THƠ NGÔ MINH HẰNG
(Nói chuyện trước 200 Quan Khách và
Văn Nghệ Sĩ về thơ Ngô Minh Hằng trong buổi ra mắt tập thơ “Có Những Vùng Trời” của tác giả tại Trường Luật khoa,
Đại Học George Mason ngày 12-5-2002)
Ngô Minh Hằng là nhà
thơ không xa lạ với người đọc từ trên 20 năm qua. Tác giả đã có thơ đăng báo từ
trước năm 1975 và xuất bản Thơ từ năm 1996, sau 16 năm tị nạn ở Mỹ. Nhưng Ngô Minh Hằng không phải là một Nhà
Thơ chỉ biết ca tụng cái đẹp của Trời – Đất, của bướm hoa bay, than van cho từng mất mát riêng tư, khóc cho
những cuộc tình dang dở.
Tác Giả là một trong
số rất hiếm hoi người làm Thơ thời sự.
Tôi gọi trường hợp này là “Viết báo bằng Thơ”, bởi vì trên khắp các báo
Việt ngữ và trên một số báo Điện Tử,
đọc giả có thể tìm thấy những bài thơ ghi nhiều vết tích lịch sử của Ngô Minh
Hằng.
Từ biến cố đau thương
30-4-1975 mà chúng ta vừa kỷ niệm lần thứ 27 đến những cuộc đổi đời, chia cách
của mỗi gia đình, mất mát của mỗi cá nhân và của một xã hội sau ngày Cộng Sản
chiếm miền Nam cho đến những tủi nhục, xót xa của nhiều ngàn phụ nữ và em bé
Việt Nam mất xác trên biển Đông trên đường vượt biển tìm tự do. Những cuộc tranh đấu cho nhân quyền, dân chủ
và đòi tự do cho đồng bào trong nước của người Việt tị nạn...Những cuộc xuống
đường phản đối Hà Nội chà đạp nhân quyền, đàn áp tôn giáo và những cuộc thắp
nến nuôi dưỡng ý chí nối nghiệp cha anh cương quyết bảo vệ lý tưởng dân chủ, tự
do của những sinh viên, học sinh tị nạn..vv...đều đã được Ngô Minh Hằng ghi lại
bằng thơ.
Bên cạnh đó là nhĩung
lời cổ vũ lòng yêu Tổ Quốc và đồng bào, thúc giục mọi người –nhất là giời trẻ
Việt Nam cả trong và ngoài nước- hãy nhớ “uống nước nhớ nguồn”, đừng bao giờ
quên ơn Tổ tiên và công lao của các bậc anh hùng liệt sĩ của dân tộc đã bao đời
hy sinh thân mình cho nghĩa cả, bảo vệ giang sơn gấm vóc.
Ngô Minh Hằng cũng
không quên nhắc nhở mọi người Việt Nam bằng những vần thơ dào dạt tình người để
nói với chúng ta, dù ở chân trời góc bể nào, cũng đừng bao giờ quên mình là
người Việt Nam con Lạc cháu Hồng đã làm rạng rỡ giống nòi trên năm Châu bốn bể.
Với ngày nghiệt ngã
30-4, Tác Giả viết:
“Ngày
Ba Mươi Tháng Tư xưa
Lệnh
hàng vết chém ai đưa qua hồn
Lòng
đau với Tháng Tư buồn
Súng
rơi cùng suối lệ tuôn nghẹn ngào
Ngày
Ba Mươi Tháng Tư nào
Ai
đem dân tộc xô vào lầm than
Xác
người ai bón rừng hoang
Biển
xanh pha máu Việt Nam đỏ hồng!
Ai
làm cách núi ngăn sông
Cha
con chia biệt, vợ chồng ly tan?”
hay:
“ Tháng Tư vợ trẻ khóc chồng
Mẹ
già chan chứa giọt hồng khóc con
Tháng
Tư đại bác nổ giòn
Trẻ
thơ chết thảm dưới cơn đạn thù
Tháng
Tư rộng cửa lao tù
Nước
tôi từ đấy đau nhừ nỗi đau.”
Nỗi đau
của 27 năm dài giằng đặc vẫn còn đó và sẽ còn mãi mãi trong cơ thể mỗi người
Việt Nam. Nhưng nổi ê chề ấy, chúng ta
đã tìm được niềm hãnh diện anh hùng của những sĩ quan chỉ huy Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa và những người lính đã chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để cho chúng
ta được sống, hay của những vị Tướng đã noi theo gương Hoàng Diệu chết theo
thành, chết với niềm tin và lý tưởng Quốc Gia để bảo vệ lấy màu cờ sắc áo.
Ngô Minh
Hằng viết về những vị này như sau:
“Tháng Tư nghe lệnh đầu hàng
Bao người thương lá cờ vàng quyên sinh!
Nước nguy, vị nước, quên mình
Mất thành,anh dũng cùng thành chết theo!”
Tác Giả đã nói đến gương anh dũng hy sinh không chịu để rơi
vào tay cộng quân ngày 30-4 của các vị anh hùng: Thiếu Tướng Trần Văn Hai, Tư
Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, Thiếu Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh;
Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh ChiếnTrường An Lộc-Bình Long, Trung Tướng
Nguyễn Khoa Nam,Tư Lệnh Quân Đoàn 4 và Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn của tỉnh Cần Thơ.
Thưa quí vị,
Có ai trong chúng ta không bồn chồn khi đọc những thơ ngập
đầy nước mắt về 30-4 như thế? Ngô Minh
Hằng đã biến khăn tang thành những vần thơ hiên ngang, cay đắng và ray rứt đến
tận tâm can người đọc.
Nhưng không phải chỉ có vậy, Tác Giả còn mời ta cùng ra biển
như đã có người làm như thế nhiều lần để lấy hình ảnh quê hương yêu quí mờ mịt
đâu đó bên kia bờ Thái Bình Dương.
Nhưng có nổi cô đơn nào hơn khi chúng ta, một mình ngồi cheo
leo ở một ghềnh đá nào đó mà không mắt rưng rưng khi nghe Ngô Minh Hằng tâm sự:
“Bãi biển, chiều nay, thật vắng người
Nước xanh, mây trắng, cát vàng tươi
Ngồi trên ghềnh đá nhìn ra biển
Thương quá Việt Nam, nẻo cuối trời!
Chốn ấy, bên kia biển Thái Bình
Quê hương tôi đó, khát bình minh
Anh em tôi đó, cần hơi thở
Và mẹ tôi buồn, mắt lệ quanh”
Nhưng
biển Thái Bình Dương không êm đềm và hiền hòa như thế. Biển ấy cũng là một phần máu thịt của Việt
Nam, vậy mà oan nghiệt thay, sau ngày 30-4-1975, đã biến thành một nghĩa trang
trải rộng khấp Á Châu chôn vùi hàng ngàn người Việt Nam vô tội trên đường tìm tự do.
Ngô Minh Hằng viết:
”Biển Đông cuồn cuộn cơn đồng thiếp
Người chết mang theo nỗi tủi hơn
Hải tặc điên mồị Làn sóng nghiệt
Tự do này hỏi giá nào hơn???”
Trong lịch sử nhân loại, chưa một
dân tộc nào đã bất chấp hiểm nguy, phải trả một giá oan nghiệt một sống mười
chết để được sống tự do như dân tộc Việt Nam vượt biển. Những cái chết tức tưởi ấy đã đánh thức
lương tâm Ngô Minh Hằng bằng những câu thơ gọi hồn người quá cố:
”Tháng Tư ra biển khóc người
Oan hồn hỡi, đáy
trùng khơi, xin về
Biển chiều vàng ánh
tà huy
Dài tay sóng níu bước đi vô hồn
Đứng trên bờ đá cô đơn
Khóc người bằng tiếng thơ buồn xót xạ
.........
”Tôi viễn xứ, người biển sâu
Chung hồn lưu lạc, chung sầu quê hương
Người trên sóng nước trùng dương
Tôi khung cửa hẹp, gió sương bốn mùa”
Thưa quí vị,
Có cần phải nói thêm gì nữa
để hiểu hơn nổi cô đơn, xa cách, ngậm ngùi giữa một người trên dương thế sống
xa quê hương và một người nằm sâu trong lòng đại dương?
Vì vậy, Ngô Minh Hằng chỉ
biết mỗi năm:
”Bóc tờ lịch. Lại tháng Tư!
Đau tình sông núi làm thơ khóc ngườị”
Nhưng càng khóc bao nhiêu,
mối sầu xa cách nơi chôn nhau cắt rốn càng lớn dần trong mỗi người Việt tha
hương. Nhưng có lẽ lớn nhất vẫn là vào
những dịp Xuân về trên đất nước vào mỗi dịp Tết Nguyên Đán.
Tác Giả “Có Những Vùng Trời” cũng không tránh khỏi những ưu tư nhớ Tết quê hương mà lòng
trĩu nặng:
”Nhìn hoa vui với nắng hồng
Xót xa, lòng lại đau lòng cố hương
Từ ngày lạc bước viễn phương
Mỗi mùa Xuân đến, một chương sử buồn.”
Nhưng có lẽ hình ảnh nổi bật
hơn cả của ngày Tết vẫn là người Mẹ yêu quí của mỗi chúng ta, cho dù Mẹ mình
không còn nữa để nhận lấy tấm lòng hiếu thảo của con mình qua khói hương ngày
Tết.
Ngô Minh Hằng nói với chúng
ta tự đáy lòng y:
”Sáng nay thức dậy nhìn năm mới
Có lạ gì đâu, vẫn thế thôi
Nắng vẫn ưu tư, lòng vẫn mỏi
Ba miền thương nhớ vẫn xa xôi
Hồn ta chùng lại đau nhường cắt
Sâu đến vô cùng vết cố hương
Sau một vài giờ rôm rả Tết
Nghĩ về quê mẹ, nghĩ càng thương.”
Thơ Ngô Minh Hằng còn trải
rộng nhiều hơn trong nhiều lĩnh vực của thời sự. Tác Giả cũng đã ghi lại bằng thơ rất nhiều biến cố trong Cộng
Đồng Người Việt ở nước ngoài, chẳng hạn
như cuộc thắp nến rực sáng ở Phố Bolsa ở Orange County, California ngày 6-2-1999
của trên mười ngàn người, đa số là học sinh, sinh viên lớn lên ở Mỹ chống lại
hành động tuyên truyền cho Hà Nội bằng cách treo hình Hồ Chí Minh trong tiệm
buôn High Tech của Trần Trường: cuộc
biểu dương chính nghĩa và văn hóaViệt Nam trước mắt hàng trăm ngàn người ở
thành phố Nữu Ước, trong đó có lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa dài
hàng chục thước được giăng cao ngạo nghễ.
Ngay cả việc Hà Nội vừa mới cắt mục Nam Quan, chia 50 phần trăm suối Bản Dốc theo chiều dài và nhượng một phần Vịnh Bắc Bộ cho Trung Hoa trong hai
năm 1999-2000 cũng đã phản ảnh trong thơ của Tác Giả:
”Nam Quan, Bản Dốc, quê hương
Của ta, ta phải yêu thương giữ gìn!
Ta không được phép đứng nhìn
Như người ngoại cuộc, hỡi tim Lạc Hồng!!”
Trước mối nhục mất một phần
lãnh thổ như thế, Tác Giả đã hỏi mọi tầng lớp trong nước:
”Hỡi anh đảng viên các cấp
Vẫn từng yêu mến non sông
Mất đi Nam Quan, Bản Giốc
Hỡi anh, lòng có đau lòng?”
”Hỡi anh, cán binh, bộ đội
cả đời gìn giữ quê hương
Mà nay Nam Quan, Bản Giốc
Về người, anh có đau thương?”
”Hỡi em, các sinh viên trẻ
Tương lai, rường cột sơn hà
Mất rồi, Nam Quan, Bản Giốc
Em ơi, lòng có xót xa?”
”Hỡi bác nông phu cày cuốc
Cuộc đời là mảnh đất nâu
Than ôi, Nam Quan, Bản Giốc
Mất đi, lòng bác có sầu?”
Và
hôm nay, thưa Quý Vị, là ngày của các Bà Mẹ (12-5), là ngày để các con Bà trả
on sinh dưỡng, để người chồng cảm ơn người vợ hiền đã cho mình hạnh phúc. Nhưng cũng có những nỗi buồn da diết dâng cao từ những người con thiếu
may mắn không còn Mẹ dể mà cài lên áo bà bông Hồng như trong “Bông Hồng Cài Áo”
của Thiền sư, Nhà Văn Nhất Hạnh.
Ngô Minh Hằng là một trong
những đứa con hẩm hiu ấy. Tác Giả ray
rứt trong “Ngày Của Mẹ”:
”Ngày của Mẹ, Mẹ con người vui quá
Những bông hồng cài đỏ áo ai tươi
Những lá thư, tấm thiệp, những môi cười
Những ánh mắt và vòng tay thương mến
Trước cảnh ấy, con cúi đầu nghèn nghẹn
Mắt con cay, lòng đắng, Mẹ hiền ơi!
Ba chục năm hơn vắng Mẹ trong đời
Nỗi thương nhớ lắm khi là biển động.”
.......
”Ngày của Me, lệ con tràn khóe mắt
Nhớ Mẹ nhiều và thương Mẹ, Mẹ ơi!
Kiếp tha hương, con lưu lạc quê người
Nên mộ Mẹ khói nhang đành vắng vẻ.”
Thưa Quí vị,
Những điều tôi vừa thưa với
Quí vị phản ảnh một phần nhỏ trong ý thơ man mác của Ngô Minh Hằng.
Sự hấp
dẫn, lôi cuốn của thơ Ngô Minh Hằng ở chỗ mỗi bài Thơ đều có một chuyện riêng,
dù là chuyện Tình, chuyện gia đình, bè bạn hay chuyện của đất nước Việt
Nam. Nhưng những mẩu chuyện riêng tư ấy
đã không như những khúc rẽ của mỗi cuộc đời chúng ta mà là những con suối, những dòng sông trăm
nhánh trải rộng cứ đi mãi, đi xa nhưng cuối cùng cũng quay về một mối chảy ra
biển cả hay thấm vào lòng đất để tiếp tục nuôi dưỡng con người và cây cỏ.
Vì
vậy, thơ Ngô Minh Hằng dù có phản ảnh một biến cố nào chăng nữa, cuối cùng rồi
cũng quay về tụ điểm vào một tình yêu cao quí nhất, đó là Tình Yêu Quê Hương,
Tình Yêu Gia Đình và Tình Yêu Đồng Bào của những người con xa xứ có cùng một Mẹ
Âu Cơ.
Tụ điểm ấy sẽ đánh thức chúng ta mãnh liệt
hơn vào mỗi dịp kỷ niệm đau buồn 30-4,
vì vậy mà tôi muốn mượn những vần thơ của Nhà Văn Hoàng Hải Thủy, dựa theo ý
thơ Trần Huyền Trân để chấm dứt bài nói chuyện của tôi
”Năm Năm cứ đến ngày oan trái
Ta thắp hương lòng để nhớ thương
Thôi nhé Em về yên xóm cỏ
Cây đời đã cỗi gốc yêu đương
Nhớ nhau vẩy bút làm mưa gió
Cho đống xương tàn được nở hương.”
Nở hương chính là niềm hy vọng vào tương
lai như chính Ngô Minh Hằng đã giãi bầy tâm sự của mình trong những vần thơ tha
thiết với ước mơ được trở về sống trên quê hương của một Việt Nam tự do, thanh
bình và hạnh phúc.