mọi sự học
hành cuả tôi ở nhà trường ngày xưả ngày xưa, chỉ có mỗi một điều
giúp ích cho tôi trong cuộc sống trong các trại tù cải tạọ Đó
làcái” Principe d'Archimede-Nguyên Lý Archimede” cuả môn học “Physique -
Vật lý”. Nó chỉ cho tôi biết lợi dụng sức nước đẩy lên đối với
một vật được thả xuống nước. Do đó, khi di chuyển cây cối làm cột
nhà, cả 5, 7 cây 1 ngày hay di chuyển một bó mây dài va øto bự như thế
này, mà cứ vác trên vai, đi suối, đi rừng, rồi hàng chục cây số
đường bộ, không nhơ øtới nướcsuối giúp đỡ để nâng lên và đẩy đi,
kéo được quãng nào hay quãng đó, thì chắc là tôi đã chết quách từ
lâu rồị Còn đang miên man suy nghĩ vớ vẩn đâu đâu thì thình lình, gặp
chỗ dốc, bó mây lao vút xuống,kéo tôi ngã chúi theo luôn... tá hoả
tam tinh, cả con người tôi nằm ngửa trôi theo bó mây ào ào xuống
dốc...*
Tôi giật mình, hai tay quờ quạng chung quanh. Cái giường nệm êm êm,
cái mền ấm áp, người vợ 48 năm kết hôn, hơn 12 năm tần tảo nuôi
đàn con còn nhỏ, rồi lên núi lên rừng thăm nuôi, tiếp tế cho tôi,
đang nằm bên cạnh, chớ không phải sàn tre, sàn nưá, không phải bệ
si măng cuả những trại tù cải tạo hơn 12 năm kinh khủng đã đi sâu
vào dĩ vãng...Lâu lâu, tôi lại thấy cái cảnh lao động khổ sai kinh
hoàng và cuộc sống thua kém cả súc vật trong các trại tù cải tạo,
vẫn trở lại với tôi trong những giấc ngủ không mấy ngon lành. Đã 72
năm được sống làm người rồi còn chi! Khi thức giấc, thấy mình đã
thoát khỏi cảnh sống kinh hoàng ghê gớm đó, thấy mình đang sống trong
khung cảnh tự do trên đất Mỹ,một quốc gia hùng cường, vĩ đại nhất
hoàn vũ ngày nay, không còn bị cảnh đói khát, rét mướt cắt da, mưa
nắng dãi dầu, lao động quá sức chịu đựng cuả con người, không còn bị
hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần, hết bị những cặp mắt cú vọ cuả
công an và cả một số bạn bè bị công an tẩy não, hù dọa, biến
thành “ăng-ten, do thám” cho cộng sản theo dõi bám sát ngày đêm, tôi
lại âm thầm cảm ơn Thượng Đế, vợ con gia đình, bạn bè, đã cho tôi
sống, tiếp tế cho tôi nghị lực, thức ăn, đồ uống, niềm hi vọng để
đủ sức mà sống dù đã nhiều phen tôi thật sự vô cùng tuyệt vọng,
vì có lúc cả trại chỉ còn lại một mình tôi là Sĩ Quan, còn toàn một
thứ tù hình sự đầu trộm, đuôi cướp, hiếp dâm, giết ngườị Tôi cảm
ơn chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ đã mơ rộng vòng tay đón nhận chúng
tôi là những người tị nạn chính trị dù cho thế hệ chúng tôi tàn lụi
và qua đi thì thế hệ con cháu chúng tôi có được cơ hội để sống làm
người, hữu ích cho Quê Hương Đất Nước chúng tôi, cho xã hội loài
người văn minh, tiến bộ, tốt đẹp hơn ở tương lai...
San Diego, California