Gặp tướng Ngô Quang Trưởng Lần Cuối Cùng Tại BTL QD I (Dà Nang)
Le Dinh Cai ghi lại
Tối ngày 15-3-75, tôi hẹn gặp Hồ Văn Cường, Phó tỉnh trưởng Thừa
Thiên tại Câu lạc bộ Thể Thao trên bờ của Tả ngạn sông Hương,
Huế. Cường và tôi là bạn học đồng lớp, nên chơi thân với nhau khi
chúng tôi cùng làm việc tại Huế. Tôi muốn gặp Cường để xem có tin
gì mới về tình hình chiến sự và chính trị hay không. Dịp này tôi may
mắn gặp được tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh tiền phương Quân đoàn I tại
Huế, đang ngồi cùng bàn với Cường. Tôi cũng biết tướng Thi khi tôi
đang dạy tại trường Võ Bị Quốc Gia VN tại Đà Lạt (68-70).
Khi tôi nêu câu hỏi về tình hình, “liệu chúng ta có đủ lực lượng để
đương đầu với sự tấn công của địch quân từ hướng bắc không?”. Tướng
Thi tỏ vẻ tin tưởng là chúng ta có thể cầm cự được vì hiện tình hình
chưa có gì đáng ngại.
Chúng tôi ngồi không lâu thì vội vã cáo từ ra về vì trong lòng tôi
nỗi lo âu tràn ngập khi làn sóng người chạy loạn từ Quảng Trị đổ
dồn về Huế ngày càng đông trong đó có cả gia đình ba má và các em
tôi. Khi từ giã Cường tôi hỏi
liệu có nên đem gia đình vào Đà Nẵng hay không? Cường nói là nên.
Đêm đó tôi thuê xe để sáng mai (16.3) đưa ba má, các em và vợ con
tôi vào Đà Nẵng.
Trên con đường từ Huế vào Đà Nẵng là cả một đoàn người di tản dài
dằng dặc, xe cộ chỉ nhích từng chặng một nhưng rồi cuối cùng chúng
tôi cũng đến được Đà Nẵng vào lúc trời nhá nhem tối. Thành phố
này giờ trông thật hổn độn, đoàn người tứ phương từ Quảng Trị, Huế
đổ vào, từ Quảng Nam, Quảng Ngãi đổ ra tràn ngập trên các ngã
đường và các trường học bây giờ là nơi tạm trú cho dân cư tứ xứ
tập trung về đâỵ Chính quyền địa phương cũng đã làm hết sức để ổn
định trật tự và chú tâm vào việc cứu trợ đồng bào tị nạn.
Qua sáng ngày 18-3-75 (?), sau khi ổn định tạm thời cho toàn đại gia
đình ở trại tạm cư, tôi ghé lại trường Đại học Quảng Đà thăm giáo
sư Ngô Đồng, viện trưởng trường Đại Học nàỵ Anh Đồng và tôi bàn
định cùng nhau là nên tiếp tay chính quyền địa phương ổn định tình hình
cứu trợ và đồng thời tìm cách động viên anh em binh sĩ đang cầm súng
ở tiền tuyến. Chúng tôi đi đến quyết định thành lập “Ủy ban Nhân
dân hậu phương yểm trợ tiền tuyến”, liên lạc với các tổ chức chính
trị địa phương để mời tham gia và yểm trợ phương tiện. Chúng tôi dự
định xin giờ phát thanh để phát đi lời kêu gọi của Ủy ban hầu động
viên tinh thần chiến sĩ và trấn an tâm lý đồng bào đang hoảng loạn.
Chúng tôi dự định đề cử giáo sư Ngô Đồng nắm giữ chức vị chủ tịch
uỷ ban nàỵ
Chiều ngày 18-3-75 (?), khoảng 4 giờ anh Ngô Đồng và tôi cùng vào Bộ
tư lệnh Quân Đoàn I, để thăm tướng Ngô Quang Trưởng, và nhân dịp
trình bày cùng tướng Trưởng về ý định thành lập Ủy ban Yểm trợ Tiền
tuyến của chúng tôi. Tôi đã gọi
điện thoại cho trung tá Đức, chánh văn phòng của tướngTrưởng để nhờ
sắp xếp cuộc gặp gỡ. Dù bận rộn với bao việc, tướng Ngô Quang
Trưởng vẫn dành thì giờ tiếp giáo sư Ngô Đồng và tôị
Ở đây tôi xin mở dấu ngoặc để nói đến mối giao tình thân quý mà
tướng Trưởng đã dành cho chúng tôi từ trước. Giáo sư Ngô Đồng vì
làm viện trưởng đại học Quảng Đà nên thường gần gũi hàng ngày
công việc giao tiếp với tướng Trưởng khi ông còn nắm giữ chức Tư
Lệnh quân khu I kiêm đại biểu chính phủ tại vùng I đóng ở Đà Nẵng.
Rìêng cá nhân tôi khi đổi về giảng dạy tại đại học Huế (70-75) có
dịp trực tiếp gặp gỡ một số sĩ quan cao cấp ở vùng địa đầu giới
tuyến và qua báo chí được biết về tướng Trưởng với rất nhiều huyền
thoại, nhất là từ lúc tướng Trưởng chỉ huy lực lượng tái chiếm
thành cổ Quảng Trị vào mùa hè đỏ lửa 1972. Chìến thắng vang dội này
đã đưa tên tuổi tướng Trưởng lên cao và tướng Trưởng đã trở thành
thần tượng trong lòng các chàng trai thế hệ trên dưới 30 tuổi như
chúng tôi hồi đó.
Khi xuất bản quyển sách “34 năm cầm quyền của chúa Nguyễn Phúc Chu-
(1691-1725)”, vào năm 1971, tôi đã gửi đến tướng Ngô Quang Trưởng bản
đặc biệt in trên giấy trắng tinh với lời đề tặng trân trọng. Mỗi
lần có dịp đi công tác vào Đại học Quảng Đà, tôi đều dành thì giờ
ghé qua bộ tư lệnh thăm tướng Trưởng. Có lần tôi nhờ trung tá Đức
báo lại với trung tướng là tôi trên đường đi Saigon chỉ ghé lại Đà
Nẵng được 2 tiếng rồi phải ra sân bay cho kịp giờ phi cơ cất cánh.
Thế mà trung tướng vẫn dành cho tôi buổi gặp gỡ hết sức thân tình
dù tinh hình quân sự vào dạo đó rất là căng thẳng.
Trong thời gian phong trào chống tham nhũng của L.m. Trần Hữu Thanh lên
cao mà anh em chúng tôi hồi đó được chỉ thị của trung ương (của một
đảng chính trị) phải tích cực tham gia (khoảng 74-75), tôi được cấp
trên ủy thác dò ý xem liệu tướng Trưởng có thể đứng đầu một hội
đồng tướng lãnh đảo chánh ông Thiệu không? Và lần đó tôi đã ngồi
nói chuyện với tướng Trưởng khá lâụ Trong câu chuyện, tôi xin trung
tướng cho biết nhận xét của trung tướng về tình hình quân sư. tại
vùng địa đầu giới tuyến, rồi nhân đó xin được biết ý nghĩ của ông
về tình hình chính trị tại Sàigon khi phong trào chống Tổng thống Thiệu
ngày càng lên cao. Tướng Trưởng tỏ ra hết sức kín đáo, không bộc lộ
thái độ gì rõ rệt đối với giới cầm quyền trung ương, chỉ nói là ông
ngày đêm lo bảo vệ an ninh vùng địa đầu nên ít quan tâm đến các biến
chuyển chính trị. Khi tôi nhin thẳng vào mắt trung tướng và nói: “Thưa
trung tướng, trong chính gìới và nhất là trong lớp thanh niên sinh viên
trẻ tuổi mà tôi được nhiều dịp tiếp xúc, mọi người đều kỳ vọng
trung tướng là người có thể làm chuyển đổi tình hình ngày càng xấu
đi rõ rệt của miền Nam cả về quân sự lẫn chính trị.”
Tướng Ngô Quang Trươ?ng không nói gì. Ông đưa điếu thuốc lên môi rồi
châm lửa đốt. Đôi mắt ông mơ màng nhìn theo khói thuốc tan loãng vào
không trung... Thấy cuộc gặp gỡ cũng đã lâu và nhân dịp trung tá
Đức, chánh văn phòng của ông vào trình công việc, tôi xin phép kiếu
từ. Khi bắt tay, trung tướng nhìn tôi và nói: Tình hình khó khăn và
phức tạp lắm giáo sư ạ. Có những điều mà mình tưởng là có thể
thực hiện được trên chiến trường mà củng đành bó tay, huống hồ
gì... Trung tướng ngừng ở đây không nói tiếp... chúng tôi xiết tay
từ giã.
Bây giờ xin trở lại buổi gặp gỡ giữa trung tướng, giáo sư Ngô Đồng
và tôi vào những ngày mà Đà Nẵng hấp hối và quân đoàn I coi như
sắp sửa tan hàng.
Khi chúng tôi đến bộ tư lệnh quân đoàn khoảng 4 giờ chiều ngày
18-3-75 (?) thi trung tướng đã có mặt để tiếp chúng tôi. G.S. Ngô Đồng liền trình bày ngay dự
định của chúng tôi muốn kêu gọi mọi thành phần dân chúng địa phương
thành lập “Ủy ban nhân dân hậu phương yểm trợ tiền tuyến” để tỏ rõ
sự đoàn kết quân dân một lòng trong việc bảo vệ quê hương. Tướng
Trưởng tỏ ra hết sức xúc động. Tuy nhiên giọng ông buồn buồn: “Tình
hình quân sự bây gìờ đang ngày càng trầm trọng. Việc giữ an ninh cho
vòng đai chung quanh Đà Nẵng bây gìờ chỉ còn được tính từng ngày từng
gìờ”. Trung tướng bày tỏ lòng cảm ơn về ý kiến của G.S. Ngô Đồng
nhưng ông không có đề nghị gì hay thái độ hổ trợ tích cực cho dự định
nàỵ Bây giờ sau hơn 1/4 thế kỷ, đọc lại lời trần tình của Trung
tướng trên báo chi mới hay rằng việc mất Huế và Quân đoàn I cũng
như mất Cao nguyên (vùng II) đã được tổng thống Thiệu quyết định và
thông báo cho tướng Trưởng ngày 13-3-75 khi ông được TT Thiệu triệu
tập về Dinh Độc Lập.
Xin hãy nghe tướng Trươ?ng kể lại:
”Ngày 13-03-1975, tôi được lệnh vào Sàigòn họp, tôi vào đến Sài
Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp Tổng thống
và thủ tướng (Trần Thiện Khiêm) mà thôị Ngoài tôi ra, không có ai
khác. Thường lệ, khi được lệnh về Saigon họp thì đều có đầy đủ mặt
các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần
này, thì chỉ có một minh tôi thôị Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng khi TT
Thiệu cho biết ý định của ông là phải rút bỏ quân đoàn I ngay hôm
nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột
ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôị Thật ra, lúc đó
tình hình tại Huế, Quảng Ngãi và Đà Nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch
tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng
cường sư đoàn Dù cùng với Thủy quân Lục Chiến ra những vùng đó để
lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ những ý kiến cũng như những
dự định của tôi lên tổng thống và thủ tướng nhưng không được chấp
nhận. Lệnh bất di bất dịch là: “Phải rút quân đoàn I càng sớm càng
haỵ”
...Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn và quyết định gọi đại tướng Cao Văn
Viên nhờ xin TT Thiệu cho tôi được dùng mọi cách để giữ Huế và
vùng 1. Làm sao tôi có thể bỏ
Huế và vùng 1 Làm sao tôi bỏ được vùng đất sỏi đá này khi bao
nhiêu chiến hữu của tôi đã đổ máu để gìn giữ? Nhất là trong vụ Mậu Thân, máu anh em
đã đổ nhiềụ
Tổng thống Thiệu rung động chấp thuận cho tôi giữ Huế. Sáng 18-3-75,
tôi ra Huế gặp tướng Lâm Quang Thi (tư lệnh phó quân đoàn I) vốn là
người đang chỉ huy tại Huế. Tôi chỉ thị : Giữ Huế cho thật vững. Chiều
hôm đó về đến Đà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do Đại tướng Cao
Văn Viên thừa lệnh TT yêu cầu tôi “bỏ Huế”. Lệnh đó làm cho tôi
chết lặng ngườị Vì mới buổi sáng nay ở Huế, tôi đã ra lệnh cho
tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột nhiên được lệnh bỏ thì tôi biết ăn
nói làm sao với tướng Thi và anh em binh sĩ đâỵ Nhưng tôi vẫn phải
đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ
Huế cho tướngThị Tướng Thi trả lời ngay: “Ơ? Huế bây giờ xã ấp
phường khóm tốt quá, đâu đâu tình hình cũng tốt cả, mà tại sao anh
bảo tôi bỏ là bỏ làm saỏ”. Tôi buồn bã trả lời, “Tôi biết rồi,
nhưng xin anh bỏ Huế dùm tôi, đó là lệnh trên, không bỏ là không
được.” .Kết quả là tướng Thi thi hành lệnh bỏ Huế, và dồn quân đến
cửa Thuận An để tàu Hải quân chở lính về Đà Nẵng.
Xin xem thêm ở báo Chính Luận ở Seattle số 139 ra ngày 6-8-99 dưới tựa
đề :”Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I” của tướng Ngô Quang Trưởng.
Xin trở lại buổi gặp gỡ cuối cùng tại Bộ tư lệnh Quân đoàn I ngày
18-3-75 (?).. bắt tay tiễn chúng tôi ra khỏi bộ tư lệnh lúc đó khoảng
4 giờ 30, tôi nhìn kỹ tướng Trưởng thấy ông gầy hơn trước rất nhiều,
đôi mắt sâu hơn dù vẫn còn linh động. Khi ra tới cửa, trung tướng
nắm tay tôi và nói nhỏ :”Giáo sư nên đem gia đình vào Sài gòn càng
sớm càng tốt”. Tôi nhìn thẳng vào ông và có cảm tưởng khó gặp lại
vị tướng mà mình đã từng coi như là thần tượng. Và quả thật, từ lần
gặp gỡ đó, cho đến mãi 20 năm sau (tháng 4/95) trong chuyến về thăm
Hoa Thịnh Đốn, sau khi vừa đến Hoa Kỳ tôi mới gặp lại tướng Trưởng
tại tư gia ở thành phố Springfield, Virginiạ
Sau khi liên lạc được với đại tá Đào Mộng Xuân (người rất gần gũi
với tướngTrưởng ở hải ngoại), tôi xin đại tá thu xếp để tôi có dịp
hạnh ngộ với tướngTrưởng sau 20 năm trời cách biệt. Tướng Trưởng
hẹn gặp tại một quán phở (tôi không nhớ tên) ở Hoa Thịnh Đốn vào
buổi trưa. Cùng đi với tôi lúc
đó có giáo sư Nguyễn Lý Tưởng và anh Lê Quyền (chủ tịch ban Đại
diện Cộng đồng Hoa Thịnh Đốn lúc ấy). Chúng tôi gặp lại nhau trong
một hoàn cảnh thật bất ngờ. Tôi nắm chặt tay tướng Trưởng vẫn
khuôn mặt khắc khổ đó vẫn dáng dấp cao và ốm đó, vẫn với đôi mắt
sâu và sáng đó, 20 năm sau vẫn không có gì thay đổi, chỉ có mái tóc
đã ngã màu muối tiêụ Sau khi dùng bữa ăn trưa nhẹ, anh Tưởng và anh
Quyền chào từ giả, còn tôi lên xe về nhà tướng Trưởng ở Springfield
và ở lại cho đến tối mịt mới từ giã ra về.
Có những chuyện gì để nhắc lại, để nói ra sau 2 thập niên xa cách?
Vừa bước vào cổng, chúng tôi gặp ngay bà Ngô Quang Trươ?ng. Bà vẫn
còn giữ lại nét đẹp quý phái của ngày nàọ Tôi cúi đầu chào khi
tướng Trưởng giới thiệụ Bà Trưởng đi vào trong một chốc rồi trở ra
với hai tách cà phê sữa để trên bàn và một dĩa bánh bích quị Bây
giờ tôi mới có thì giờ nói chuyện với tướng Trưởng nhiều hơn. Không
có gì thú vị và quý bằng gặp lại cố nhân, nhất là khi ngồi trước
mặt mình là con người mà 20 năm về trước là một vị tướng với hào
quang sáng chói và nếu miền Nam không mất, biết đâu chừng tướng
Trưởng sẽ đóng vai trò quan trọng trên giòng sử Việt. Quả thật,
biết đâu chừng khi thế hệ trẻ như chúng tôi và bao lớp thanh niên
sinh viên khác ở miền Nam đều coi tướng Trưởng là vị tướng không
những hết sức tài ba mà lại còn rất trong sạch nữạ Tôi khỏi cần
nhắc lại ở đây nhận xét của Đại tướng Mỹ Norman Schwazkopf trong
cuốn sách hồi ký mang tên: “It does not take a hero”, trong đó có đoạn
khá dài dành để ca ngợi thiên tài quân sự của tướng Trưởng khi ông
này còn là đại tá và tướng Norman là thiếu tá cố vấn.
Tướng Trươ?ng vẫn giữ thói quen hút thuốc lá liên miên như 20 năm
trước, khiến tôi trong câu chuyện hàn huyên và bên cốc cà phê bốc
khói mà bên ngoài thì mưa lâm râm như bầu trời ở quê nhà, cũng đã
phì phà điếu thuốc phả khói mông lung. Có điều tôi không thấy bà
Trưởng tỏ dấu phiền hà gì cả khi khói thuốc tràn ngập cả phòng
khách.
Sau những han hỏi về gia đình, con cái, tôi nói với tướng Trưởng là
tôi định viết cuốn sách về chiến tranh VN và hy vọng tướng Trưởng sẽ
là một trong những nhân chứng sống vào giai đoạn sụp đổ của nền Đệ
II Cộng Hòạ Trong câu chuyện, tôi đề nghị tướng Trưởng nên viết lại
hồi ký để giúp cho các nhà sử học sau này có nhiều tư liệụ Tướng
Trưởng cho biết là bè bạn đã thúc đẩy ông làm việc này nhưng ông
vẫn cứ đắn đo mãi vì sự thật khi phải nói ra sẽ mất lòng nhiều
ngườị Và giọng ông trầm xuống buồn buồn: “Trong tâm tư sâu thẳm,
tôi vẫn cảm thấy mình có tội với Tổ quốc, với người dân khi không
bảo vệ được vùng đất mà mình trách nhiệm. Nỗi buồn càng lớn hơn khi
mình vượt thoát ra được nước ngoài trong khi biết bao chiến hữu của
mình phải vào các nhà tù khổ sai, số khác phải bỏ mình trên đường
vượt thoát...” Tôi kính trọng ý nghĩ đầy tinh thần trách nhiệm này
của Trung tướng. Tôi tin rằng lịch sử rất công minh khi luận xét công
tội của những ai thực sự chịu trách nhiệm trong việc sụp đổ của chế
độ Cộng Hòa tại Miền Nam.
Gặp tướng Trưởng lần cuối cùng tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I đóng ở
Đà Nẵng vào tháng 3-75 rồi đến 20 năm sau vào tháng 4-95, tôi mới
có dịp gặp lại vị tướng mà mình hết lòng quý trọng trong chuyến về
thăm Hoa Thịnh Đốn khi tôi vừa mới đến Hoa Kỳ theo diện HO 28 (tháng
11-94). Hai thập niên không là bao so với chiều dài của lịch sử dân
tộc, nhưng 20 năm so với đời người thì đâu phải là ngắn ngủi, nhất
là 20 năm đầy thăng trầm dâu biển của một thân phận tù đầy trên
quê nhà tăm tốị Gặp nhau trên một đất nước xa quê nhà cả một đại
dương mênh mông quả là điều vươ.t quá mong ước của con ngườị Thế mà
điều này trong thực tế, đã trở thành hiện thực.
San Jose, những ngày hồi tưởng lại tháng Tư đen 1975...