NGÀY TRỞ VỀCựu Tù |
Ngày Ra Đi là một ngày buồn giữa tháng sáu năm 1975. Ra đi không chia tay bạn bè, không
một lời giả biệt người thân, tâm tư trĩu nặng. Theo đài phát thanh và truyền hình lúc bấy giờ thì những
“sĩ quan ngụy” trình diện học tập cải tạo sẽ phải mang theo một tháng tiền
ăn, ai muốn nghĩ sao thì nghĩ.
Bước đường ra đi của người viết bài này có kể sơ lượt trong bài “Lon
Guigoz”. Tiến trình học tập cải
tạo có nhiều giai đoạn khác nhau. Trước hết, lúc đầu, họ chỉ tập trung chúng tôi vào một nơi không xa Saigon. Đó là một trại của Trung Tâm Huấn Luyện Địa Phương Quân cũ của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, trại Long Giao, ngay trên đường từ Bình Giả xuống Xuyên Mộc. Cũng có chương trình học tập đàng hoàng do quân đội phụ trách, vì chúng tôi là quân nhân thuộc QLVNCH. Đây là một chương trình có giá trị “tẩy não”, nghĩa là làm thay đổi lối suy nghĩ cũ của chúng tôi thành một lối suy nghĩ hoàn toàn mới đối nghịch. Ví dụ, “hãy kê khai những việc lớn mà anh đã làm trong “quân ngụy”, và các ban thưởng nếu có phù hợp với những việc lớn đó. Những việc lớn? Đó là các công trạng trong chiến tranh, dựa vào đó, được thăng thưởng huy chương hay cấp bậc. Đó là bản tự khai, có chữ ký, sau này sẽ dùng để thành lập bản án khi có hành vi chống phá “cách mạng” hay trốn học tập cải tạo. Trường hợp này đã xảy ra ngay tại trại Suối Máu Biên Hòa chỉ vài tháng sau đó. Họ giải thích thế nào là “Giải Phóng Dân Tộc”, thế nào là “Đế Quốc Mỹ Xâm Lược”, thế nào là “Tay Sai Đế Quốc”...vv...Thật là nhức đầu dù chỉ có khoảng bốn tháng nhồi sọ. Trong thời gian này, chỉ có một lần đi vác củi là coi như lao động, còn bình thường, chỉ lo phục vụ cơm nước tại trại mà thôi. Nhưng sau một tháng thì họ cho gửi thơ về gia đình để xin thuốc men chữa bệnh, nhưng chủ yếu là để xin thêm tiền ăn vì thời gian học tập kéo dài. Thật là lo cho gia đình, không biết bây giờ vợ con sống ra sao. Vì trước khi đi, chúng tôi đã mua lại một căn nhà trong hẽm tại đường Võ Tánh, đối diện với nhà thờ, trong xóm đạo, một nơi có nhiều người công giáo di cư vào Nam từ 1954, hy vọng những người này là thành phần chống cộng triệt để, có thể vì tình xóm giềng, vì tinh thần cùng chống cộng với nhau, có thể họ sẽ giúp đỡ đùm bọc lấy nhau mà sống qua ngày. Các con còn có thể học hành, làm việc kiếm sống như buôn bán nhỏ, hớt tóc, sửa xe đạp, xe gắn máy...Nhưng một ngày trong trại là một ngày rất dài, chờ đợi, suy nghĩ mong lung. Chừng nào mới được về với gia đình??? Sau đó, toàn bộ đuợc dời về trại Suối
Máu ở Biên Hòa, nơi mà trước kia ta nhốt tù cộng sản. Ở trại này cũng chưa bắt lao động và
trại viên hằng ngày chỉ lo việc tự lo lấy nấu nướng mà ăn. Chỉ biết nghĩ đến ăn?! Vì mọi thứ bắt đầu thiếu thốn. Kéo dài thời gian thiếu dinh dưỡng,
thân hình gầy ốm, tinh thần bất an, lo âu. Rồi có một ngày có một số anh trốn trại, bị bắt lại, chúng
mang ra xử bắn để thị uy. Không
khí trong trại càng thêm ủ rủ.
Rồi bệnh hoạn lan tràn, bệnh kiết lỵ, tiêu chảy, táo bón. Nói chung là các bệnh vì thiếu vệ
sinh, rùôi nhặn làm lây lan nhanh chóng. Cầu tiêu lộ thiên, ruồi và én bay như mắc cưởi. Các cây ớt mà anh em trồng quanh rào
trại bị ruồi bu đến độ lá ớt cũng co cụm lại. Cái vui duy nhất là cùng nhau ngồi kể chuyện xưa, bói
toán, xem tử vi, học thiền, tập dịch cân kinh. Tối lại, đôi khi xem chiếu phim, loại phim tuyên truyền
“đánh Mỹ cứu nước”, trận Điện biên Phủ, rồi những điệu múa của “dân tộc ít
người”. Cứ thế mà thời gian trôi
đi, chậm chạp...Thỉnh thoảng có người bị gọd49 lên “làm việc”. Cán bộ miền Bắc vào, tùy ngành chuyên
môn của từng người, ai cũng có thể bị gọd49 lên. Có người gọi lên, rồi không thấy trở về lại trại, điển
hình là tác giả của bài hát “Chiều Mưa Biên Giới”. Tưởng đâu anh chết rồi!!! Có người cũng không trở lại trại, nhưng sau này biết được
họ đã được tha sớm, vì có công với “cách mạng”. Cái gì cũng chẳng màng, chỉ tự hỏi còn bao lâu nữa mới đến
phiên mình được tha. Hết một
tháng, đến 4 tháng. Rồi đến một năm sau, chẳng thấy được tha về. Nhưng chưa
ai bị chết vì bệnh mà chỉ có người bị xử bắn mà chết. Rồi một ngày nọ, bắt đầu một lo âu
mới. Một số người được gọi
chuyển trại và được đưa ra Bắc, tại Yên Bái, Hoàng Liên Sơn. |
Ra đến Yên Bái, ai cũng biết rằng ngày về còn xa, xa lắm. Mỗi người tự đoán cho mình một thời gian xa gia đình, tùy thuộc vào gia đình cần họ đến đâu, hay sức chịu đựng của họ trước viễn ảnh đen tối này. Người bi quan cho là “mút mùa lệ thủy”. Người lạc quan cho rằng cùng ắm là 3 năm. Có các anh đã từng sống với cộng sản trước 1954, đã từng đi tù khi còn phục vụ trong quân đội Pháp, họ có vẻ thờ ơ với việc đoán biết ngày về. Họ không có một đáp số nào. Chỉ vì trước kia và bây giờ không có gì giống nhau. Và họ cũng không biết được có lý do gì để được tha sớm, ví dụ như một hiệp ước đình chiến chẳng hạn, vì bây giờ đâu còn chiến tranh? Một số anh đã từng vượt biên giới trốn sang Tàu khi Hồ Chí Minh hủy diệt các chính đảng khi tham gia kháng chiến chống Pháp với cộng sản. Thành phần này chỉ cười, không phát biểu ý kiến, luôn luôn im lặng, không bàn tán công khai về vấn đề này. Thời gian ở Yên Bái kéo dài 2 năm, từ 1976 đến 1979. Cuộc sống hằng ngày càng khó khăn. Thư từ càng ngày càng thưa thớt. Lao động được tổ chức rành rẽ, người còn sức thì lao động nặng, như đi rừng, làm ruộng, phát nương, đốn gổ, đấp đập, vét ao tù nước động. Toàn những việc nguy hiễm. Có thể nói khi còn đi bay, người viết bài này đã chết hụt sáu lần trên F-8F Bearcat và A-1H Skyraider, thì khi ở Hoàng Liên Sơn cũng suýt chết đến 6 lần khi đi rừng, và một lần vì bị bệnh cúm đường ruột (stomac flue). Tuy mỗi tam cá nguyệt nhận được một gói quà từ gia đình vào cuối năm sau cùng ở Yên Bái, nhưng đó chỉ là một cơ hội để được tin tức gia đình, chứ không thể nói là đủ để bồi dưỡng sức khỏe. Có lần đứng trên đồi nhìn các bạn đang tắm dưới giếng mới thấy được rằng chúng tôi chỉ còn da bộc xương. Có người trước kia nặng 80 kg, nay không còn đứng vững được vì chỉ còn độ 45 kg. Có người đói quá, lấy lá sâm trên rừng về vò với nước chín để ngụi để làm một chất gọi là ăn được đở đói. Chỉ trong vòng vài tuần sau, anh ta bị rét run cả người, không hiểu vì sao. Vì nước vò với lá rừng tuy đã được nấu sôi rồi để ngụi, nhưng cây rừng hút nước độc từ dưới đất thì chưa khử độc được. May cho anh là trong vòng một vài tuần sau đó, tự nhiên hết. Trong thời gian ở Yên Bái, KQ chúng ta mất rất nhiều người. Có người vì quá yếu vì có sẵn bệnh trong người trước khi đi tù, như ông Nguyễn Phước Kiêm, Phòng Thăng Thưởng Huy Chương của BTLKQ. Có người vì bệnh sốt xuấy huyết, tuy đã trị hết rồi, nhưng không cẩn thận xuống tấm dưới suối nên chết vì bệnh sưng phổi, đó là anh Lê Minh Luân. Ở Yên Bái, chúng tôi, tù cải tạo, là những người làm thay đổi bộ mặt của khu rừng. Phá rừng làm nương trồng ngô bắp, khoai sắn, rau cỏ. Đấp đập xây hồ nuôi cá trám cỏ. Xây nhà, làm trường học cho con em trong vùng, toàn người dân tộc Dao, những người đã từng bắt lại và đánh đập vì giận dữ khi họ phải lên núi dò tìm suốt sáu ngày để bắt lại bốn người trốn trại, trong đó có Võ Quế. Vào năm 1979, chúng tôi chuyển trại. Khi có lệnh chuyển trại vào ban đêm, ai cũng hy vọng rằng đã đến lúc họ thả ta về. Ai cũng sống với một chút hy vọng!!! Dù khi ở Yên Bái, chúng tôi đã có cơ hội tiếp xúc với những người bị chỉ định cư trú từ sau 1954, nghĩa là cách lúc đó gần 30 năm trước. Những người đó than rằng:”Tưởng đâu các anh về giải phóng chúng tôi, ai ngờ...!!!” Có người từ Thái Lan, khi ở Thái Lan đã giúp cộng sản trú ngụ khi họ phải chạy sang đó lánh nạn trong thời chiến, sau bị dụ dỗ về Việt Nam, bỏ lại ở Thái Lan tài sản của họ để về quê, ai ngờ họ bị chỉ định cư trú tại vùng núi cùng cốc này. Núi rừng bao la, không có một trái cây chim chóc gì cả. Vì thế, khi trốn trại, mưu sinh là vấn đề lớn. Xe chở chúng tôi về đồng bằng, và cán bộ bộ đội cho chúng tôi biết rằng, “các đồng chí công an sẽ có cách quản lý các anh tốt hơn”. Họ dường như nói thật lòng, vì qua giọng điệu của họ, là quân nhân như chúng tôi, có vẻ thông cảm với chúng tôi nhiều hơn. Như vậy, đó chỉ là lời “thay lời từ biệt” và chúc may mắn, vì chính họ cũng biết sống với công an thì thật là khó sống. Lúc đó, Trung Cộng chưa “cho Việt Nam một bài học”, nhưng chẳng bao lâu, việc đó đã xảy ra.
Về đồng bằng, sống trong các trại kiên cố bằng đá hay bằng gạch, có song sắt, có cửa khóa kỹ. Không như ở Yên Bái, chỉ có một rào trúc đan sơ sài. Trại láng không có cửa. Mấy ngày đầu về các trại do công an quản lý, trực thuộc Bộ Nội Vụ, chúng tôi được nhốt trong trại vài tuần đầu. Từ các cửa sổ nhỏ có song sắt, ban đêm không nhìn được trăng sao, ban ngày chỉ nhìn được tới sân ngoài cạnh phòng giam. Các tù hình sự trong giờ lao động đến đập đá bên ngoài, vì còn trong vòng xây dựng. Nhìn hình thù của các tù hình sự có thể mường tượng được tương lai chúng tôi như thế nào:”toàn da bọc xương”. Họ phải đóng một cây đục đá to bằng cây xà beng, dài độ 60 cm. Chỉ tiêu của họ là mỗi buổi phải đóng xuống sâu độ 40 cm. Một người cầm một cái búa nặng 15 kg, nện vào đầu đục. Người kia, hai tay vịn đục cho vững. Thỉnh thoảng, kéo đục lên, đổ nước vào, lấy một cái móc, móc bụi từ trong lỗ ra. Sau mỗi lần búa bổ xuống, người vịn đục xoây dần cái đục để lỗ được tròn đều. Không biết một ngày lao động như vậy, họ phải mất bao nhiêu ca lo, mà ăn thì chỉ là cục bột to bằng cái chuông xe đạp. Do đó, so với họ, chúng tôi còn mập mạp hơn nhiều, nhất là bên má chúng tôi, phần dưới mép tai, lộ lên một hạch giống như quả chanh, đó là kết quả nhiều tháng sống bằng khoai sắn và rừng sâu nước độc. Các công trình dành cho chúng tôi không kém phần vĩ đại. Trước tiên là đập đá xây thêm trại. Thứ đến là đấp một con lộ dài ước lượng 30 km băng qua đầm đùn và sông Đáy, mặt lộ khoảng 15 m, nhưng từ chân lộ đến mặt lộ cũng khoảng 15 m, nên chân lộ rộng khoảng 30 m. Phải nhìn thấy tận mắt công trình này, không khác nào trong phim Cleopatra, dân Do Thái đã xây các Kim Tự Tháp ở Ai Cập thời xa xưa. Chỉ thiếu cảnh lấy roi đánh đập những người quá kiệt sức không còn hăng say lao động theo ý của chủ mà thôi. Khi chúng tôi chuẩn bị cuộc di chuyển về Nam thì lộ này còn dở dang, dùng để trồng chuối trên mặt lộ. Chỉ cần làm theo lệnh, không cần biết kết quả ra sao. Thật là tốn công vô ích. Khi có lệnh chuyển trại, một lần nữa, anh em tù cải tạo cũng nghĩ rằng ngày về đã đến:”có lẽ họ đưa mình về Nam, rồi thả ra không chừng?!” Anh bạn nằm cạnh tôi:”ra khỏi trại, việc đầu tiên tôi làm là đi mua 10 kg khoai ăn cho no một bửa”. Nếu thật thì anh sẽ chết vì tức bụng nếu anh ăn vào 10 kg khoai một lúc. Vào 1982, chúng tôi được đưa vào Nam bằng xe lửa. Hai người chung một còng, ăn, ngủ, ỉa, đái đều có nhau, dưới đất như trên tàu. Nhận xét vui vui là khi chuyến tàu đi dần về Nam, tiếng nói người Việt chúng ta thay đổi từng trạm khi xe ngừng để tiếp tế nhiên liệu. Còn chúng tôi thì lợi dụng cơ hội để nhờ các cán bộ áp giải đi mua những thức ăn bán ở ga, tức nhiên phải có trao đổi, mỗi người một phần. Ba ngày ba đêm mới về đến vùng có núi Chứa Chan “chan chứa” nổi buồn mất nước. Nhìn lại cảnh cũ khi vào ga Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Phan Rang...người dân như chào đón chúng tôi như chào đón người cha, người chồng, người anh cả đang trở về. Họ bu lại xe lửa, hỏi hang, tiếp cho chút nước để có cơ hội nói chuyện, nhưng đều bị đuổi ra xa. Theo đoàn tàu dọc đường còn có phi cơ quan sát bay theo hộ tống. Trên đoàn tàu cũng có một goong dành riêng cho công an vũ trang đến răng. Nhưng chúng tôi cũng gửi được nhiều thơ từ cho gia đình, nhờ những người mà trong cái nhìn thân thiết của họ cho chúng tôi thấy họ là phe ta. Đây chỉ mới là 6 năm xa cách, xa miền Nam thân yêu. Nhìn dân chúng sống chất phát, ăn mặc sơ sài hơn trước nhiều. Trên cánh đồng, người cuốc người cày không thấy thanh niên khỏe mạnh mà chỉ thấy đàn bà con trẻ. Đúng là cộng sản nhốt “lính ngụy” là nhốt tất cả miền Nam rồi. Nhìn thấy người ta lao động cực nhọc ngoài đồng thì thấy lòng mình se lại, vợ con ở nhà chắc cũng như thế mà thôi.
Trong số những người được đưa về Nam, phần đông là những người không có khả năng tiếp tế thăm nuôi dồi dào, nghĩa là không thuộc loại “bò sửa”. Trái lại, họ, công an miền Bắc, phải giữ lại số người béo bở để khai thác, và số này chọn khoảng một phần ba của tổng số tù cải tạo. Cũng có một số người rất ít oi được tha trong thời gian này, nghe đâu họ đã chi khoảng 50 cây vàng cho vị Chủ Tịch gì gì đó. Hai phần di chuyển về Nam thì một phần đi Hàm Tân, một phần đi Xuân Lộc. Gần gia đình hơn, anh em được thăm nuôi nhiều hơn. Ai cũng tự hỏi còn bao lâu nữa sẽ tha. Vài năm sau, khoảng 1984 bắt đầu các đợt tha đầu tiên đối với thành phần bị đưa ra Bắc. Vài tuần thì có đợt tha. Một thời gian, họ lại ngưng. Rồi lại bắt đầu tha tiếp vài đợt, rồi lại ngưng. Trước khi chúng tôi về trại Xuân Lộc thì nơi đây đã có lần tổ chức cướp súng công an và trốn trại tập thể. Vì thế, chúng tôi bị “răn đe” ra rít. Những anh làm tay sai cho công an cũng hách dịch trong thấy. Thật là đáng buồn. Chỉ một thời gian chừng một tháng thì chúng tôi đã có dịp giáo hóa lại các tay sai nọ. Và không khí trong trại bình thường trở lại. Chẳng những chỉ có bọn tay sai phản bạn, còn có các tù hình sự mà VNCH đã nhốt tại Côn Sơn trước kia, nay cũng nhốt chung với chúng tôi là tù chính trị. Thành phần này không cần nói lý, luôn luôn ra tay mà không có chỉ dấu gì trước. Họ thù các cấp trên của họ trước kia đã phạt họ đưa ra Hội Đồng Kỷ Luật về những tội giết đồng đội vì cờ bạc hay dành gái??? Có một lần, không rủ nhau mà đã cho chúng một bài học. Từ đó về sau, thành phần này cũng được chúng tôi giáo hóa. Sau một số đợt tha mà mình vẫn còn đây. Nhất là đám “bò lục” thì chưa ai được về trong những đợt đầu, trừ các anh chịu đóng tiền 50 lạng vàng. Đường còn dài!!! Có người nghĩ, Bộ Nội Vụ họ xét tha 3 năm một lần. Các đợt này mình chưa được tha thì hãy chờ 3 năm nữa. Ba năm là một “lệnh”, tuy chẳng có án nào nói rõ như vậy. Nói chung, “học tập cải tạo tập trung” là nhốt tù không có án lệnh và chỉ được xét tha mỗi ba năm một lần. Qua một lệnh thì hãy chờ ba năm nữa. Cứ an tâm cải tạo!!! Rồi có một ngày, “bò lục” cũng có trong danh sách gọi tha. Đó là dịp 2-9-1987. Ước lượng cả ba trại, Nam Hà, Xuân Lộc và Hàm Tân chỉ vào khoảng 600 người còn lại sau các đợt tha trước đó chỉ có từ cấp “bò nhất” đến cấp “bò ngủ”- nói theo văn từ của Trương Dzù, Binh Năm Trung Tá Trương Dzù, người đầu tiên mang Bảo Quốc Huân Chương của lính Dzù khi bước vào ngưỡng cửa Không Quân. Sau đợt tha này, có rất nhiều người đã lập công với trại nhưng chưa được tha. Lập công hay không lập công vẫn ở lại như thường. Thật là buồn chán!!! Có người ủ rủ ra mặt. Có người vẫn hy vọng, có tha là tốt rồi. Có ngày sẽ đến lượt mình!!! Năm tháng dần trôi... Đến trước Tết năm 1988 lại có một đợt tha nữa. Những tưởng lần trước khi có “bò lục” được tha thì con số lên đến khoảng 300, nghĩa là chỉ còn lại phân nửa. Nhưng trong kỳ tha này, chỉ lấy có phân nửa số còn lại, nghĩa là chỉ tha lối 150 người. Còn đợt sau cùng phải chờ đến ba bốn năm sau nữa. Vì thế, trong số “bò lục”, có người được tha vào năm 1982 khi đưa về Nam một số lớn, rồi đợt 2-9-1987, rồi đợt Tết 1988, và đợt sau cùng vào khoảng 1992.
Nhìn lại công việc cộng sản họ làm, từ nhốt tù cho đến thả tù, họ đã nghiên cứu tinh vi. Lúc đầu, họ chỉ tuyên bố “mang theo tiền ăn một tháng” để học tập cải tạo. Điều này, họ gạt được tất cả những người kẹt lại Việt Nam sau ngày 30-4-1975, ai cũng hấp tấp và nghiêm chỉnh thi hành, không quá sợ hãi, ngại ngùng mà cưỡng lại lệnh tập trung, có thể đã liều mạng vượt biển, vượt biên, hay làm những chuyện mà giới hữu trách lúc bấy giờ không thích phải đối phó. Cả những người đã thoát đi và làm việc tại Mỹ này cũng bị gạt, vì không muốn để lại quê hương mẹ già, con thơ, nên đã nằng nặc đòi quay về lại Việt Nam trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín 6 tháng sau khi đã đặt chân vào nước Mỹ. Rồi ngày qua ngày, người tù quen với khả năng chờ đợi ngày về. Sau ba năm, ta làm thêm một lệnh ba năm khác. Như vậy, con người có sức chịu đựng và quen dần với khổ nhục. Giống như một người phải lội bộ từ Saigon ra Hà Nội, nếu lúc đầu, ta chỉ nói đi chơi Thủ Đức thì ai cũng háo hức mà đi, cho rằng việc còn có thể chịu đựng được. Khi đến Thủ Đức rồi, ta hướng về mục tiêu kế tiếp là Biên Hòa, rồi Trảng Bom, rồi Xuân Lộc....rồi chẳng mấy chóc đã đến Hà Nội. Khi còn trong trại, cán bộ quản giáo trại thường bảo “cố gắng học tập cải tạo tốt, sẽ được tha”. Nhưng có ai biết được thế nào là học tập cải tạo tốt. Cộng Sản phải lo việc ổn định xã hội bên ngoài rồi mới từ từ thả tù ra, giống như muối bỏ vào biển, dù có tinh thần chống đối tới đâu, thấy xã hội đã hòa nhập với trật tự mới rồi thì không còn có tư tưởng chống đối nữa. Đó là lý thuyết mà người viết nghĩ ra. Còn sự thật thì có thể hoàn toàn khác hẳn. Có phải có nhiều người đã nghe, có một kế hoạch đưa tất cả ra vùng sâu trong núi Thanh Hóa để định cư vĩnh viễn các “ngụy quân, ngụy quyền” còn kẹt lại sau 30-4-1975? Nhưng cái gì từng lúc cũng có thay đổi. Sự thay đổi đưa đến tình trạng hôm nay, là Mỹ đã cưu mang chúng ta, và để đổi lại đã cho nước CHXHCNVN vào Liên Hiệp Quốc....
Ngày chúng tôi về, vào trại làm thủ tục, chờ các cô “chèo cái” tập sự đánh máy chữ đánh trật lên trật xuống mãi mới trao cho chúng tôi một tờ giấy “bùa hộ mệnh”, về trình diện nơi địa chỉ đúng của gia đình đang trú ngụ. Lên một chiếc xe chở hàng của trại giam, người ngồi dưới sàng, người đứng tựa cửa, người mặc một bộ đồ tươm tấc mà người nhà đã chuẩn bị sẵn, người chỉ mặc một bộ bà ba của trại, nhưng bên trong tâm tư từng người đều hướng về gia đình, bỏ hẵn quá khứ tù đày sau lưng mình. Cái lo bây giờ là có còn gặp lại người thân của mình theo như mình thầm nghĩ. Có người chỉ về bên đường phố. Ngồi đó quan sát, hỏi thăm vu vơ như người đi tìm thăm bà con lâu ngày không gặp, rồi từ từ “cận tiến”, nhìn cho kỹ vào cửa xem coi có cái nón cối nào đặt trên bàn hay móc áo không? Có khi họ phải quay đi, rồi trở lại hỏi thăm thêm. Có khi họ phải quyết định xa rời hẵn căn nhà kia để tìm một nơi khác làm tổ. Có người lại tìm được mai mối khi xuất trại, ghé ngay lại nhà một người mà tương lai sẽ cùng chung chăn gối để rồi...mang nàng sang Mỹ. Chúng tôi xuống xe từ trong trại tù lớn nhất của miền Nam trước kia, và từ đó, xe công an từ các tỉnh lên đón về. Khi đó, tôi mới nhận ra rằng, có rất nhiều bạn đồng hương mà tôi chưa từng gặp mặt khi rời ghế nhà trường. Có một anh, trước là “bò ngủ” coi quận Châu Thành này, vậy mà ngày đó, tôi phải dẫn đường cho anh về nhà ở gần xóm của gia đình tôi. Khi anh đã biết đường về nhà, tôi mới quay lại đi về phía nhà của mình vào lúc trời đã tối hẵn. Cái nhà thầy mẹ tôi ở trước kia đã trở thành một bệnh viện, nên tôi phải dò hỏi thêm để biết thầy tôi đã được định cư nơi ngỏ hẻm sau khi bị tống ra khỏi nhà. Tôi vô nhà, cửa không đóng, và từ bên ngoài tôi đã thấy thầy ngồi đánh bài tứ sắc một mình. Phía sau, một bàn thờ mẹ tôi đã chết trong lúc tôi ngồi tù. Tôi vội thấp nén hương đầu tiên cho mẹ, không cầm được dòng lệ tự nhiên tuông trào. Tôi dằn cơn nấc mà ngồi đối diện với thầy, hòi thầy có khỏe không? Thầy bảo, đứa nào đến thăm thầy giờ này, cứ ngồi đó chơi. Rồi thầy kể, không biết chừng nào con thầy về, ngày nào cũng đợi để cho nó biết mẹ nó đã qua đời mà nó bất hiếu không về để tang. Tôi không nói gì mà im lặng nhìn thầy, lòng đau không sao tưởng được. Một lác sau, một cháu gái đi làm về, nhìn ra tôi, òa lên khóc, hai tay ôm lấy tôi. Nó bảo thầy không còn thấy đường, mắt mờ lắm rồi, buồn tủi, cô đơn, không ai chăm sóc. Ai cũng phải đi làm lo bửa đói bửa no. Rồi chúng tôi bàn chuyện tương lai. Ngày mai, cháu đưa cậu về thăm mộ của ngoại, thăm mẹ con. Xong rồi con sẽ dẫn cậu về trong ruộng, nơi mợ và các anh con đang sống bây giờ...Về đến ruộng sau chiếc xe đạp của đứa cháu gái, tôi nhìn xa xa giữa cánh đồng có một cái chòi nhỏ nơi đó vợ con tôi sẽ chứng kiến một ngạc nhiên. Những người trong xóm cũng đến thăm tôi. Họ dò xét tôi. Tự cho mình là đảng viên lâu năm mà không biết gì về “tư bản luận”. Họ trưng ra những thành tích “đánh Mỹ cứu nước”, những thành tích mà sau này tôi biết dược chỉ là những tai nạn do họ gây nên chứ không liên can gì đến chiến tranh. Và sau này, trong ba năm dài, tôi và gia đình tôi phải còn sống chung với một láng giềng như vậy. Tệ hại hơn nữa là khi mẹ tôi mua đất để gia đình tôi sinh sống qua ngày tại giữa ruộng thì mẹ tôi bảo với xóm giềng rằng vợ tôi là con của bà, còn tôi là thằng rễ vô tích sự, làm tài xế xe hàng, lại bỏ vợ con không ai nuôi dưỡng. Nhưng khi tôi phải trình diện cơ quan với giấy tờ trại trao cho thì ai cũng biết rằng tôi thuộc “gia đình đau khổ” Đã về đến nhà rồi. Công việc đồng áng, tôi sẽ là vai chánh. Nhưng công việc tiếp xúc với láng giềng ,chính vợ tôi mới là vai chính. Ai ai cũng chỉ biết có ”bà hai nhà mới”, còn tôi như một người làm công, bảo gì làm nấy. Có lần, khi tôi lên luống để trồng rẫy, vợ tôi từ bên kia mương, chóng tay hất hàm bảo:”anh cuốc như vậy không được, thế này thế nọ , thật là “mất mặt bầu cua”. Khi người hàng xóm giao một thúng bưởi, trước khi về họ bảo, cô hai sẽ lo, dượng khỏi phải hỏi. Vị thế trong gia đình như đã xáo trộn cả rồi. Có ngày tôi tức tối than với vợ. Thì nàng lại rưng rưng nước mắt, tại sao tôi thay đổi nhiều như vậy. Thật là khó cho một người từng ở tù lâu năm thích nghi được với đời sống bên ngoài, có quá nhiều mặc cảm, cảm thấy mình bị vợ con coi thừơng, chỉ huy mình. Những mặc cảm đó đã nhiều lần gây hiểu lầm, giận hờn vô lối. Nhưng cũng có ngày, tôi bắt gặp vợ tôi, thấp nhang van vái trước bàn thờ Phật. Tô hỏi vợ tôi đã vái gì hôm nay. Bà cười bảo, “Phật Trời phù hộ cho chồng tôi sớm về với gia đình”. Rồi bà cười ra nước mắt...
Cựu
Tù