|
NHỮNG GỈNG CHỮ Ô
NHỤC
Cảm khái đêm 30.
Chu Tất Tiến
Có những gịng
chữ chở chuyên những rạng rỡ. Những
buồn vui tở mở, những ngây thơ. Câu hờn
ghen, dịu ngọt, ngóng chờ. Và tiếng nói tự trái tim
bùng vỡ.
Cũng có câu tưởng b́nh thường nhưng
kinh hăi. Đập vào tim như một mũi tên bay.
“Nước mất rồi sao?”, ta đứng ngây say.
“Mất Nước rồi!”, h́nh như cả thế gian
bốc cháy.
Ta soi gương, nh́n mặt ta rạn vỡ. Nh́n trái
tim nhỏ máu, thẫn thờ. Nh́n tay chân thừa thăi,
ngẩn ngơ. Ta thấy máu chẩy ra không c̣n đỏ.
Có gịng chữ lại làm ta chới với.
Những câu văn ô nhục đến muôn đời.
“Đất Nước bị cắt dâng cho Trung Cộng!”
Trời ơi! Ta muốn hét, nhưng không nghe tiếng nói.
Bởi tuy chỉ có một câu rất ngắn.
Nhưng trời Nam, dân tộc đă bàng hoàng. Bốn
ngàn năm, nay chỉ lại vài hàng. Bao chiến sĩ, nay
chỉ c̣n xương trắng.
Đă hàng ngàn, hàng vạn thây dũng sĩ. Xung phong
lên, dùng xác lấp đường đi. Đă hàng ngàn, hàng
vạn vó ngựa phi. Tiếng đất vỡ, dội lên
mùi tử khí.
Đă hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn năm chiến
sử. Chữ “oanh oanh, liệt liệt” vẫn ngờ
ngờ. Hàng triệu tâm hồn nh́n về phương
Bắc, sững sờ. Ải Nam Quan đó, ôi, hồn sông
núi đó!
Câu “giang sơn ta khởi tự Ải Nam Quan”,
vẫn luôn trên miệng trẻ vang vang. Quốc Âm Giáo Khoa
Thư vẫn ngọt, vẫn dịu dàng. Nay bỗng
dứt, toàn dân ta choáng váng.
Những chữ ô nhục kia, trời ơi! ai đă
tạo? Không c̣n hy vọng ǵ tẩy xóa được sao?
Trời c̣n cao? hay đất đă nghiêng chao? Ta c̣n là dân
Việt hay chỉ là giá áo?
Nghiêng ly ruợu, không, phải nốc b́nh cho cạn.
Cho nước mắt ta lẫn với ḍng ruợu tràn. Ta,
hề, chiến sĩ , ngựa chết, gươm
cùn. Nước mất, nhà tan, c̣n trái tim vỡ
vụn.
Chục năm, hề, cuộc chiến tàn
Cung tên gẫy nát, máu loang chân trời
Giữa đường đứng khóc khơi khơi
Chữ kia ô nhục, ngàn đời chưa phai...
Chu
Tất Tiến.