YẾU TỐ NGƯỜI MỸ
TRONG MÔI TRƯỜNG CHÍNH
TRỊ VIỆT NAM
Bùi Diễm
Trích
Tạp Chí Cách Mạng Số 28 Của Đại Việt Cách Mạng Đảng
LTS:
Sau đây là bài tham luận, được viết năm 1995, của cựu Đại Sứ Bùi
Diễm về yếu tố người Mỹ trong môi trường chính trị Việt Nam. Mặc dù
bài tham luận đã được viết cách đây hơn 7 năm, nhưng những nhận định
về các yếu tố ảnh hưởng đến nền chính trị của Hoa Kỳ, và vì vậy
ảnh hưởng đến chính sách ngoại giao Hoa Kỳ với các nước khác trên
thế giới, vẫn không hề thay đổi. Tạp Chí Cách mạng xin giới thiệu
đến quý bạn đọc bài tham luận giá trị nàỵ
Trở
lại lịch sử và nhìn vào mối liên hệ, hay nói một cách nôm na hơn,
vào duyên nợ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, điều mà ai cũng có thể nhận
thấy là, ngoại trừ hai chuyến “đi sứ” sang Hoa Kỳ không thành công
của ông Bùi Viện năm 1873 dưới thời vua Tự Đức (và dưới thời tổng
thống Hoa Kỳ Ulysse S. Grant), người dân Việt Nam chỉ bắt đầu nghe nói
và biết đến Hoa Kỳ vào những năm có thế chiến thứ II, đầu thập
niên 1940, nghĩa là vào khoảng nửa thế kỷ trở lại đây. Vào thời
đó, người dân Việt Nam được nhìn thấy tận mắt những máy bay Mỹ như
những ánh bạc trên nền trời xanh đâm nhào xuống những nơi có người
Nhật đóng quân, rồi sau! đó, khi chiến tranh chấm dứt, một số sĩ quan
Mỹ đại diện cho quân đội Đồng Minh (đặc biệt là tướng Gallagher và
đại tá Patti) trong những bộ quân phục diêm dúa và trên những xe
Jeep lần đầu tiên xuất hiện trên đường phố Hà Nội. Người dân Việt
Nam cũng được nghe thấy là, phe Đồng Minh mà Mỹ là cường quốc đứng
đầu đã thắng phe Đức, Ý, Nhật, và về phần những dự định sắp đặt
của phe Đồng Minh cho Việt Nam thì tổng thống Mỹ (lúc đó là ông
Roosevelt) vì không muốn Pháp trở lại Việt Nam nên đã đưa ra chủ
trương đặt Việt Nam dưới quyền quản trị tạm thời của Liên Hiệp Quốc,
để sau một thời gian Việt Nam có thể trở nên độc lập, điều mà mọi
người Việt Nam đều khao khát\. Đối với cô gái Việt Nam đang bị vùi
dập bởi hết người ngoại quốc này đến n! gười ngoại quốc khác, hết
Pháp lại đến Nhật, rồi hết Nhật lại đến Tàu, người Mỹ lúc bấy
giờ quả thực là một chàng trai không những vừa đẹp vừa giàu mà
lại còn hào hoa phong nhã nữa. Nhưng rồi cách mạng tháng 8 ập đến
và người Mỹ, như đã nhìn thấy bóng dáng của những người Cộng Sản,
bắt đầu lảng ra. Mối tình đầu không thành nhưng hình như duyên nợ vẫn
còn đeo đẳng, nên sau một thời gian vắng bóng, người Mỹ lại quay trở
lại. Lúc đầu thì chỉ là để giúp ông Diệm, rồi dần dà người Mỹ
nhập cuộc và tự mình đảm nhận lấy trách nhiệm cuộc chiến chống
những người Cộng Sản miền Bắc. Mối liên hệ Mỹ, Việt trở nên sâu
đậm. Đối với những người miền Bắc thì cuộc chiến là “chống Mỹ cứu
nước”, còn đối với những người miền Nam thì cuộc chiê! 'n là “đồng
minh với Mỹ” để chống lại Cộng Sản bạo tàn\. Thực sự thì nếu không
kể thời kỳ Mỹ chỉ ghé vai vào Việt Nam và đứng ngoài giúp đỡ ông
Diệm, thời gian người Mỹ trực tiếp nhúng tay vào Việt Nam không quá
10 năm, kể từ ngày đảo chính chống ông Diệm năm 1963 cho đến lúc Mỹ
rút quân khỏi Việt Nam sau hiệp định Ba Lê năm 1973. Nhìn theo chiều
dài của lịch sử và so với một ngàn năm đô hộ của người Tàu và
một trăm năm đô hộ của người Pháp thì sự chung đụng 10 năm này với
người Mỹ không thể kể là lâu dài được. Thời gian chung đụng tương
đối ngắn nhưng vì những lý do tâm lý nào đó, duyên nợ vẫn cứ kéo
dài và ngày nay, hai mươi năm sau khi người Mỹ đã hoàn toàn rút khỏi
Việt Nam, người dân Việt Nam ở trong nước cũng như ở ngoài nước có
vẻ như vẫn m! uốn lôi kéo người Mỹ vào cuộc trở lại. Bất kỳ ở nơi
nào, chốn nào, hễ nói tới chính trị ở Việt Nam là người ta nói đến
“yếu tố Mỹ”, coi đó như là một yếu tố quyết định đối với tương lai
của Việt Nam. Người Việt Nam dường như vẫn luôn luôn bị ám ảnh bởi
ảnh hưởng của Mỹ, không ra khỏi được tâm trạng lệ thuộc, một loại
mặc cảm mà thời gian hai thập niên vẫn chưa xóa nổi. Đối với người
dân thường ở trong nước thì sự mong muốn người Mỹ trở lại phải được
coi là lẽ tự nhiên. Sống trong một tình trạng kìm kẹp, thiếu thốn,
đói khổ triền miên, hết năm này qua năm khác, họ trông chờ thay
đổi - do đó mà dầu có không thích Mỹ chăng nữa thì nếu Mỹ quay trở
lại cũng là một sự thay đổi và thay đổi chỉ có thể có nghĩa là có
hy vọng đời sống sẽ được dễ thở hơn.
Về
phần những người Cộng Sản (từ cán bộ cho đến nhân viên chính phủ)
thì trái ngược hẳn lại với những năm về trước, chủ trương của họ
lúc này là “làm giàu” nên tư bản Mỹ không còn là kẻ thù nữa. Sau
khi đã hò hét “chống Mỹ cứu nước” họ mong mỏi người Mỹ quay trở
lại hơn cả người dân thường. Họ ve vãn người Mỹ để người Mỹ bãi
bỏ cấm vận, tưởng chừng như bãi bỏ cấm vận là chiếc đũa thần để
giải quyết mọi vấn đề khó khăn. Họ ngầm mong rằng rồi đây Mỹ có
thể sẽ “liên minh” với họ để đề phòng những “mưu mô bành trướng”
của những người láng giềng miền Bắc, những người đồng chí cũ nay
không còn ở trong tình trạng “môi hở răng lạnh” với họ như trước
nữa, trong khi đó thì, như phản ảnh một tâm trạng mâu thuẫn, họ vẫn
lo ngại về “diễn tiến hòa bình”, sợ một khi con “ngáo ộp” Mỹ đến thì
đặc quyền, đặc lợi sẽ lần lần biến mất. Đối với những người Việt
Nam không chấp nhận chế độ Cộng Sản, không sống được với Cộng Sản,
phải bỏ nước ra đi và hiện đang sống ở ngoại quốc thì cũng như đối
với người dân thường trong nước, lý do mà mong chờ người Mỹ đến là
điều dễ hiểu. Hoặc chính bản thân họ đã trải qua những cực hình khi
phải sống trong lao tù hay các trại giam của Cộng Sản, hoặc đã nghe
những thân nhân của họ kể lại về đời sống dưới “thiên đường” Cộng
Sản, cho nên họ mong mỏi đất nước sớm thoát khỏi được tình trạng áp
bức, nghèo đói, hậu quả của một chế độ nay đã lỗi thời. Nhìn trước
nhìn sau, nếu muốn tìm kiếm sự giúp đỡ để đạt được mục đích, quanh đi
quẩn lại thì vẫn chỉ còn có Mỹ. Nước Mỹ ngày nay là một siêu cường
quốc, vừa giàu lại vừa mạnh, hơn nữa những giá trị cổ truyền của
Mỹ lúc nào cũng là tự do, dân chủ và nhân quyền, nếu không nhờ
Mỹ thì nhờ ai? Do đó mà trông chờ vào người Mỹ cũng là điều hợp
lý. Nhưng muốn nhờ vả người Mỹ giúp đỡ là một chuyện, còn trên
thực tế có thể trông chờ được vào người Mỹ hay không, hay trông
chờ được tới mức nào, thì đó lại là một chuyện khác.
Những
ý kiến trình bày dưới đây nhằm mục đích làm cho sáng tỏ vấn đề nàỵ
Trước
hết vấn đề không phải là lúc này mới được đặt rạ Vấn đề đã được
đặt ra ngay từ ngày người Mỹ can thiệp vào Việt Nam nhưng cho đến nay,
vì lý do này hay lý do khác, từ phía những người Cộng Sản Việt Nam
cũng như về phía những người Quốc Gia Việt Nam, những nhận xét về Hoa
Kỳ chỉ là những nhận xét vội vàng, căn cứ vào những cái nhìn hời
hợt bên ngoài, thiếu hẳn chiều sâu cần thiết cho một sự tìm hiểu
đứng đắn, do đó mà vấn đề nên được đặt lại để mọi người tìm cách
tránh những sai lầm tai hại cho đất nước như đã từng thấy trong trận
chiến tranh và ngay cả gần đây nữa. Đối với những người cầm quyền
trong nước cũng như đối với những chính trị gia đang tranh đấu cho tự
do, dân chủ và một tương lai sáng sủa hơn cho Việt Nam, không đánh
giá được đúng mức chính sách của Hoa Kỳ, không đo lường được một
cách chính xác thái độ của người Mỹ đối với vấn đề Việt Nam thì
không thể nào hoạch định được đường lối phù hợp với quyền lợi của
đất nước cũng như với trào lưu tiến hóa của nhân loại bên ngoài.
Nhìn
từ bên ngoài vào thì tìm hiểu chính sách của Hoa Kỳ không phải là
một vấn đề khó khăn. Hoa Kỳ có một thể chế dân chủ cởi mở và
mọi hoạt động của các tổ chức chính trị và hai đảng lớn của Hoa Kỳ,
Dân Chủ và Cộng Hòa, đều là những hoạt động hoàn toàn công khai,
còn về báo chí của Hoa Kỳ thì không ai có thể nói là thiếu tự do
được, do đó mà đường lối, chính sách của chính phủ Hoa Kỳ là những
điều được mang ra công khai bàn cãi hằng ngày trên báo chí và bằng
những phương tiện truyền thông nhanh chóng khác. Nhưng cũng chính vì
tính chất dân chủ và công khai đó của sinh hoạt chính trị ở Hoa Kỳ
mà vấn đề trở nên phức tạp và! đòi hỏi những phân tách tỉ mỉ, theo
dõi thường xuyên. Trước hết sự hình thành của bất kỳ một chính sách
nào của Hoa Kỳ cũng tùy thuộc vào sự tác động giữa những trung tâm
quyền lực mà 3 thành phần chính là Tòa Bạch Ốc (hành pháp), Quốc
Hội (lập pháp) và cơ quan truyền thông (dư luận). Trên nguyên tắc thì
vấn đề tìm hiểu có vẻ đơn giản vì chỉ có 3 trung tâm quyền lực chính
trên đây nhưng trên thực tế thì vấn đề hết sức khó khăn vì ngay
trong nội bộ của những trung tâm quyền lực có đến hàng chục trung
tâm quyền lực nhỏ khác xâu xé lẫn nhau và tranh dành ảnh hưởng.
Không kể gì đến giới truyền thông của Hoa Kỳ phản ảnh của dư luận
với đầy đủ mọi ý kiến từ mọi khuynh hướng từ cực tả đến cực hữu,
nếu nói tới Quốc Hội Hoa Kỳ thì không phải chỉ nói tới hai đảng Dân
Chủ và Cộng Hòa mà nói tới tất cả 535 vị Dân Biểu và Thượng Nghị
Sĩ của tòa nhà Lập Pháp. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì tổ chức
đảng ở Hoa Kỳ không giống như tổ chức đảng ở các nước khác. Tổ
chức đảng của Hoa Kỳ là một tổ chức hết sức lỏng lẻo, không có
kỷ luật. Đảng ở Hoa Kỳ là một sự tập hợp của một số người cùng
theo một khuynh hướng chính trị (tỷ dụ như đảng Cộng Hòa có khuynh
hướng tương đối bảo thủ hơn đảng Dân Chủ), nhưng không bắt buộc phải
theo một đường lối duy nhất, vì vậy mà mỗi khi cần phải đối phó với
một vấn đề khó khăn, những bất đồng ý kiến thường xảy ra, do đó
mà Cộng Hòa nhảy sang phía Dân Chủ (hay ngược lại) không phải là
chuyện lạ. Về phía hành pháp tức là tòa Bạch Ốc và chính phủ thì
tình trạng cũng không kém phần phức tạp. Tổng Thống Hoa Kỳ là người
cuối cùng có quyền quyết định về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ
nhưng trước khi có quyết định ở cấp cao đó thì người ta phải kể đến thể
thức phức tạp gồm có sự đóng góp ý kiến của Bộ Ngoại Giao, Bộ
Quốc Phòng, của các cơ quan tình báo như CIA, DIA và sau cùng của Hội
Đồng An Ninh Quốc Gia. Thâu tóm được đầy đủ ý kiến của từng nơi đã
là một chuyện khó, nhưng dung hòa được những ý kiến đó để có được
một sự đồng thuận còn khó hơn nữa, vì nhân viên chính phủ nhiều khi
còn ngấm ngầm liên kết với nhà báo và đưa tin ra ngoài để đả kích
những dự án hay chính sách của chính phủ mà họ không tán đồng. Điển
hình hơn cả là những sự xung đột và tranh dành ảnh hưởng dưới nhiều
thời Tổng Thống giữa Bộ Ngoại Giao và vị Phụ Tá An Ninh Quốc Gia tại
Tòa Bạch Ốc. Đặc biệt hơn nữa, trong bài toán tìm hiểu chính sách
của chính phủ Hoa Kỳ là, ngoài ảnh hưởng dưới hình thức phức tạp,
cả trực tiếp lẫn gián tiếp của Quốc Hội và dư luận Hoa Kỳ, người
ta phải kể đến một vài đặc điểm khác của đời sống chính trị Hoa Kỳ như:
- Một vị Tổng Thống mới được bầu lên,
dù rằng là người cùng một đảng với vị Tổng Thống tiền nhiệm, có
quyền thay đổi hoàn toàn chính sách của vị tiền nhiệm của ông ta\. Do
đó, không ai có thể bảo đảm là chính sách của chính phủ Hoa Kỳ sẽ
được tồn tại sau mỗi kỳ bầu cử 4 năm hay 8 năm. Mặc dầu cùng theo
một đường hướng chung, chính sách của ông Bush không theo đúng chính
sách của ông Reagan, cũng như chính sách hiện nay của ông Clinton
nhiều phần gần như khác hẳn so với chính sách của ông Carter lúc
trước.
-
Những vụ bầu cử ở Hạ Viện và một phần Thượng Viện (hai năm một
lần) cũng ảnh hưởng không ít đến chính sách của chính phủ Hoa Kỳ. Tỷ
dụ điển hình nhất là vụ bầu cử tháng 11, 1994 đã đưa đến sự thắng
trận hoàn toàn của đảng Cộng Hòa, gây thêm nhiều khó khăn cho ông
Clinton về cả hai phương diện đối nội và đối ngoạị
-
Dư luận dân chúng chịu ảnh hưởng sâu đậm của giới truyền thông Hoa
Kỳ, nên đời sống chính trị cũng bị ảnh hưởng theo, do đó quan điểm
của Quốc Hội cũng có thể thay đổi một cách nhanh chóng. Trong trận
chiến tranh ở Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ đã được gởi sang Việt Nam
đầu năm 1965 với sự đồng ý của hầu hết Hạ Viện và Thượng Viện và
của những bình luận gia trong giới báo chí, thế mà chưa đầy 2 năm sau,
những vụ chống đối đã nổi lên như cồn, buộc Quốc Hội Hoa Kỳ phải
đổi ngược lại thái độ. Gần đây hơn nữa, Hoa Kỳ mang quân sang giúp
Somalia vào tháng 11 năm 1992, thế mà chỉ vài tháng sau, vì có một số
binh sĩ Hoa Kỳ bị thiệt mạng, Hoa Kỳ lại phải rút khỏi Somaliạ
Trên
đây là một vài nét chính về đời sống chính trị của Hoa Kỳ. Những
nét chính nầy ít nhất cũng cho ta thấy rõ rằng: theo dõi được chính
sách của Hoa Kỳ không phải là chuyện dễ dàng. Vì thể chế và tập
quán chính trị của Hoa Kỳ quá dân chủ nên đối với bất cứ một vấn
đề gì, người ta cũng thấy có quá nhiều nhân viên trong guồng máy
chính quyền và những “nhóm ảnh hưởng” ở bên ngoài tham gia vào việc
hình thành và quyết định chính sách, không những thế, những yếu tố
đó lại còn luôn luôn thay đổi vì bị ảnh hưởng của những biến chuyển
hằng ngày trên thế giới hay ngay tại Hoa Kỳ.
Và
bây giờ, để học hỏi thêm qua một vài trường hợp điển hình, chúng ta
hãy nhìn vào chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ trong thời gian gần đây.
Phạm vi nhỏ hẹp của bài tiểu luận này không cho phép chúng ta trở
lại những lỗi lầm hay mâu thuẫn của Hoa Kỳ trong trận chiến tranh ở
Việt Nam, đưa đến thảm trạng mà hậu quả còn kéo dài cho đến ngày
nay cho cả hai dân tộc, nhưng để tìm lối trả lời cho câu hỏi đã được
đặt ra là người Việt Nam có thể trông chờ vào người Hoa Kỳ tới mức
nào, chúng ta hãy cố gắng phân tích một vài khía cạnh của chính sách
Hoa Kỳ liên hệ đến những vấn đề thiết thân cho người Việt Nam như
tự do, dân chủ, nhân quyền và phát triển. Về phương diện này thì,
dưới thời ông Bush hay hiện nay dưới thời ông Clinton, lúc nào chính
sách của Hoa Kỳ cũng nhằm mục đích ủng hộ những cố gắng của những
dân tộc khác trên thế giới để những dân tộc đó có thể vừa phát
triển kinh tế vừa xây dựng dân chủ. Ngoài ra Hoa Kỳ lúc nào cũng
sẵn sàng lên tiếng để bênh vực nhân quyền của những người bị áp
bức. Trên nguyên tắc thì quả thực Hoa Kỳ trong nhiều trường hợp đã
tỏ ra thành thực và có thiện chí, nhưng trên thực tế, dư luận quốc
tế đã thấy rõ là, bị ràng buộc bởi những nhu cầu chính trị nội bộ,
Hoa Kỳ đã không muốn hay không thể theo đuổi đến nơi đến chốn chính
sách của mình. Lúc mới được bầu lên, về vấn đề nhân quyền, ông
Clinton chủ trương một chính sách hết sức cứng rắn đối với Trung Hoa,
nhưng chỉ được môt năm thôi và qua năm sau - vì Trung Hoa nhất định
không chịu nhượng bộ - nên Hoa Kỳ đã phải lùi bước trước áp lực
của giới tư bản Hoa Kỳ vì giới này lo ngại rằng một chính sách quá
cứng rắn sẽ làm tổn thương đến quyền lợi thương mại và kinh tế của
Hoa Kỳ.
Trường
hợp của những người trên đảo Timor (thuộc ảnh hưởng của Nam Dương) bị
áp bức cũng tương tự như vậy. Trong cuộc viếng thăm Nam Dương gần đây
nhân vụ họp Hội Nghị Kinh Tế Thái Bình Dương (APEC), ông Clinton đã
tránh né và không dám đề cập trực tiếp vấn đề nhân quyền với
chính phủ Nam Dương. Ngoài ra chính sách đầy mâu thuẫn của Hoa Kỳ ở
Bosnia cũng làm cho nhiều quan sát viên quốc tế phải đặt vấn đề
phải chăng Hoa Kỳ không có chính sách và chỉ có phản ứng mỗi khi có
biến cố này hay biến cố khác xảy ra.
Kết
luận mà người ta có thể rút ra từ những trường hợp như trên đây là
trên chính trường quốc tế chỉ có quyền lợi mới được coi là tiêu
chuẩn đáng kể, còn về những lý tưởng cao đẹp khác thì chỉ trong
những trường hợp thuận tiện, Hoa Kỳ mới có thể ra tay giúp đỡ các
dân tộc khác, vì chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ được dựa trên căn
bản của những giá trị cổ truyền, những lý tưởng, truyền thống cao
đẹp của dân tộc Hoa Kỳ, nên chính sách đó có thể giúp đỡ nhiều về
phương diện tinh thần những dân tộc bị áp bức, nhưng những dân tộc
đó phải hiểu rõ những giới hạn mà thực tế không cho phép chính phủ
Hoa Kỳ, dầu là Cộng Hòa hay Dân Chủ, vượt ra khỏi.
Để
thêm vào những nhận xét chung trên đây về tính cách khả tín của
chính sách ngoại giao Hoa Kỳ, có lẽ sẽ có một số người đặt ra câu
hỏi: Hoa Kỳ là một siêu cường quốc, chắc hẳn là chính sách của Hoa
Kỳ phải được dựa trên một chiến lược nào đó? Và nếu có chiến
lược thì chiến lược đó ra sao? Sự thực thì, nếu người viết bài này
được phép đưa ra một vài nhận xét thô thiển, những người đặt ra câu
hỏi đã để cho trí tưởng tượng đi quá xa. Trên thực tế, trong nhiều
trường hợp Hoa Kỳ đã tỏ ra hết sức lúng túng, ngay cả đối với
những vấn đề không thuộc vào loại “quyền lợi thiết thân” của mình
thì làm sao còn có t! hể nói “chiến lược toàn cầu” như một số người
đã đề cập tới!
Trước
đây, trong thời kỳ chiến tranh lạnh, qua nhiều thập niên, vì phải đối
phó với sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản, Hoa Kỳ đã liên tục
và kiên trì theo đuổi chính sách “ngăn chận Cộng Sản” (containment
policy), lúc đó danh từ “chiến lược toàn cầu” có thể được coi như
hợp lý. ngày nay, phần lớn thế giới Cộng Sản đã sụp đổ, người
viết bài nầy chưa tìm thấy được một triệu chứng nào chứng tỏ Hoa Kỳ
có một chiến lược nào đó. Không phải là Hoa Kỳ không có những học
giả, chiến lược gia hay những trung tâm nghiên cứu về vấn đề này,
nhưng với lề lối làm việc của người Hoa Kỳ, với những tập quán
chính trị của một xã hội tự do, cởi mở như Hoa Kỳ, nghiên cứu là
một chuyện còn thuyết phục được mọi người chấp nhận và đem ra thực
hiện những điều nghiên cứu lại là một chuyện khác. Gần đây, vào
những năm cuối nhiệm kỳ của ông sau khi Liên Xô sụp đổ, Tổng thống
Bush trong một bài diễn văn, có đề cập đến “một nền trật tự mới”,
nhưng không ai hiểu được trật tự mới đó ra sao, và cũng như nhiều
danh từ to lớn khác, trật tự mới của ông Bush đã trôi vào quên
lãng. (Đặc biệt khôi hài trong vấn đề này là một công chức cấp
thấp trong chính phủ Hoa Kỳ, trong lúc cao hứng đã dùng danh từ “beyond
containment” để nói về bài diễn văn của Ông Bush, thế là liền sau
đó những người Cộng Sản ở Việt Nam - từ lý thuyết gia cho đến chiến
lược gia - lập tức ngày đêm ra công nghiên cứu! chiến lược mới của
Hoa Kỳ. Không hiểu rằng trong lúc hăng say nghiên cứu, họ đã tìm ra
được những gì trong chiến lược mới đó?
Để
trở về câu hỏi đã được đặt ra trên đây là có thể trông chờ được
vào người Mỹ không, và nếu được thì tới mức nào, người viết bài
nầy thiết nghĩ là phần trình bày trên đây cũng tạm đủ để cho phép
chúng ta kết luận rằng vì chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trên căn
bản được dựa vào một số giá trị tinh thần cao đẹp như dân chủ, nhân
quyền, nên ít nhất về phương diện tinh thần, người Việt Nam cũng có
thể trông chờ được vào sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, nhưng trên thực tế,
rõ rệt là sự giúp đỡ đó có giới hạn. Và nếu muốn tranh thủ sự
giúp đỡ đó thì phải đo lường được đúng mức giới hạn của nó cũng
như phai biết cách tranh thủ cho hữu hiệu. Về những vấn đề nầy,
người Việt Nam nên hiểu rằng vì tính cách bất trắc của chính trị Hoa
Kỳ, muốn có những nhận định chính xác về chính sách Hoa Kỳ, việc đầu
tiên phải làm là theo dõi thường xuyên những biến chuyển trong chính
trị nội bộ của Hoa Kỳ, rồi từ đó dựa vào những tính chất đặc biệt
của đời sống chính trị của Hoa Kỳ để phân tích từng trường hợp một.
Ngoài ra tranh thủ hữu hiệu không có nghĩa là chạy theo một vài cá
nhân Hoa Kỳ với ảo tưởng là họ có thể xoay chuyển được chính sách
của chính phủ Hoa Kỳ. Rất có thể những cá nhân đó có cảm tình sâu
đậm đối với Việt Nam và thành thật muốn giúp Việt Nam, nhưng thực
sự họ có thể giúp gì được cho Việt Nam, đó là điều cần phải được
xét kỹ lại. Trong sinh hoạt chính trị của Hoa Kỳ, tiến trình đưa đến
sự hình thành một chính sách là cả một sự giằng co hết sức phức
tạp giữa nhiều ảnh hưởng nhiều khi đối nghịch, ảnh hưởng của những
cá nhân bên ngoài guồng máy chính quyền khó lòng mà có thể nói
lên được. Hơn nữa, quan trọng hơn cả, vấn đề được đặt ra là vấn đề
nguyên tắc. Trong cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ ở Việt Nam, không
có người ngoại quốc nào, dù là Hoa Kỳ có cảm tình với Việt Nam, có
thể thay mặt người Việt Nam được. Họ chỉ có thể đứng phía sau người
Việt Nam, giúp đỡ người Việt Nam (vì thực sự người Việt Nam cần đến
sự giúp đỡ của họ) nhưng họ không thể phất cờ cho người Việt Nam
chạy theo được. Nếu có một bài học lịch sử nào, quý giá nhất, mà
chúng ta có thể rút ra được từ! thảm trạng chiến tranh Việt Nam trong
những thập niên 60 và 70, bài học đó bắt buộc phải là: không bao
giờ có thể trao vào tay người ngoại quốc quyền quyết định về số
phận của dân tộc Việt Nam được. Yếu tố Mỹ trong chính trị Việt
Nam (đề tài của bài tiểu luận này), nếu có chăng nữa, cũng không
được phép trở thành một yếu tố quyết định, vì danh dự và quyền lợi
của dân tộc và để bảo vệ tính cách trong sáng của chính nghĩa mà
tất cả những người Việt Nam tranh đấu cho tự do và dân chủ ở Việt
Nam đang theo đuổi, chúng ta không nên quên điều đó. Và sau hết là
một vài lời nhắn nhủ gửi những nhà cầm quyền Cộng Sản ở Việt Nam:
Không cần phải có Mỹ mới có “diễn tiến hòa bình”. Vì khao khát tự
do, dân chủ và công bằng xã hội, người dân Việt Nam ở ngay! trong
nước, thuận với trào lưu tiến hóa của nhân loại, sớm hay muộn cũng
sẽ tự tìm ra những phương thức để tranh đấu cho tương lai của chính mình
cũng như cho tương lai của dân tộc.
Bùi Diễm
Do You Yahoo!?
Sign-up for Video Highlights of 2002 FIFA World Cup
MẸ VIỆT NAM: Tiếng nói của những người
xa Quê Hương - Từ Việt Nam nếu bạn muốn
tham gia và nhận bài vở hàng ngày, xin thư