NHỚ ĐẾN VIỆT NAM
Lewis Sorley
Tôi rất vinh hạnh được mời nói chuyện tại đây, National Archives, vào ngày này, 30-4-2002, là ngày kỷ niệm Saigon thất thủ và chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam.
Người Mỹ biết rất ít về cuộc chiến này, tuy chỉ vừa kết thúc một phần tư thế kỷ qua. Một phần là vì những người phản chiến, hoặc ít nhất họ không muốn tham gia vào cuộc chiến, những người đó đã mô tả mọi khía cạnh của cuộc chiến dai dẳng càng tệ hại chừng nào càng có lợi cho họ chừng nấy, và đôi khi họ không ngại nói sai sự thật.
Như Jane Fonda chẳng hạn, chỉ vì muốn làm sao mang tù binh Mỹ về nước, cô đã không ngại phỉ báng chế độ miền Nam Việt Nam trước kia và sự chiến đấu gian khổ của họ. Thật là láo khoét và hèn hạ.
Không ai có thể nói hết về cuộc chiến phức tạp tại Việt Nam, nên chúng tôi chỉ hài lòng đưa ra những nét chính yếu.
Sơ Lược:
Trong thời gian quân Mỹ tham chiến ở Việt Nam, nhận thấy có nhiều khác biệt quan trọng trong hai thời kỳ, thời kỳ đầu và thơi kỳ cuối.
Trong thời kỳ đầu (tiếp theo sau một thời gian khá dài cố vấn quân sự cho miền Nam Việt Nam), người Mỹ đã đưa quân bộ vào trực tiếp tham chiến bắt đầu mùa xuân và mùa hạ năm 1965 mãi cho đến sau Tết Mậu Thân thì có thay đổi cấp chỉ huy tối cao quân đội Mỹ tại Việt Nam. Thời kỳ sau là từ đó cho đến khi quân Mỹ rút khỏi Việt Nam vào tháng 3 năm 1973.
Trong giai đoạn đầu, dưới quyền chỉ huy của Tướng William C. Westmoreland, quân đội Mỹ tiến hành gạt quân đội Việt Nam Cộng Hòa qua một bên và nhất định một mình chiến thắng cộng sản bằng chiến tranh tiêu hao. Nghĩa là càng giết được nhiều chừng nào hay chừng ấy. Họ nghĩ như vậy sẽ làm cho địch mất đi tinh thần chiến đấu và chấm dứt xâm lược miền Nam Việt Nam. Người ta đánh giá cuộc chiến bằng con số thương vong của địch đã đếm được (body count) trên chiến trường.
Chiến thuật ông Westmoreland sử dụng được mệnh danh “Search and Destroy”, nghĩa là tìm và tiêu diệt địch. Ông chú trọng đến vùng giáp giới với Cambodia và Lào, sâu trong các vùng rừng núi, xa dân cư, và tung ra đại bộ phận lực lượng Mỹ theo trận địa chiến. Ông đã thành công lớn vì đã tiêu diệt rất nhiều Việt Cộng, một số lớn khủng khiếp, thật sự như vậy, nhưng kết quả mà ông mong ước lại chẳng đạt được. Địch chẳng hề nao núng, chẳng hề giảm cường độ xâm lược miền Nam, trái lại càng lúc càng đưa thêm quân vào chiến trường.
Vì ông chỉ khăng khăng hoàn thành chiến tranh tiêu hao của ông, ông quên đi vấn đề hệ trọng là “bình định” và “cải tiến quân đội VNCH”.
Ông lại càng đòi hỏi chính phủ Mỹ tăng cường quân Mỹ tham chiến, cho nên cao điểm là Mỹ đã có mặt đến 543,400 quân.
Ngay sau Tết Mậu Thân thì thay thế cấp chỉ huy tối cao quân đội Mỹ tại Việt Nam. Tướng Creighton Abrams thay thế Tướng Westmoreland và chiến thuật chiến lược hoàn toàn thay đổi. Theo Tướng Abrams thì mọi việc phải được tiến hành song song:hành quân diệt địch của quân Mỹ, bình định, cải tiến quân đội VNCH và giao phó thêm nhiệm vụ hành quân tiêu diệt địch cho QLVNCH.
Lề lối hành quân cũng thay đổi. Thay vì “Tìm và Diệt”(Search and Destroy) địch thì nay trở thành “Làm Sạch và Chiếm Giữ”(Clear and Hold). Có nghĩa là sau khi ta đuổi được địch rời xa dân chúng trong những vùng trù phú thì phải làm sao bảo vệ được dân chúng, cấm đoán địch trở lại khuấy rối sau này. Vùng kiểm soát của QLVNCH càng lúc càng lớn. Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh cho rằng “sự bành trướng và nâng cấp cho Địa Phương Quân và Nghĩa Quân là đóng góp quan trọng nhất của Mỹ từ trước đến nay”. Tướng Ngô Quang Trưởng cho rằng những lực lượng đó mới là “chỗ tựa chính của guồng máy chiến tranh”, là những ấp đã được bình định, là số dân sống được dưới sự bảo vệ của Chính Phủ VNCH, là những trục giao thông mà ngày đêm đều tùy thuộc vào sự canh giữ của Địa Phương Quân và Nghĩa Quân.
Tính chất điều quân vào những năm sau đó cũng thay đổi hoàn toàn. Ta không tung những lực lượng lớn vào các khu rừng sâu nước độc như trước mà chỉ hành quân với đơn vị nhỏ, phục kích và tuần tiểu, ngày cũng như đêm, và như vậy lùa địch ra khỏi những vùng đông dân cư. Bình định là chính sách cần coi trọng để làm sao địch không còn khủng bố dân chúng, giải tỏa áp lực địch trên xã ấp.
Chiến tích không còn là đếm xác địch. Theo Abrams, “không cần biết bao nhiêu quân địch bị giết, điều đó không quan trọng”. Trong một hội nghị các đại sứ Mỹ trong vùng, ông nói “nhìn tổng thể cuộc chiến, các trận đánh không cho ta gì to lớn”. Chỉ có dành lại được thanh bình cho dân chúng mới là chỉ dấu thành công.
Theo cái nhìn đơn giản của tôi, ngược lại với những gì người khác tin tưởng, cách tiếp cận này mới mang lại thành công đáng kể. Và khi quân Mỹ dần dần rút khỏi chiến trường, chính QLVNCH là thành phần chủ chốt mang lại thành công này.
QLVNCH TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU:
Trong thời gian Mỹ đưa quân tham chiến càng lúc càng nhiều vào Việt Nam thì QLVNCH như thế nào? Đó là thời kỳ tư 1965 cho đến tháng 1-1968, Tết Mậu Thân.
Trong thời kỳ này, QLVNCH bị cho “ra rìa” và được giao cho nhiệm vụ bình định nên không được cấp chỉ huy quân Mỹ coi trọng và cũng thấy không cần phải trang bị thích hợp cho họ, hay cho họ một ưu tiên yểm trợ nào.
Có rất nhiều người Mỹ, kể cả những người Mỹ đã có mặt tại Việt Nam, có cái nhìn không đúng về QLVNCH. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng chiến đấu của họ: họ chỉ được trang bị thô sơ bằng vũ khí lỗi thời đời Thế Chiến Thứ Hai, nhất là khẩu súng trường M-1 quá nặng so với tầm vóc của phần đông lính Việt. Trong khi đó thì Việt Cộng đã dùng AK-47 do Liên Sô hay Trung Cộng chế tạo.
Theo tường trình của Tướng James L. Collin, Jr. thì “Khi Việt Cộng vào năm 1964 đã có súng AK-47 thì QLVNCH vẫn còn trang bị mấy loại súng hồi Thế Chiến II”...Ông còn thêm:”Và khi quân Mỹ tham chiến tại Việt Nam thì vấn đề tân trang cho QLVNCH càng đi vào quên lãng”. Do đó, QLVNCH luôn luôn “lép vế” về hỏa lực khi đối đầu với địch. Tướng Fred Weyand trong chuyến du hành quan sát ở Vùng 2 Chiến Thuật vào năm 1968 nhận xét rằng: “Nếu cứ chần chừ không trang bị thích hợp cho QLVNCH, ít nhất cũng ngang như Việt Cộng, thì đừng nói sao QLVNCH không có hiệu năng chiến đấu.”
Mãi cho đến khi Tướng Abrams đến Việt Nam làm phụ tá cho Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Mỹ vào tháng 5 năm 1967 thì QLVNCH mới được chú ý nhiều hơn. Ngay sau khi nhậm chức, Tướng Abrams đã điện về cho Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ, Tướng Harold K. Johnson, và ông nói rằng: ”Đối với tôi thì thật rõ ràng, Lục Quân Mỹ ở đây và cả bên nhà đều nghĩ rằng chỉ có lính Mỹ đánh nhau và cần yểm trợ lực lượng Mỹ”. Do đó “chẳng những phải xúc tiến việc tiếp vận điền khuyết nhu cầu cho quân Mỹ một cách khẩn cấp và rốt ráo, mà chính QLVNCH, chúng tôi cũng trách nhiệm lo cho họ vì chính họ là thành phần trách nhiệm chính trên chiến trường.” Abrams nói rõ rằng “công tác tham mưu chúng ta phải làm phải bắt đầu từ đây. Và tôi đang theo dõi sát việc này.”
Abrams dành phần lớn thời gian của ông để lo nâng cấp cho QLVNCH, kể cả việc cung cấp súng M-16. Vào kỳ Tết Mậu Thân, ông đã thực hiện được trang bị M-16 cho một số lực lượng Dù và một số đơn vị thiện chiến khác, nhưng không được trang bị tốt như phía địch. Như Tướng Đồng Văn Khuyên mô tả “trong kỳ Tết Mậu Thân, nghe tiếng pháo ròn rã của AK-47 trên vùng trời Saigon, thật đáng thương cho tiếng súng “ập ùng” của Garands và Carbines của quân ta”.
Ấy vậy mà QLVNCH đã đẩy lui được Việt Cộng “với sự ngỡ ngàng của nhiều người Mỹ và sự kinh ngạc của Cộng Sản” theo tường trình của tuần báo Times, “QLVNCH đã đứng vững một cách hào hùng trước mũi dùi tấn công của địch, thật không ai có thể ngờ”. Chẳng ai để ý rằng QLVNCH đã thành công tuy với vũ khí thô sơ đang được trang bị, so với quân địch họ kém rất nhiều về hỏa lực.
Vào tháng 2-1968, Tướng Westmoreland có mời một vị Tướng Lục Quân hồi hưu là Bruce C. Clarke sang thăm Việt Nam. Khi về nước, Tướng Clarke trình lên Tổng Thống Lyndon B. Johnson nhờ Tướng Earle Wheeler chuyển giao. Ông nói QLVNCH đang ở thế hạ phong về trang bị, kể cả vũ khí, và vì thế ảnh hưởng rất lớn trên tinh thần chiến đấu và hiệu năng của họ. “Người lính họ hiểu và cảm nhận được khi họ không được trang bị đàng hoàng.” Sau khi đọc tờ trình, LBJ gọi Clarke trình diện Tòa Bạch Ốc để thảo luận vấn đề vừa tìm thấy. Và ông Clarke nhớ rằng, “chỉ vài tuần sau khi viếng Tòa Bạch Ốc về, thì một nhân viên Tòa Bạch Ốc gọi tôi để cho biết Tổng Thống đã cho lệnh giao 100,000 súng M-16 cho QLVNCH.” Tổng Thống Johnson cũng đã đề cập vấn đề này trong diễn văn của ông đọc ngày 31-3-1968.”Chúng ta phải xúc tiến gắp việc trang bị thích ứng cho QLVNCH để đáp ứng nhu cầu hỏa lực so với địch.” Thật là đúng lúc.
Clarke đi Việt Nam một chuyến nữa vào tháng 8-1969, khi đó ông đã thấy QLVNCH đã được trang bị 713,000 súng M-16 và những quân dụng khác nữa, và đã có nhiều tiến bộ đáng kể từ Tết Mậu Thân đến nay. Bây giờ, chẳng những họ được trang bị súng cá nhân thích hợp, họ còn có súng M-79 phóng lựu, đại liên M-60, và máy vô tuyến AN/PRC-25 mà quân Mỹ đã có từ lâu.
Các sư đoàn lính Mỹ chẳng những được trang bị tốt hơn mà còn có quân số cao hơn các sư đoàn VNCH. Khi còn ở chức Chỉ Huy Phó, Tướng Abrams để thời gian đánh giá đơn vị Mỹ so với đơn vị VNCH. Thì ra, sư đoàn Mỹ có hỏa lực 16 lần hơn một sư đoàn VNCH. Dựa vào đó, Tướng Abrams đòi tăng thêm hỏa lực cho đơn vị VNCH.Trong thời kỳ Mỹ vừa tham chiến, QLVNCH chưa được yểm trợ bằng B-52, chưa có được trực thăng hay vận tải cơ võ trang, pháo binh và phương tiện chuyển vận cần thiết như đơn vị Mỹ. Tuy vậy, trong đợt tấn công lần thứ ba của Việt Cộng sau Tết Mậu Thân, QLVNCH đã giết địch nhiều hơn tất cả quân đồng minh hợp lại. Ông cũng lưu ý rằng QLVNCH tuy họ cũng bị nhiều tử thương (KIA), nhưng tỷ lệ địch chết vẫn cao hơn bạn rất nhiều, nhưng so với Mỹ thì tỷ lệ ấy không cao bằng, là vì QLVNCH không được yểm trợ tốt , về lượng như về phẩm, như lính Mỹ, như pháo binh, không trợ, trực thăng võ trang và trực thăng đổ bộ.
Từ tình huống thiếu trang bị, bị bỏ rơi ngoài cuộc chiến một thời gian, nay nhập cuộc lại với trang bị thích nghi, QLVNCH đã tăng khả năng chiến đấu rất nhiều.
Chính ông Robert McNamara, nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ, đã toàn quyền xử lý việc đưa quân nhập cuộc ở Việt Nam đã viết không đúng về người Việt. Theo William Colby,”Ông (McNamara) không nên phỉ bán người Việt đã từng cố gắng đấu tranh và hy sinh mạng sống của họ để dành lại tự do trước áp lực Cộng Sản, nhưng họ đã tận mắt thấy đồng minh lớn của họ phủi tay ra đi chỉ vì chính sách của McNamara đã thất bại.” Chính nghĩa thuộc về ta. Nhưng dưới thời McNamara, Mỹ đã chiến đấu theo một đường lối sai lầm, và sai lầm đó, phần lớn là do ông McNamara.
QLVNCH TRONG NHỮNG NĂM SAU CÙNG:
Đây là giai đoạn quân Mỹ dần dần rút lui. Sự kiện xảy ra ngay sau Tết Mậu Thân 1968, liền sau khi có thay đổi cấp chỉ huy tối cao quân đội Mỹ, nhưng sự chuyển quân thật sự chỉ bắt đầu vào mùa hè năm sau.
Khi Tướng Creighton Abrams lên nắm quyền chỉ huy Quân Mỹ ở Việt Nam, ông thay đổi bất cứ gì ông có thể làm. Thay vì “Tìm và Diệt” (search and destroy)địch thì nay trở thành “Làm sạch và Chiếm giữ”(clear and hold). Thay vì dùng đại đơn vị thì nay đổi thành rất nhiều đơn vị nhỏ tuần tiễu và phục kích. Thay vì chú trọng “đếm xác” địch thì mục tiêu là bình định và bảo vệ được bao nhiêu thôn ấp.
Abrams chủ trương ba công tác chính, tuy ba nhưng là một:hành quân tiêu diệt địch, bình định, và cải tiến QLVNCH. Cái nào cũng có ưu tiên của nó, không được làm cái này quên cái nọ. Do đó, súng M-16 được trang bị cho toàn thể QLVNCH, và lần này ưu tiên cho lực lượng mà lâu nay bị bỏ quên là Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, vì họ lãnh trách nhiệm “chiếm giữ” trong cái gọi là “Làm sạch và chiếm giữ”
Khi quân ta lấn dần về phía địch thì rất nhiều địch quân bỏ hàng ngũ về với chúng ta. Quan trọng nhất là trong năm 1969, có đế 47, 000 chiêu hồi, và đến 37,000 người vào năm 1970. Nếu một sư đoàn Bắc Việt có 8,689 người thì chỉ trong vòng hai năm đó thôi, địch đã bỏ hàng ngũ tới chín sư đoàn.
Tính như vậy nên người ta đã nghĩ rằng sẽ thắng trận. Tuy chưa chấm dứt chiến tranh nhưng đã thắng trận rồi. Thắng vì lẽ Nam Việt Nam bấy giờ đã có khả năng duy trì độc lập lãnh thổ và tự do hành động, (giống như Tây Đức và Nam Hàn), dưới sự viện trợ của Mỹ. Đó là những gì VNCH đã làm được.
Thành công lớn nhất của VNCH là đánh bật hạ tầng cơ sở Việt Cộng ở xã ấp qua chiến dịch Phượng Hoàng, mà những kẻ chống chiến tranh Việt Nam gọi đó là một chương trình ám sát thường dân. Sự thật hoàn toàn trái hẳn.
Trước tiên, những người bị bắt sống hiểu biết nhiều về hạ tầng cơ sở của Cộng Sản nằm vùng là một nguồn tin tình báo đáng giá. Vì thế phải tìm bắt cho bằng được để khai thác nguồn tin sống ấy. Phái đoàn điều tra của Quốc Hội Mỹ đã được gửi đến tận chỗ để đánh giá chiến dịch(thật là điều hy hữu ngay vào giữa thời kỳ chiến tranh còn nóng hổi). Họ đã chứng kiến thấy được khoảng 15,000 thành phần Việt Cộng nằm vùng bị hóa giải vào năm 1968, trong số đó có khoảng 15 % bị giết, 13% chiêu hồi, và 72 % bị bắt sống. William Colby sau này tiết lộ rằng phần đông họ đều bị giết, nhưng thật sự thì “phần lớn” đều “bị giết trong những trận chiến thường nhật”, do tường trình của các đơn vị chiến đấu đã giết chết họ trên chiến trường.
Trong khi đó, các đơn vị Mỹ lần lượt rút quân khỏi Việt Nam trên đường hồi hương. Đơn vị Việt Nam, ngoài việc thay Mỹ để tiếp nhận trách nhiệm hành quân trong vùng liên hệ, họ còn phải đáp ứng nhu cầu thay đổi đường lối chính sách theo sự đòi hỏi của Tướng Abrams càng lúc càng nhiều hơn ở đơn vị QLVNCH. Từ năm 1968, ông dự trù rằng QLVNCH sẽ thanh toán trọn vẹn cộng phỉ vào năm 1974. Từ đó, họ soạn ra những kế hoạch theo các bước nhảy vọt, rút ngắn thời gian chiến tranh xuống còn một phần ba hay một phần tư, kinh qua các giai đoạn. Trong nhu cầu đốt giai đoạn của Abrams lại nẩy ra thêm “giới hạn hoạt động của Mỹ trong nội vi Việt Nam mà thôi” cũng được xét lại, vì tại sao cộng sản có thể lợi dụng vùng biên giới có lợi cho chúng mà chúng ta lại tự kiềm chế hoạt động của chúng ta. Giống như trong cuộc chiến Cao Ly,đây là một thay đổi lớn về đường lối hành quân của Mỹ.
Sau ba năm vắng bóng ở Việt Nam, Thomas J. Barnes trở lại làm việc trong chương trình bình định vào mùa thu năm 1971 “Tôi rất ngạc nhiên trước ba tiến bộ vượt bực thấy được ở nông thôn. Đó là sự trù phú của nông dân, là thành công vững chắc của Địa Phương Quân và Nghĩa Quân trong vấn đề gìn giữ an ninh, và sự tự túc tự cường của làng xã”, đó là lời ông nói với Tướng Fred Weyand. “Điều đóng góp lớn lao cho công cuộc bình định là sự tái lập một chế độ truyền thống của làng xã Việt Nam với tự lực cánh sinh và tương đối tự trị. “
Vào tháng Giêng năm 1972, một chuyên viên cựu trào của chương trình bình định nông thôn là ông John Paul Vann nói với các bạn ông rằng:”Chúng ta đang làm một công việc có hình thức chiến đấu thấp nhất trong chiến tranh. Bây giờ ta thấy được cảnh trù phú trên khắp nông thông miền Nam Việt Nam, và điều đó không thể chối cãi được. Bây giờ đường sá được thông, cầu được xây lại, xe Honda và xe Lambretta ba bánh chạy cùng đường. Và ông Vann cho rằng đó là thắng lợi lớn của chương trình Việt Hóa Chiến Tranh, ngoài sự tưởng tượng của ông. Đó là công lao hoàn toàn của VNCH”.
Vào tháng ba năm 1972, địch quân đã đưa vào miền Nam khoảng hai mươi sư đoàn nâng cường độ chiến tranh một cách khốc liệt. Dù vậy, theo Douglas Pike, chúng ta đã đánh bại họ nhờ dồn nỗ lực phi pháo vào những điểm tập trung quân của chúng, và nhất là nhờ sự anh dũng và kiên trì của các đơn vị VNCH. Sự thiệt hại về phía Bộ Đội Bắc Việt(NVA) rất quan trọng, kể cảø hệ thống chuyển vận của chúng. Nhưng quan trọng hơn cả là các đơn vị QLVNCH và các lực lượng địa phương của họ có thể đứng vững được và chiến đấu dũng cảm.
Có người cho rằng, sở dĩ QLVNCH đẩy lui được NVA là nhờ có sự yểm trợ của Không Lực Mỹ. Nhưng Abrams lý luận rằng, nếu các đơn vị QLVNCH không chận đứng được NVA của miền Bắc thì Không Lực Hoa Kỳ đâu có dịp thi thố tài năng để chận đứng quân thù, dù với một hỏa lực mười lần lớn hơn thế nữa.
Có người còn gièm pha rằng Miền Nam Việt Nam phải cần đến sự trợ giúp của Mỹ mới có thể sống còn. Tại sao người ta dễ quên rằng phải cần có đến 300,000 quân Mỹ trú đóng tại Tây Đức vì người Đức không thể tự lo liệu cho họ trước lực lượng hùng hậu của Khối Varsaw. Cũng như ta đừng quên rằng ở Nam Hàn phải có 50,000 quân Mỹ để chống Bắc Hàn tràn xuống áp đảo. Và không ai giám bảo rằng Tây Đức hay Nam Hàn quá khôi hài và nhục nhã vì họ còn cần đến viện trợ của Mỹ. Để so sánh thì Việt Nam Cộng Hòa lúc này chỉ cần không yểm mà thôi, chứ không cần đến lực lượng dưới bộ như ở Đông Đức hay Nam Hàn thì đã thấy ta đối xử không công bằng rồi.
Nếu có ai muốn biết QLVNCH chiến đấu thế nào thì cứ hỏi cố vấn của họ, vì các cố vấn đã chính mắt họ trông thấy và chết sống với họ, dù là đơn vị Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Bộ Binh hay Thiết Giáp. Họ chiến đấu với tinh thần trách nhiệm, với quyết tâm cao, và với sự kiên nhẫn hơn ai hết.
QLVNCH đã anh dũng và sẵn sàng hy sinh xương máu cho tổ quốc họ, đã dành lại chiến thắng vẻ vang trong “Mùa Hè Đỏ Lửa”(Easter Offensive, 1972). Tướng Abrams nói với Tổng Thống Thiệu rằng nhờ cấp chỉ huy chiến trường giỏi nên kết quả mới được như vậy. Họ đã tạo được thành tích diệt cộng ngang với trong kỳ Tết Mậu Thân, nhưng lần này họ đã giết rất nhiều quân chính qui Bắc Việt vừa vào Nam. Cũng vì thế sẽ có những thay đổi bất lợi sau này.
Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu:
Tổng Thống Thiệu lãnh đạo quốc gia vào thời điểm cực kỳ khó khăn. Ông phải đối diện với quá nhiều vấn đề cùng một lúc. Nào là phải đương đầu với đại quân xâm lược từ Bắc chuyển vào qui mô, nào là làm sạch nông thôn đang bị Việt Cộng từ trong đánh ra. Mà các lực lượng đó đều được Liên Sô và Trung Cộng tiếp tế hết mình. Nào là xây dựng một cơ sở chính trị từ thượng tầng đến hạ tầng, từ chính phủ Saigon đến cấp xã ở nông thôn. Nào là nâng cấp cho quân đội chính qui và huấn luyện bình định cho Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, trong chương trình thay thế quân đội Mỹ trong khắp các mặt trận. Nào là ổn định lòng dân qua chương trình Người Cày Có Ruộng, tặng không cho 400,000 nông dân có đất để trực canh, gồm tất cả 2.5 triệu acres. Khi có của rồi, nông dân phải có phương tiện võ trang để giữ của của mình, vì thế Nhân Dân Tự Vệ cũng đượng trang bị lên tới 600,000 súng đủ loại.
Người hiểu ông Thiệu nhiều nhất là ông đại sứ Ellsworth Bunker:”Ông Thiệu giải quyết mọi vấn đề một cách khéo léo. Là một người có tiềm lực trí tuệ, từ đầu đã lấy mọi quyết định mà đường lối hiến pháp đã vạch ra, chứ không phải cai trị theo ý của một nhóm tướng lãnh bám sát vào ông để gây ảnh hưởng. Càng lúc ông càng tỏ ra một chính trị gia [Bunker nói thế là có ý khen ngợi], ông đi vào dân để xem tình hình, giám sát kết quả bình định, nghe dân nói, và nhìn dân xem họ muốn gì ở nơi ông.” Bunker nhận xét về ông Thiệu rất kỹ, và để so sánh với kình địch của ông Thiệu về phương diện lãnh đạo chính trị thì Bunker cho rằng:”Tôi nghĩ rằng ông Thiệu khôn ngoan hơn và vững chắc hơn nhiều.”
Ông Thiệu thực tế công nhận với đại sứ Bunker rằng “tình thật thì chúng tôi chưa được nhiều tướng lãnh có khả năng chỉ huy trên một sư đoàn”, trong số đó có cả ông.
Vì cả guồng máy cai trị đất nước dựa vào guồng máy quân sự của QLVNCH, và cả thế lực chính trị miền Nam cũng vậy, nên ông Thiệu gặp nhiều trở ngại khi cần phải thay thế các cấp chỉ huy tham ô hay bất lực ở các chức vụ cao, cho nên ông chỉ hài lòng với điều kiện trung thành với ông là đủ. Từ những năm đầu cầm quyền, ông Thiệu đã nhức đầu với nhu cầu thanh lọc hàng ngũ chỉ huy của ông, vì lẽ quân đội không thể không liên can đến chính trị. Quân đội là chỗ tựa duy nhất của ông Thiệu và cũng là lực lượng đoàn kết nhất của cả nước trong nhiệm vụ chống cộng. Đại sứ Bunker và Tướng Abrams biết rõ điều này, nhưng họ cũng vẫn chỉ cho ông Thiệu biết ai làm được việc, còn ai thuộc thành phần bất lực. Thường thì ông Thiệu đều nghe lời khuyên của họ. Nhưng những cuộc thay đổi cấp chỉ huy tùy thuộc biến đổi chiến sự, nghĩa là nhân cơ hội người nào đó thất trận hay làm sai một việc gì trong guồng máy hành chánh thì mới có biện pháp, bằng không, không có vụ tiến hành đồng loạt các biện pháp khai trừ, vì trên thực tế cũng chẳng có người để thay. Mà muốn đào tạo người thì chắc phải cần thời gian rất dài..
Trước kia, tôi đã có lần khơi màu đến một sự so sánh với cấp lãnh đạo Hoa Kỳ. Chẳng hạn so với Lyndon B. Johnson thì ông Thiệu lương thiện hơn nhiều, còn có thể nói là hữu hiệu hơn là đằng khác. Cùng thời gian đó, người ta cho rằng chính ông Thiệu trong hoàn cảnh thực tế của ông, ông còn có nhiều tự do chọn lựa hơn LBJ ở Hoa Kỳ.
Các giới chức cao cấp Hoa Kỳ công nhận thành tích bình định của ông Thiêu. Tướng Abrams cho rằng “ông Thiệu hiểu nhiều về bình định hơn bất cứ người Việt nào khác” và ông William Colby gọi ông “sĩ quan bình định số một”. Trong quân sử của Bộ Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ có đề cập đến ông Thiệu như một đóng góp lớn cho chương trình bình định nông thôn, nhất là sự đặt để guồng máy cai trị đến hạ tầng cơ sở ở nông thôn.”
Nhiều lần, ông Thiệu đã đưa đại sứ Bunker thăm viếng nông thôn, nơi đó, ông Thiệu nhấn mạnh đến công tác tái lập guồng máy cai trị, tổ chức bầu cử cấp xã ấp, huấn luyện chuyên viên ở địa phương và tiến hành cải cách ruộng đất. Tại Vũng Tàu, 1,400 xã trưởng , đại diện cho ba phần tư số xã của cả miền Nam Việt Nam đã xuyên qua một khóa huấn luyện trong những tháng đầu năm 1969. Khóa nào cũng có mặt ông Thiệu, và tất cả các xã trưởng khi về xã đều có câu đầu môi chót lưỡi “Tổng Thống Thiệu đã nói với tôi như vậy...” Vào cuối năm 1969, tình hình sáng sủa hơn nhiều, đến độ John Paul Vann, người đóng góp rất nhiều trong chương trình bình định nong thôn, đã phát biểu với cử tọa ở Princeton rằng:”Hoa Kỳ đã thắng về quân sự, và nhờ Thiệu, đã thắng luôn về chính trị.”
Trong tháng Tư năm 1968, Tổng Thống Thiệu bắt đầu trang bị cho lực lượng Nhân Dân Tự Vệ, ngược lại với tất cả cố vấn của ông. Ông nói rằng:”nếu Chính Phủ hoàn toàn lệ thuộc sự hỗ trợ của dân, tại sao không giám võ trang cho họ.” Do đó, gần bốn triệu người đã sung vào lực lượng Nhân Dân Tự Vệ, vì họ quá già hoặc quá trẻ để phục vụ trong quân đội. Và 600,000 khẩu súng đã trao cho NDTV để chính họ gìn giữ nông thôn, đánh bọn Cộng Sản xâm lược.
Theo tài liệu có được thì địch cứ kêu gọi nhân dân nổi dậy chống chính quyền tại miền Nam Việt Nam, nhưng trên thực tế chẳng có nhân dân miền Nam nào đứng lên chống chính quyền. Đối với những quan sát viên khách quan một tí thì dù VC đã từng bắt cóc, ám sát, cài bom khủng bố, pháo kích loạn xạ vào dân chúng tại miền Nam Việt Nam, nhưng khó mà mua lòng nhân dân miền Nam.
Vào năm 1971, Tổng Thống Thiệu tái đắc cử ngay trong thời kỳ chiến tranh còn khốc liệt. Nhiều người cho rằng chiến thắng đó chẳng có gì vẻ vang vì ông độc diễn. Nhưng trong kỳ bầu cử đó, tuy địch đã hô hào tẩy chay và đe dọa người dân không cho họ đi bầu, đã có 87.7% cử tri đi bầu, và 91.5% bỏ phiếu cho ông Thiệu.(khoảng 5.5% số phiếu bất hợp lệ). Đó là những tỷ lệ cao nhất trong lịch sử bầu cử tại VN. Chẳng có lý do nào khác hơn là toàn thể dân chúng đã ủng hộ ông Thiệu một nhiệm kỳ khác.
Theo John Paul Vann thì trong tháng Giêng năm 1972, khoảng 95% dân số miền Nam VN đều chọn chính quyền miền Nam hơn bất cứ chính quyền Cộng Sản nào khác.
Trong mùa Phục Sinh 1972, quân đội dưới quyền ông Thiệu đã đẩy lui được sự tấn công ồ ạt theo chiến tranh qui ước từ miền Bắc vào, với sự yểm trợ phi pháo rất hùng mạnh của quân lực Hoa Kỳ.
Nhưng vào mùa xuân 1975 thì cục diện thay đổi quá nhiều tại miền Nam Việt Nam. Chẳng những Quốc Hội Hoa Kỳ cấm đoán sự can thiệp trở lại trên bán đảo Đông Dương của quân đội Mỹ mà còn cắt mọi viện trợ cần thiết mà Hoa Kỳ đã hứa giúp miền Nam Việt Nam.
Rất buồn là ngày nay, có nhiều người miền Nam Việt Nam trách cứ ông Thiệu. Tôi đã nói chuyện nhiều lần với họ tại Hoa Kỳ này. Có một người bạn của tôi tuy rất thông minh và học nhiều hiểu rộng đã làm tôi bất nhẫn khi ông cho rằng Tổng Thống Thiệu lừa dối nhân dân miền Nam VN. Tôi hỏi tại sao. Ông bảo rằng:”Ông Thiệu biết rõ người Mỹ bỏ rơi chúng tôi, nhưng ông lại không cho chúng tôi biết điều đó.”
Tôi thấy điều đó có thể tranh cải. Đại sứ Ellsworth Bunker còn nhớ đã trao cho Tổng Thống Thiệu ba bức thơ từ Tổng Thống Nixon, trong đó “ông đã hứa” sẽ giúp đỡ miền Nam Việt Nam “nếu có trường hợp vi phạm hiệp định của phe bên kia.” Nhưng ông Bunker thêm rằng:”Quốc Hội...đã làm mọi cách để hủy bỏ những hứa hẹn vừa nêu.” Kết quả là “một sự phản bội”. Thật là khó cho tôi có thể hiểu được Tổng Thống Thiệu có thể đoán trước được tình huống có thể xảy ra như vậy về phía Hoa Kỳ.
Ông Thiệu từ chức chỉ có mấy ngày trước khi Saigon thất thủ, mong rằng sự vắng mặt của ông có thể làm dễ dàng hơn cho một cuộc thương lượng sau đó. Trong diễn văn từ biệt của ông, ông tỏ ra chua xót trước kết cuộc như vậy sau nhiều năm đấu tranh gian khổ. Điều đó cho thấy tâm trạng choáng váng của ông, hay của bất cứ ai khác, trước sự khủng hoảng như vậy mà đồng minh Mỹ của mình lại xuây mặt làm ngơ.
Đối với tôi thì ông Nguyễn Văn Thiệu đã anh dũng đương đầu với cuộc chiến dai dẳng và khó khăn, dù muốn dù không, đối với những người từng muốn cho miền Nam Việt Nam được tốt hơn, tất cả đều nên kính trọng ông và biết ơn ông.
Sau Hiệp
Định Paris:
Tình hình sau khi Hiệp Định Paris được ký vào tháng Giêng năm 1973. Trước những điều cho phép quân đội Bắc Việt lưu lại miền Nam sau hiệp định thật là khó chấp nhận, Tổng Thống Nixon nói với Tổng Thống Thiệu rằng, “nếu Bắc Việt Nam vi phạm hiệp định và tiếp tục xâm chiếm miền Nam thì Hoa Kỳ sẽ can thiệp bằng quân sự để trừng trị chúng. Và Nixon tiếp tục, nếu cuộc chiến tiếp diễn mãi thì Hoa Kỳ sẽ tiếp tục chi viện cho miền Nam Việt Nam trên nguyên tắc một-đỗi-một. Và sau cùng, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục chi viện cho miền Nam Việt Nam về mặt tài chánh. Cả ba điều hứa hẹn đó, Hoa Kỳ đã không giữ được điều nào.
Trong khi đó thì miền Bắc Việt Nam nhận viện trợ gắp bội từ các ông chủ của họ. Từ tháng Giêng đến tháng Chín năm 1973, nghĩa là chín tháng ngay sau khi Hiệp Định Paris được ký kết, số lượng quân viện chuyển từ Bắc vào Nam lên bằng bốn lần trong suốt năm trước, đớ là theo một sử liệu phổ biến ở Hà Nội vào năm 1994. Nói vậy chứ cường độ đó có thấm tháp gì so với trong năm 1974 cho đến khi chiến tranh chấm dứt vào tháng Tư năm 1975, vì số lượng quân viện chuyển vào Nam lên đến 2.6 lần so với tất cả đã chi viện vào Nam từ mười ba năm trước đó.
Nếu VNCH đã lẩn tránh không ký vào Hiệp Định Paris, chẳng những Hoa Kỳ cũng không thể hoàn tất được việc này một mình, và cả Quốc Hội Hoa Kỳ cũng chấm dứt tức khắc mọi viện trợ cho VNCH. Khi chấp nhận ký Hiệp Định, VNCH sẽ tiếp tục nhận viện trợ, đồng thời phải chấp nhận sự hiện diện của quân đội Bắc Việt tại miền Nam. Trước sự lựa chọn khó khăn trên, VNCH đã phải chấp nhận giải pháp sau, mà sau này bao nhiêu bất lợi cho VNCH đều xảy ra, địch còn đó mà viện trợ Mỹ thì cũng không còn.
Nhiều người Mỹ không thích nghe người ta nói rằng, những nước theo chế độ chuyên chính như Liên Sô và Trung Cộng đã chứng tỏ là đồng minh đáng tin cậy hơn cả nước Mỹ dân chủ, nhưng điều này đã là sự thật trong trường hợp này. Ông William Tuohy, một người viết về chiến tranh Việt Nam cho tờ Washington Post đã viết như sau:”Thật là khó tin và chắc chắn là khó tha thứ được cho một nước vĩ đại đã để đồng minh của mình rơi vào tay Miền Bắc Việt Nam.”
Đại Tá William LeGro phục vụ tại Phòng Tùy Viên Quân Lực Hoa Kỳ (Defense Attache Office) tại Saigon. Ở vị trí chính xác này, ông đã thấy mọi việc xảy ra trước mắt, và bảo rằng:”Sự giảm xuống còn con số không về viện trợ là nguyên nhân sụp đổ miền Nam Việt Nam. Chúng ta đã làm một việc vô cùng kinh tởm đối với họ.”
Vào giờ phút cuối cùng, ông Tom Polgar phục vụ cho cơ quan CIA tại Saigon đã đánh điện ngắn ngủi về như sau:”Không còn nghi ngờ gì nữa, Miền Nam Việt Nam không thể tồn còn được khi không được chi viện, trong khi đó quân đội Bắc Việt có tiềm lực vũ bão còn được Liên Sô và Trung Cộng tiếp sức điều hòa.”
Người Việt Tỵ Nạn:
Đây là một câu chuyện vĩ đại nhưng rất ít người quan tâm đến.
Những gì xảy ra sau cuộc chiến thật là tàn nhẫn và đáng sợ.Theo ông Seth Mydans trong tờ New York Times, “Có hơn một triệu người miền Nam Việt Nam trốn ra nước ngoài khi chiến tranh chấm dứt. Gần 400,000 người bị lùa vào các trại tập trung cải tạo, có người trong thời gian ngắn, nhưng cũng có người ở tù đến mười bảy năm. Một triệu rưỡi người khác bị đưa đi vùng ‘kinh tế mới’, nơi đó họ sống dở chết dở vì thiếu ăn và nghèo khổ”.
Đại Tá Việt Cộng Phạm Xuân An phát biểu sự bất nhẫn của ông:”té ra chiến thắng của cộng sản là như vậy.” “Đó là những gì người ta thường lên lớp về ‘gỉai phóng hai chục năm, ba chục năm, bốn chục năm trước đây đã sản xuất được cái thứ này, một nước bần cùng, tan nát, lãnh đạo bởi một băng đảng tàn nhẫn và thất học.”
Cựu Đại Tá Bùi Tín cho rằng:”Đã là quá trễ cho thế hệ chúng tôi, thế hệ chiến tranh, chiến thắng, và bội phản. Chúng tôi thắng. Chúng tôi cũng thua.”
Cái giá mà Miền Nam Việt Nam phải trả trong cuộc chiến tự vệ dài đăng đẳng là 275,000 người tử thương. Có đến 465,000 thường dân đã mất mạng vì bị VC thủ tiêu hay chết vì đạn pháo kích của địch vào ngay trung tâm thành phố. Và có đến 935,000 dân thường khác bị thương tật.
Ngoài số cả triệu thuyền nhân đã tới được bến bờ tự do, không biết bao nhiêu người đã chìm sâu dưới đáy biển Tại Việt Nam, có ít nhất 65,000 người khác đã bị hành huyết bởi những người tự xưng đã giải phóng họ. Có đến 250,000 người nữa đã chết trong tù gọi là ‘trung tâm cải tạo’. Hai triệu người rời đất tổ, và có thể phân nửa đã định cư tại Hoa Kỳ. Họ tập trung nhiều nhất ở các tiểu bang California, Texas, Virginia, Minnesota, nhưng cũng có nhiều nơi khác rải rác khắp nước Mỹ. Tại Rock Hill, South Carolina, có một tiệm ăn tên gọi ”Mary Place” do Gua Vu làm chủ, được biết với tên là Mary. Cô và gia đình là những người Việt đầu tiên định cư tại đây, nhờ một vợ chồng già bảo trợ. Họ đã cố gắng thoát khỏi khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam vì chồng của Mary đã dồn 38 người già trẻ bé lớn lên trực thăng của anh ta và bay họ ra khơi, ngoài đó họ được thủy thủ Mỹ cứu họ. Bây giờ, bà Vũ coi tiệm ăn này trong khi chồng bà làm trong một hãng IBM. Mary Vũ nói:”Chúng tôi làm việc cực nhọc, nhưng không hề chi. Chúng tôi giúp đỡ gia đình còn ở Việt Nam để các trẻ nhỏ đi học được. Chúng tôi rất hạnh phúc ở đây. Chúng tôi rất thích nơi này.”
Một người tên Mary khác, Mary Nguyễn, hiện đang sống tại New Orleans, nơi đó bà sống với bảy đứa con và đi dạy học. Bà còn nhớ lại ngày khủng khiếp nhất của bà là nhìn đứa con mới hai tháng của bà chết trên biển khi bà vượt biên. Bà bảo:”Tôi rời Việt Nam vì muốn có tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, và vì tôi muốn các con tôi có tương lai tốt đẹp. Tôi rất thích New Orleans, nơi đây tôi được một công việc làm mà tôi thích. Tôi đã có gia đình. Tôi thật tình cảm thấy ấm cúng. Tôi có thể tiếp tục học hành ở đây, và không ai ép uổng chúng tôi phải rời khỏi chỗ này.”
Gần đây, Seth Mydans đã viếng thăm “Little Saigon” tại thành phố Westminster, California, một nơi có khoảng 3,000 dịch vụ rất náo nhiệt và trù phú để viết một bài cho tờ The New York Times. Ông đã nói rằng:”Nếu như Hoa Kỳ chiến thắng hồi năm 1975 thì Saigon ngày nay sẽ ra thế nào nhỉ” và ông thêm “Không có dân tộc nào năng nổ như người Việt Nam tỵ nạn.” Và cũng tại Westminster này, khi Thượng Nghị Sĩ McCain tranh cử đã cảm ơn người Việt Tỵ Nạn về tất cả những gì họ đã làm cho đất nước Hoa Kỳ.
Người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ không quên thân nhân của họ còn sống ở Việt Nam. Hằng năm họ gửi về Việt Nam khoảng 2 tỷ dollars để giúp đỡ gia đình họ. Trong khi đó thì người ta biết được dân chúng ở thành phố Hồ Chí Minh có 89% cho rằng Bill Gates là thần tượng của họ. Còn Hồ Chí Minh chỉ đứng vào hạng nhì, với tỷ lệ 39%. Do đó, nhà cầm quyền Việt Nam đã cho tịch thu ngay tờ báo từ các sạp báo vì tờ báo thăm dò dư luận đó đã đăng tin vừa kể.
Dù sang Mỹ định cư đã lâu rồi, nhưng đối với người Việt tỵ nạn, u uất về chiến tranh vẫn tồn tại, thật là khó quên đi được. Nhưng dù sao, dù có nhớ quê hương đến đâu đi nữa thì đổi lại, sự tự do ở Mỹ vẫn sáng giá hơn nhiều.
Nhờ sự có mặt của người Việt tỵ nạn trên đất nước Hoa Kỳ, họ đã làm cho xứ sở này càng giàu mạnh hơn, về vật chất cũng như trong lãnh vực văn hóa.
Kết Luận:
Tôi thật tình cho rằng người Việt và đồng minh người Mỹ của họ đã chiến đấu anh dũng trong cuộc chiến tại Việt Nam vì lý tưởng cao quý, và họ đã gần đạt đến đích là gìn giữ được sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của họ. Có một ký giả cho rằng Tướng Creighton Abrams rất đáng được tuyên dương về những gì ông đã làm được ở Việt Nam. Nhưng người con trai của Tướng Abrams lại cho rằng chính những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa mới đáng được tuyên dương hơn ai hết.