QUÊ NGHÈO

 

Từ sau 30-4-75, dân chúng đổ xô từ thành thị về nông thôn để mưu cầu một cuộc sống thanh đạm, an b́nh.  Trước kia, v́ nông thôn là nơi thường xảy ra chiến tranh, ban ngày thuộc phe quốc gia, tối lại th́ cộng sản nổi lên làm chủ.  Khổ cho người dân phải chịu thuế hai bên.  Sau khi miền Nam bị cưỡng chiếm, cựu quân nhân trong QLVNCH rời bỏ quân ngủ.  Trừ một số ít có gia đ́nh ở các thành phố, phần đông trở lại quê nhà, góp sức với gia đ́nh chăm lo ruộng đất sống qua ngày.  Phải nói là sau những năm đầu, dân tập trung về nông thôn, dân đi vùng kinh tế mới.  Tự nguyện hay bị ép buộc, dân chúng rời các thành phố để trở thành nông dân bất đắc dĩ, chân lấm tay bùn.  Do đó, mực độ dân số ở nông thôn gia tăng đáng kể.

 

Theo chế độ mới này, ruộng đất đều vô chủ, nghĩa là người dân không c̣n làm chủ ruộng đất do ông cha để lại, mà đảng đă quản lư hoàn toàn.  Nông dân phải xin khai thác đất đai tùy thuộc vào khả năng lao động từng gia đ́nh.  Trong những vùng đất rộng người thưa, như vùng đồng bằng sông Cửu Long, một công lao động được cấp cho 1,500 m2, thường gọi là một công rưỡi, là nhiều nhất.  Các nơi khác đông dân hơn có thể chỉ hai người một công.  Do đó, thửa ruộng chỉ c̣n một miếng nhỏ.  Thêm vào đó, phải có bờ ruộng làm ranh, nên diện tích canh tác càng hẹp lại.  Rồi c̣n mất một phần đất nhỏ để che cái cḥi mà ở.  Xung quanh nhà c̣n có chuồng gà, chuồng lợn.  Có “bà mẹ chiến sĩ” năm xưa than rằng, dưới chế độ Thiệu, qua luật “Người Cày Có Ruộng”, bà đă được trực canh ba mẫu ruộng (30,000m2) mới có thể lo cơm nước cho “du kích” ăn dầm nằm dề ở nhà bà.  Nay th́ chỉ c̣n một công rưỡi (1,500m2).  “Cách mạng” thành công, bà lại mất đất.

  Người dân muốn trồng ǵ cũng được, đất rộng th́ trồng lúa, đất hẹp th́ làm rẫy mau ăn hơn.  Làm rẫy th́ phải lên líp, khai mương để có nước tưới rau cải.  Đường nước vào ruộng rẫy thường do dân tự túc lo lịu, nhiều khi phải tranh chấp triền miên, hết xin xỏ đến căi cọ, làm sao có nước tưới, v́ nguồn nước là sự sống của nông dân.  Một miếng ruộng sát bên bờ rạch, tưởng rằng lúc nào cũng có nước, nhưng đó là một vấn đề lớn v́ nước không giữ được khi nước rút xuống thấp ở rạch th́ nước ở ruộng cũng bị ṛ rĩ đi mất, trong khi mực nước trên ruộng phải được giữ cao mà nuôi lúa.  Những miếng ở xa sông rạch th́ phải nhờ nguồn nước lấy từ sông rạch theo các mương xuyên qua đất bao nhiêu người khác.  Ai cũng muốn giữ mực nước cho lô đất của ḿnh.  Nhiều chỗ nước lên chưa đủ khi nước lớn để kịp bơm lên ruộng th́ nước đă rút xuống rồi.  Thật là cái khó cứ triền miên, không sao giải quyết được.  Miền Nam có hai mùa mưa nắng.  Trong sáu tháng nắng th́ lúa trúng nhờ có nắng nên lúa trổ tốt.  Nên vấn đề nguồn nước hết sức quan trọng mới có năng suất.  Trong sáu tháng mưa, đồng ruộng thường ngập lụt v́ không có chỗ thoát nước.  Ruộng lúa bị ngập th́ chịu đựng nỗi vài tuần.  C̣n rẫy mà bị ngập th́ trong vài ngày đă thấy vất cả.  Nội cái khổ v́ nước cũng đủ thấy cuộc sống nông thôn quá nhiều bất trắc.  Trồng lúa hay làm rẫy chiếm đa số công việc đồng áng của nông dân nghèo sau 1975.

  Số người có vườn th́ chỉ c̣n một số rất ít.  Vườn cây ăn trái cũng v́ sự chia manh mún thành thử không có sản xuất qui mô được.  Ví dụ, nếu có một chiếc tàu cập bến để chở chuối xuất cảng, th́ những lái buôn cho người đi gom góp chuối từ các làng xóm gồng gánh về.  Khi tập trung đủ số chuối th́ chuối đă chín hết rồi, không c̣n giá trị xuất cảng được.  Do đó, vườn tược miền Nam sau này chỉ có thể cung cấp trái cây cho sự tiêu thụ trong địa phương của ḿnh, chứ không c̣n khả năng xuất cảng.  Chỉ c̣n các đồn điền trà, cà phê có tầm vóc qui mô lớn, nay đă trở thành quốc doanh.

 Tóm lại, t́nh trạng chia cắt đất đai thành từng mănh vụn không thích hợp cho việc tăng năng xuất nông nghiệp.  T́nh trạng này càng ngày càng gia trọng, v́ dân số nông thôn tăng nhanh v́ ít học, v́ kế hoạch hóa gia đ́nh không hữu hiệu.

 

Các mô h́nh chăn nuôi kết hợp với trồng trọt chỉ là những thí nghiệm lẻ tẻ, hoặc do công của một số người nghiên cứu thực hiện riêng chứ không phổ biến cùng khắp.  Lại nữa, những người thành công được cũng phải nhờ một số phương tiện mà không phải ai ai cũng có được.  Vốn đầu tư, phân bón, thực phẩm chăn nuôi, giống tốt đều là những thứ cần phải được sự giúp đỡ của chính quyền.  Ngoài ra, chuyên viên nông nghiệp không c̣n xuống tới nông thôn mà hoạt động như trước kia, do đó, người dân vốn đă dốt nát, không biết đọc các báo chí về nông nghiệp mà cũng không có ai mách bảo.  Trong chế độ trước, mỗi xă đều có một ủy viên canh nông cố vấn chuyên môn cho xă và là mối liên lạc thường xuyên từ cấp bộ ở trung ương xuống đến xă.  Trong một số xă c̣n có một trường trung học cộng đồng để người dân dù chỉ học lên đến lớp chín trung học cũng hiểu được về căn bản làm nghề nông của ḿnh.  Trái lại, ngày nay, chỉ học đến lớp ba tiểu học, con em chúng ta đă phải bỏ học, ở nhà giúp gia đ́nh trong việc đồng áng, v́ đi học phải trả tiền, mà ở nhà th́ cần sức lao động.  Do đó, dần dần dân nông thôn càng lúc càng thiếu ăn thiếu mặc, càng dốt nát lạc hậu, rất phù hợp với chính sách ngu dân của nhà nước cộng sản.

 

Khuynh hướng ngày nay, sau trên hai mươi năm về quê sinh sống, người dân quê lại có xu hướng ra thành để mưu sinh.  Thoát ly nông thôn không phải là ư muốn của nông dân, nhưng đến đâu có việc làm để kiếm tiền th́ ai cũng không ngại.  Làm thuê làm mướn, làm đĩ làm điếm, hay cùng qúa chắc cũng đến làm bậy làm càng, ăn cướp ăn trộm.  Do đó, mối nguy của thành phố bây giờ là bị nông dân tràn ngập, càng lúc càng đông hơn.  Tệ nạn xă hội cũng sẽ tăng theo: x́ ke ma túy, bệnh liệt kháng, phong t́nh, chữa hoan rồi phá thai, rượu chè, cờ bạc...Viễn ảnh thật đen tối!

 

Nước Việt Nam từ Bắc chí Nam là một nước nông nghiệp.  Dân nông thôn giàu th́ nước giàu.  Do đó, phải ưu tiên xây dựng nông thôn.  Phải mang ánh sáng văn minh về nông thôn.  Phải mang công nghiệp nhẹ và chế biến thực phẩm về nông thôn để giữ dân lại nông thôn thay v́ để dân tấn công vào thành phố.  Đó là những việc phát triển xă hội mà một nước tự cho ḿnh là “xă hội chủ nghĩa” phải dốc tâm làm cho bằng được.

 

 

MÔ H̀NH NÔNG THÔN MỚI

 

Một mô h́nh nông thôn mới thiết kế từ trung ương, và chọn nơi chốn thích hợp thu hút dân chúng mà không cần phải làm xáo trộn cuộc sống những nơi khác.  Tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, có hai nơi có thể chọn là Đồng Tháp Mười và Đồng Cà Mau, đất rộng, người thưa, chưa được khai thác qui mô, và c̣n bị thiên tai tàn phá khi bị lũ lụt.  V́ đất rộng người thưa, nên mọi cải cách ruộng đất dễ dàng hơn.  Trong đường hướng qui hoạch xóa bỏ được những trở ngại nêu ở phần trên, cần phải thực hiện những yếu tố sau đây:

 

  1. Phân lô đất để trồng trọt, chăn nuôi, cơ giới nông nghiệp, chế biến thực phẩm, tiện ích công cộng:

a.      Đất dùng để trồng trọt:  Đất dùng để trồng trọt bất cứ loại cây thích hợp nào trên vùng đất liên hệ phải có diện tích tối thiểu là hai hec-ta (20,000m2) h́nh chữ nhật mà cạnh nhỏ phải giáp giới với sông rạch để dẫn nước tưới tiêu vào ruộng.  Kinh rạch song song với nhau, có khoảng cách bằng hai chiều dài của thửa ruộng.  Nhà cửa nông dân phụ trách trồng trọt trên ruộng liên hệ chỉ được cất ở cạnh gần sông rạch và không chiếm đất ruộng nhiều hơn cần thiết để sinh hoạt.  Được như vậy, chúng ta sẽ tiết kiệm được đất đai trồng trọt, và mỗi thửa ruộng đều có nước tưới tiêu.  Ruộng sẽ đủ to lớn để sử dụng cơ giới nông nghiệp mà theo qui hoạch có thể tổ chức cho cả xă với người chuyên môn được huấn luyện phù hợp.  Nếu được tổ chức như vậy th́ mỗi lô đất chỉ cần một gia đ́nh phụ trách, không quá mười công lao động.

b.      Đất dùng để chăn nuôi:  Tùy thuộc loại gia súc thích hợp trong vùng để có thể kết hợp chăn nuôi và loại cây trồng.  Khi trồng lúa là chính th́ nên nuôi gà vịt, tôm cá, heo để dùng phân bón ruộng và có cám nuôi gia súc.  Khu vực chăn nuôi không được để gần nơi cư ngụ cho hạp vệ sinh chung.  Chất thải của gia súc đều được biến thành phân bón thay v́ thải xuống đường nước sông rạch gây ô nhiểm cho đời sống nông dân.

c.      Đất dùng cho khu công nghiệp:  Một khu dành riêng cho cơ giớ́ nông nghiệp như các máy bom nước, máy cày, máy gặt hay máy thu hoạch khác, máy xấy lúa, máy chà lúa thành gạo, máy phát điện...

d.      Đất dùng cho khu chế biến thực phẩm:  Một khu dành riêng cho các máy chế biến thực phẩm, như biến chế chất bột như hủ tiếu khô, bún, phở ăn liền, như làm đồ hộp làm từ heo, gà, cá tôm, trái cây, dưa chua...

e.      Đất dùng cho cơ sở, trường học, y tế, cửa hàng, khu giải trí và chung cư.

f.        Đất dùng cho khu lưu thông và phân phối:  Gồm các bến xe, bến phà, ghe gắn máy, xà lang rất cần cho những vùng śnh lầy thiếu đường sá lưu thông nhưng rất nhiều sông rạch.  Thậm chí các nông cơ phải được vận chuyển từ hợp tác xă đến từng thửa ruộng bằng xà lang, hoặc chuyên chở lúa vừa thu hoạch đến nơi khác nhanh chóng để xấy hay chà cho kịp lúc, nhất là trong những vùng chưa có đủ máy xấy, máy chà khi thu hoạch lúa vào mùa mưa dầm (vụ hè thu).

 

  1. Hợp tác xă trồng trọt.  Là một tổ chức tư nhân do dân bầu ra để quản lư, điều hợp, mua bán vật tư, cố vấn kỹ thuật trồng trọt, làm chương lịch trồng trọt từ đầu đến cuối cho từng thửa ruộng, cung cấp dịch vụ tài chính như quỹ tiết kiệm và cho vay vốn...Phụ trách kế hoạch trồng trọt cho toàn xă, dự trù chương lịch trồng trọt, giống, thuốc sâu rầy và phân bón, điều động công nhân nông nghiệp lấy từ lao động từng thửa ruộng để vần công khi xuống giống, khi thu hoạch, và những lúc đ̣i hỏi nhiều công để thực hiện công tác, điều động nông cơ...Phối hợp với các tổ chức khác của xă để hoàn thành kế hoạch trồng trọt của ḿnh.
  2. Hợp tác xă chăn nuôi.  Cũng là một tổ chức do dân bầu ra, để quản lư, điều hợp, mua bán vật tư, cố vấn kỹ thuật cho ngành chăn nuôi cả xă, sử dụng một số công nhân chăn nuôi được đào tạo kỹ càng, sản xuất heo gà, ḅ, cá, kết hợp chặt chẽ với trồng trọt và biến chế thực phẩm trong khu vực.
  3. Hợp tác xă công nghiệp chế biến và thủ công nghiệp:  Tùy theo số vốn đầu tư để phát triển công nghiệp chế biến và thủ công nghiệp, cần thúc đẫy ngành nghề cho từng xă một, một phần giữ được nông dân tha thiết với ruộng đồng nơi chôn nhau cắt rún của ḿnh, phần khác tăng thêm lợi tức của người dân khi trong vụ mùa(nhất là những nơi đất thấp, chỉ trồng lúa sáu tháng) c̣n nhiều thời gian rảnh rang.  Ở các nước đă tiến bộ như Nhật Bản chẳng hạn, người ta c̣n có thể tung ra công việc làm xuống cấp cơ sở, như ráp máy điện tử từng những bộ phận rời nhỏ có thể tổ chức đơn giản huấn luyện và lập thành tổ hợp ở cấp cơ sở.  Góp gió thành băo, cơ sở góp một phần đáng kể cho những xí nghiệp lớn ở cấp cao hơn mà khỏi phải phí nhiều vốn đầu tư hơn.  May mặc là một thí dụ.  Hay hàn đồ điện hay điện tử.  Điều cần là phải thực hiện cho bằng được điện khí hóa nông thôn bằng những loại máy phát điện (nhiệt điện)nhỏ ở các địa phương và hệ thống giây chuyển điện cho an toàn (tránh đừng để tự phát, tự lo liệu và ăn cắp điện như hiện đang xăy ra ở nhiều nơi).

 

Mô h́nh nông thôn mới này chỉ là một mơ ước của một người dân nông thôn. V́ chỉ là một khái niệm, chưa dựa vào dữ kiện thực tế ở từng nơi.  Chính quyền cần đưa ra một nhóm nghiên cứu có đầy đủ bộ phận chuyên viên cần thiết để viết ra chi tiết một kế hoạch cụ thể.  Sau đó tham khảo thêm với dân chúng địa phương, trước để làm cho dân hiểu được đường hướng của trung ương, sau là lấy ư kiến thiết thực của dân chúng trong địa bàn liên hệ để tu sữa kế hoạch cho sát với nhu cầu địa phương.  Được như vậy, khi đưa kế hoạch ra thực thi, chính người dân là những người hoàn thành kế hoạch, và chừng đó nhà nước chỉ đống vai cố vấn, theo dơi, phối hợp cung cấp đúng lúc các nguồn tài nguyên cần thiết.

 

Chọn một thí điểm để tiến hành một kế hoạch cho toàn vùng rộng lớn.  Sau khi hoàn thành một xă có kết quả tốt rồi mới tiến hành phân lô cho một xă khác.  Và cứ thế tiếp tục, xă sau học tập kinh nghiệm từ xă trước mà làm tốt đẹp hơn.  Công việc thiết kế và thực hiện kế hoạch c̣n phải được nối tiếp bằng công tác thường xuyên bảo toàn cơ sở đă thành lập, và theo dơi lâu dài sự tiến triển sinh hoạt các ngành trong xă để sớm rút tỉa kinh nghiệm và giải quyết sớm nhất mọi vấn đề, từ kinh tế tài chánh cho đến xă hội để tránh “làm lấy có”, “đầu voi đuôi chuột”.  Chính quyền chỉ cần tham gia giúp đỡ trong giai đoạn h́nh thành một xă mẫu.  Sau khi mọi việc đều suông sẻ, chính quyền phải rút tay và trao lại quyền tự trị cho nhân dân, từ tổ chức chính quyền xă cho đến mọi công việc sinh sống và phát triển.  Giống như trong một đại gia đ́nh, người cha chỉ giúp đỡ cho đứa con dọn nhà ra riêng, sau đó để cho con đi theo đường hướng ḿnh thích.  Dù sao, công sức thực hiện hoàn toàn do dân, bỏ công bỏ của để hoàn thành kế hoạch.  Nhà nước chỉ cấp đất và hướng dẫn kỹ thuật, và nếu cần cho vay tiền bạc.

 

Nếu kế hoạch xây dựng nông thôn mới thành công th́ sẽ thu hút dân trở về nông thôn mà không cần t́m cách xa rời nông thôn để gây xáo trộn cuộc sống ở các thành thị đă quá chật hẹp và thiếu tiện nghi.  Các nơi khác, các xă đang sống vô tổ chức sẽ nh́n theo mô thức này mà tự điều chỉnh dần dần, nhằm mục đích tăng thêm diện tích trồng trọt, xây dựng cơ sở cho công nghiệp chế biến và thủ công nghiệp để nâng cao mức sống nhân dân.

 

Muốn mở rộng tự do phát triển, nhà nước không thể quá khắc khe trong việc đ̣i hỏi phải nắm giữ đường hướng giáo dục và huấn luyện chuyên môn.  Giáo dục căn bản có tính cách khai hóa con người mà thôi, không thể phù hợp với yêu cầu chuyên môn của các xí nghiệp.  Ví dụ như trong ngành điện toán đang thời tại Mỹ, các hăng tư nhân có sáng kiến thi đua nhanh chóng để tồn tại nên không ngừng phát minh kỹ thuật chuyên biệt của ḿnh mà chính quyền không sao theo kịp.  Do đó, xí nghiệp chỉ nhận đào tạo chuyên viên riêng cho họ, lấy nhân viên mới ra trường từ các trường căn bản.  Nói rộng ra, từ cao đến thấp, xí nghiệp đều có thể đào tạo chuyên viên riêng cho ḿnh phù hợp với nhu cầu của họ.  Nếu các trường công không cung cấp kịp chuyên viên cấp căn bản, như các trường trung học kỹ thuật chẳng hạn, th́ xí nghiệp sẽ cung cấp huấn luyện từ dễ tới khó theo kiểu vừa làm vừa học.  Ví dụ trong ngành ráp đồ điện và điện toán, nước Nhật có thể mang công việc làm đến từng nhà sau khi chỉ tốn một khóa huấn luyện vài tuần lễ.  Ai cũng muốn học nghề, nhất là thấy có sự bảo đảm có làm có ăn, lại thêm thích thú v́ được biết thêm một nghề mới mẻ, dễ học.  Tư nhân hóa giáo dục trong lúc ngân sách quốc gia đang yếu kém là việc cần làm và đáng được phát triển, để giúp cho dân vừa làm vừa học mà không bỏ bê công việc đồng áng.  Ngày qua ngày, nông dân sẽ có thêm kiến thức và hiếu học hơn.

 

Đă là một nông dân nghèo, ai cũng muốn t́m cho ḿnh một lối thoát.  Tiến vào thành phố để kiếm sống chỉ là phiêu lưu đầy bất trắc, nhất là đối với những người từ nhỏ đă dốt nát, kém ăn học.  Không nên bắt họ phải t́m một hướng đi nguy hiểm để thoát ra cảnh nghèo, v́ chính họ sẽ phá hoại thêm các thành phố đang trù phú biến thành những khu ổ chuột mà ta gọi là cặn bă xă hội.  Khi mang ánh sáng văn minh về nông thôn, người dân nông thôn không cần phải thay đổi lối sống mà chỉ cần học thêm những điều mới mẻ.   Khác hơn khi bắt họ ra thành, họ vừa phải thích nghi với cuộc sống thành thị mà họ chưa quen, họ c̣n phải học thêm cách mưu sinh mà họ hoàn toàn không biết ǵ th́ thật là tội cho họ.