THƠ CỦA LÍNH
Việt Nam, ngày... tháng... năm.....
Các Anh kính quý,
Thật tình tôi không biết phải xưng hô với các Anh thế nào cho phải
đạo, bởi lẽ dù sao đi nữa, các Anh cũng đã có một thời là thương
cấp, là cấp chỉ huy của chúng tôi.
Giờ đây, cho dù thời gian có vô tình lặng lẽ đi qua ngót 27
năm, trong lòng chúng tôi vẫn khắc ghi hằng khối những kỹ niệm của
một thời binh lửa, thời mà chúng tôi và các Anh còn xông pha ở
giửa lằn tên mủi đạn, thời mà chúng ta còn được vinh dự cầm súng
bảo vệ quê hương. Những trận chiến càng về cuối của năm 75 càng
khốc liệt, chúng tôi đã không nao núng, không rời hàng ngủ mà càng
sát cánh hơn với các Anh, không màng nguy hiễm, không sợ cái chết
lúc nào cũng sẵn sàng đến với người lính trong thời lửa đạn. Quả
tình lúc ấy trong lòng chúng tôi khâm phục các Anh nhiều lắm, các
Anh là những người có ăn học, được huấn luyện những kiến thức quân
sự để trở thành những sĩ quan chỉ huy chiến trường, chỉ huy chúng tôi.
Lòng dũng cảm cùng với kiến thức của các Anh đã phát sinh từ trong
thâm tâm của chúng tôi một thứ tình đồng đi trong thời chinh chiến, mặc
dù kỹ luật quân đi đã bắt buộc chúng tôi luôn luôn chỉ biết tuân
lệnh của các Anh, nhưng hình như trong lòng chúng tôi không hề than
oán mà còn cảm thấy thật vui mỗi khi thực hiện được một việc gì cho
đơn vị, hay nói đúng hơn là cho các Anh. Chúng tôi là những người ít
học, nên với những suy nghĩ thật giản đơn lúc bấy giờ : Làm vui lòng
các Anh chính là chúng tôi đã làm tròn nợ nước, nhiều lúc tuân
hành và thực hiện mệnh lệnh Xung phong vào mục tiêu, ôm súng băng
mình qua tuyến, chúng tôi chỉ với hai điều tâm niệm : Thắng trận nầy
thật nhanh và bảo vệ cho bằng được... các Anh.
Chùng tôi chưa có ý niệm về quê hương dân tộc, chúng tôi thật tình
lúc bấy giờ cũng chưa hiểu được thế nào là lòng yêu nước. Chính
các Anh đã dạy cho chúng tôi những điều trọng đại ấy và với đầu
óc của chúng tôi, chúng tôi chỉ hiểu nôm na : Bổn phận chúng tôi
là những thanh niên Việt Nam, chúng tôi phải cầm súng bảo vệ Tổ
quốc, chấp nhận tất cả những hy sinh gian khổ cùng những hiễm nguy
mà chiến trường đã dành riêng cho người lính. Va... chúng tôi đã cảm
thấy vô cùng hãnh diện với việc làm của mình. Cũng chính vì thế,
chúng tôi đã lăn xả vào trận địa để trong mặt trận cuối cùng, tôi
đã để lại chiến trường một phần thân thể. Không kịp nói lên một
lời từ giã các Anh khi trực thăng bốc vội tôi về Quân Y viện. Sáu tháng
dài ở bệnh viện đủ cho tôi lấy lại được chút hơi tàn mà đủ sức
chống nạn khi di chuyển. Tôi rời khỏi quân đội trong một nổi buồn
không tả được, cuộc chiến đã đến giai đoạn sau cùng và tôi vẫn theo
dõi tin tức của Miền Nam,, nhất là bước tiến quân của đơn vị cũ của
mình. Ngày Miền Nam hoàn toàn sụp đổ làm tôi chết lặng người, bạn
bè đồng đội tôi sẽ ra sao ? và nhất là các Anh - những cấp chỉ huy
của tôi sẽ ra sao? Mặc dù đã bị cắt phần tiền thương tật, “học tập”
ở xã hết 1 tuần, tôi đã phải bán đi cái radio yêu quý đã theo tôi
suốt đoạn đường chinh chiến để lấy tiền tìm đến nhà của các Anh mà
hỏi thăm tin tức. Chị nhà cho hay Anh đã bị tập trung “ cải tạo”. Tôi
buồn quá lủi thủi về nhà, lòng vẫn luôn luôn van vái những an lành
sẽ đến với các Anh. Bạn bè đồng ngủ về quê tôi khá đông nhưng
không có công việc làm nên càng bi thảm hơn.Thằng vá xe đạp ở cuối
phố, thằng khuân vác, thằng chạy xe ôm, chúng tôi không từ chối
bất cứ một việc làm gì để kiếm được chút đỉnh tiền vừa để tạm sinh
sống no đói qua ngày vừa gom góp lại được vài mươi đồng nhờ Chị nhà
có đi thăm nuôi thì mua một ít thức ăn và đồ dùng cần thiết gởi
đến Anh. Chúng tôi dù trong nhọc nhằn vẫn thường hay nhắc đến các
Anh, ở trong tù dù buồn nhưng nhận được quà của chúng tôi chắc các
Anh cũng vui được phần nào.
Đó! chúng tôi chắc chiu những tình cảm trân quý, thủy chung gởi đến
các Anh, mỏi mong các Anh một ngày nào đó được tự do mà tính chuyện
quang phục lại quê hương mình. Thằng thượng úy trưởng Công an phường
lợi dụng việc cấp giấy phép đi thăm nuôi đã ngủ với bà Trung Úy
Phúc, sự nhục nhã nầy đã khiến Bà Trung Úy Phúc phải treo cổ tự
tử. Tôi nghĩ từ trong tù các Anh buồn và hận lắm.
Ngày Anh được ra tù chắc Anh còn nhớ chứ ? Chúng tôi đã đón mừng
các Anh như đơn vị của mình được tái lập, bao nhiêu vui mừng không kể
xiết, mừng đến rơi lệ, mừng vui khi nổi mỏi mong rửa nhục của chúng
ta đã được gần kề....
Rồi các Anh được sang Hoa kỳ, niềm vui thật sự càng nhân lên gấp
bội, ngày chia tay rượu hồng đã pha nước mắt, tiễn các Anh đi mà
lòng thầm mong đợi một ngày về của các Anh.
Chúng tôi - những người lính QLVNCH- vẫn ấp ủ một niềm tin tưởng vào
các Anh như ngày xưa. Sự ra đi của các Anh là điều kiện thuận lợi cho
công cuộc đấu tranh với Cộng sản VN.
Các Anh ạ ! Bây giờ thì buồn quá! Các Anh - những sĩ quan QLVNCH-,
những người Anh của chúng tôi, những Đại bàng, những Bắc Đẩu, Hắc
báo của ngày nào, một thời tung hoành ngang dọc khắp các chiến
trường, các Anh đã có một thời vinh quang và một thời nhục nhã, giờ
đây sau 27 năm lặng lẽ, các Anh cũng bị nhòa đi hình ảnh của ngày xưa
? Các Anh đã quên rồi sao ? Quên rồi những chiến sĩ thuộc quyền của
các Anh đã nằm xuống vĩnh viễn trên đất Mẹ thiêng liêng, quên đi
những đồng đội còn sống sót trong một tấm thân tật nguyền đau khổ,
sống lất lây ở đầu đường xó chợ? Xin cảm ơn các Anh về những đồng
Dollars mà các Anh đã gởi về cho chúng tôi trong chương trình giúp đỡ
thương phế binh QLVNCH. Những đồng tiền đó dù có giúp cho chúng tôi
trong một thời gian ngắn, dù có an ủi cho những đớn đau vật chất
được đôi phần, nhưng cũng không làm sao giúp chúng tôi quên đi nổi
nhục mất nước. Chúng tôi cần ở các Anh những chuyện khác, các Anh
có thấu hiểu cho chúng tôi hay không ?
Tôi đã hiểu vì sao thằng khuân vác ở xóm trên, thằng vá xe đạp ở
đầu đường, thằng chống nạn đi bán vé số ở cạnh nhà lại ghét cay
ghét đắng đám Việt kiều. Họ là những người lính năm xưa, họ đã
từng tuân hành lệnh của Đại bàng, Thần Hổ xông pha nơi trận mạc. Họ đã từng chắc chiu từng đồng bạc
nghĩa tình chung thủy gởi vào tận chốn tù đày cho các Anh. Họ đã từng uống với các Anh chung
rượu ân tình ngày đưa tiễn các Anh lên Phi cơ về vùng đất mới. Họ đã từng nuôi nấng một hoài vọng,
một kỳ vọng trong ngày về vinh quang của QLVNCH. Nhưng chính các Anh đã
làm họ oán ghét, oán ghét đến độ khinh bỉ khi các Anh Áo gấm về
làng, chểnh chệ ngồi dựa ngữa ở nhà hàng khách sạn 5 sao, tung tiền
ra để tỏ rỏ một Việt kiều “yêu nước”. Các Anh có biết không? Từ
trong sâu thẫm của cuộc đời, những người lính của QLVNCH đang lê lết
ở ngoài cửa nhà hàng mà các Anh đang ăn uống vui chơi, đang nhìn các
Anh với một ánh mắt hận thù. Hận thù lớn nhất của người Lính là
sự bội bạc, là sự phản bội. Không biết khi tôi kết tội các Anh là
Phản bội có quá đáng hay không, nhưng các Anh tự suy nghĩ một chút
sẽ thấy rõ hơn chúng tôi. Tôi không tin là tất cả các Anh đã biến
thái thành những tên Việt gian, nhưng sự trở về như các Anh trong
hiện tại là đồng nghĩa với sự phản bội. Các Anh đã phản bội lại
Tổ quốc và rõ ràng nhất các Anh đã phản bội lại chúng tôi. Các
Anh chống Cộng mà cứ về Việt Nam thì còn chống Cộng gì nữa ? Tôi
lại còn nghe sự bát nháu của các Anh trên xứ người. Ôi! không lẽ
nổi nhục nầy đời ta không rửa được ?
Các Anh Kính Quý.
Chúng tôi là những người Lính năm xưa của các Anh đây. Toàn thể
quân nhân và đồng bào đang tin tưởng vào các Anh. Tin tưởng một ngày
về rửa nhục, để Mẹ Việt Nam không còn cất lên tiếng than ai oán,
để chúng ta cùng nhau trở lại kiếp làm người, chấm dứt đêm trường u
tối đã phủ trùm lên Tổ quốc ngót 27 năm dài. Người Lính chỉ biết tuân hành mệnh
lệnh của cấp chỉ huy, nhưng qua bức thư góp ý nầy, mong các Anh thứ
lỗi cho những suy nghĩ của chúng tôi.
Các Anh, cho dù đã chậm, nhưng chúng tôi vẫn mong mỏi các Anh ở một
ngày về.
Trân trọng,
Huỳnh
Vĩnh Ninh
North
Carolina
(viết
lại cho dễ đọc)