THƯ NGỎ THỨ HAI
GỬI QUÂN NHÂN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT-NAM
Hoàng-đạo Thế-Kiệt, Đặng cao Thăng Lê văn Thân, Nguyễn bảo Trị, Nguyễn xuân
Vinh
Hơn một năm trước, vào tháng 11 năm
2000, chúng tôi, một nhóm cựu quân nhân Quân Lực Việt-Nam Cộng-hòa đã viết một
Thư Ngỏ gửi các bạn quân nhân và cựu quân nhân Quân đội Nhân dân Việt-Nam. Lá
thư kêu gọi mọi người cùng suy tư về cái thảm trạng của dân tộc Việt-Nam trong
suốt mấy chục năm qua, để cùng nhau tìm ra con đường tốt nhất để cứu dân dựng
nước, con đường mà chắc chắn QĐNDVN sẽ đóng vai chủ yếu, nếu giữ đúng theo danh
nghĩa của một "Quân đội Nhân dân", chỉ trung thành với ‘dân’ chứ
không với bất cứ đảng nào, do đó sẽ hỗ trợ người dân chứ không đàn áp bắn giết
họ, khi họ buộc lòng phải đứng lên đòi hỏi tự do no ấm...
Đáng tiếc là sau khi lá thư được phổ
biến chỉ thấy Bộ trưởng Quốc phòng Phạm văn Trà và Tổng bí thư Lê khả Phiêu lên
tiếng cảnh giác các quân nhân về mưu toan “phi chính trị hóa quân đội” của các
thế lực thù nghịch.
Thực ra Thư Ngỏ chỉ nêu lên một vài
sự thật lịch sử để mọi người cùng chiêm nghiệm, như : sự lợi dụng cuộc kháng
chiến hào hùng chống thực dân giành Độc lập Tự do Hạnh phúc của nhân dân ta, để
đưa nước ta vào con đường cộng sản chuyên chính; sự xuyên tạc rằng miền Nam bị
Mỹ-Ngụy thống trị, để lùa quân vào chém giết anh em miền Nam, gây nên cuộc
chiến tương tàn đẫm máu nhất trong lịch sử dân tộc; sự áp đặt lên cả nước một
chế độ cai trị cực kỳ tàn độc, đến nỗi cựu Xứ Ủy Nam bộ Nguyễn-Trấn và cựu
Trung tướng Trần-Độ, phải nói là còn tệ hơn cả dưới thời thực dân Pháp!
Hậu quả của chế độ độc tài chuyên
chính đó là dân nghèo nước mạt. Sau hơn 25 năm độc lập thống nhất và được dìu
dắt bởi một đảng và chính quyền vẫn tự coi là “đỉnh cao trí tuệ loài người” mà
nước bị tụt hậu, dân bị bóp nghẹt, không được tự do ăn nói, tự do đi lại, tự do
tìm việc làm... bằng dân Cam-bốt, chưa nói đến những nước như Thái lan, Đại hàn,
Đài loan, Singapore...
Trước sự thực hiển nhiên đó, bao
nhiêu người đã phải lên tiếng đòi hỏi tập đoàn lãnh đạo đảng và nhà nước cộng
sản phải thật sự đổi mới, để cho dân được hưởng những quyền tự do căn bản nhất
của con người, như tự do bầu người đại diện vào quốc hội và chính phủ... Có đổi
mới thật sự như thế dân mới mau giàu, nước mới mau mạnh.
Rất tiếc chính quyền cộng sản đã
không chịu tích cực đổi mới, vì sợ "diễn biến hòa bình", sợ người dân
khá hơn, biết rõ tình hình hơn, không còn che giấu được sự thực, thì đảng sẽ
mất quyền thống trị! Vì thế, không những đã không thực tâm đổi mới, họ còn ra
tay đàn áp những người dám lên tiếng yêu cầu bài trừ tham nhũng, cho dân được
tự do. Dù vậy rất nhiều tiếng nói bất khuất vẫn vang lên. Như Hà-sĩ-phu, Dương
thu Hương, Phạm quế Dương…, Bùi minh Quốc, Trần Khuê, Lê chí Quang...và mới đây
cựu Viện trưởng viện Mác xít Hoàng minh Chính đã phải nói đồng bào miền Nam
phải bỏ nước ra đi chỉ vì lòng yêu nước và phản đối bọn bán nước.
Chính vì chính sách hà khắc đó của
cộng sản mà dân chúng nhiều nơi đã phải nổi lên chống lại đảng và nhà nước. Vụ
chống đối lớn lao nhất, có hàng chục ngàn nông dân và cựu chiến sĩ tham dự, xẩy
ra ngay tại tỉnh Thái bình cách đây vài năm, và mới nhất là vụ nổi dậy của đồng
bào cao nguyên Trung phần hồi đầu năm 2001. Dĩ nhiên đấy mới chỉ là những dấu
hiệu mở đầu. Những ai quan tâm đến tình hình đất nước đều thấy sớm muộn gì rồi
nhân dân khắp nước cũng sẽ phải nổi lên lật đổ chế độ bất nhân tham nhũng cửa
quyền này.
Tội lỗi của đảng cộng sản đối với
quốc gia dân tộc trong suốt trên nửa thế kỷ qua đã quá lớn lao tàn hại nhưng
vẫn chưa chấm dứt. Mới đây tập đoàn lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản lại còn
ký 2 hiệp ước biên giới, hiến trên 700 cây số vuông đất và dâng trên 10,000 cây
số vuông biển cho Trung quốc. Điều này càng để lộ cho nhân dân thấy rõ bộ mặt
bán dân hại nước ghê gớm đến chừng nào của họ. Cộng sản đã phản bội quốc gia
dân tộc, đã bán rẻ xương máu tổ tiên, đã bôi nhọ lịch sử nước nhà, đã chà đạp
lên niềm tự hào dân tộc, và trắng trợn nhất là đã khinh rẻ ngay chính những
người đã và đang cầm súng bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của quê hương. Rõ ràng
cộng sản đã trở thành tội đồ của dân tộc: bán cả đất nước của Tổ quốc!
Dĩ nhiên tập đoàn lãnh đạo đảng và
nhà nước cộng sản không thể giấu mãi được việc làm khuất tất đó nên đang phải
ngụy biện để bào chữa. Nhưng dù quỷ quyệt đến đâu, dù nại bất cứ lý do gì, họ
cũng không thể chạy tội được. Sự thật đã quá hiển nhiên, bởi vì:
-
Họ đã giấu biệt không phổ biến
toàn văn 2 bản hiệp ước, chỉ vì các tài liệu đó chứa đựng những bằng chứng bán
nước không thể chối cãi được. Thậm chí các đảng viên cấp cao và cả các dân biểu
quốc hội cũng rất nhiều người không biết!
-
Ải Nam quan, mà bất cứ người
Việt nào cũng biết là từ xưa vẫn thuộc Việt-Nam thì nay không còn nữa. Chính
thứ trưởng ngoại giao Lê công Phụng của Hà nội đã xác nhận điều này. Thế là ải
địa đầu cực kỳ hiểm yếu của đất nước, nơi đã bao phen ngăn chặn giặc Tàu, nay
đã được chính quyền cộng sản tặng cho nước anh em xã hội chủ nghĩa Trung quốc!
-
Thác Bản-giốc ở Cao bằng xưa
nay vẫn là của Việt-Nam, và gần đây vẫn là một thắng cảnh du lịch của ta, nay
đã bị cắt cho Trung cộng. Chỉ cần dở một bản đồ cũ ra là đủ thấy ngay thác
Bản-giốc trước vẫn nằm gọn trong lãnh thổ Việt-Nam, không dính gì đến Tàu,
nhưng nay thì lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản đã giao cho nước cộng sản anh
em!
-
So với bản hiệp ước Pháp-Hoa
ngày 26 tháng 6 năm 1887, về sự phân chia lãnh hải tại vịnh Bắc Việt (đã được
chính Việt-cộng công nhận trong bản tuyên bố ngày 12 tháng 11 năm 1982 về chủ
quyền lãnh hải Việt-Nam) thì nay đảng và nhà nước cộng sản đã hiến thêm cho
Trung cộng 9%, tức khoảng trên 10,000 cây số vuông vùng đặc quyền kinh tế. Đó là chưa kể sự nhượng bộ năm 1958 của Phạm
văn Đồng, gửi văn thư công nhận lãnh hải của Trung cộng, mặc nhiên công nhận
chủ quyền của Trung cộng trong vùng quần đảo Hoàng sa và Trường sa, vốn từ xưa
vẫn thuộc Việt-Nam và lúc đó đang do Quân Lực VNCH trấn đóng.
Trước việc làm cực kỳ hèn hạ và vô
liêm sỉ đó của tập đoàn lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản, chắc chắn người
Việt-Nam không ai không đau lòng, căm phẫn.
Là Quân đội Nhân dân, đã từng xả thân đem thắng lợi cho chính quyền cộng
sản từ bao lâu nay, chúng tôi tin chắc các bạn phải cảm thấy đau buồn nhục nhã
hơn ai hết. Thua giặc mất nước đã đau đớn. Bị lãnh đạo phản bội, vì quyền lợi
riêng tư mà cắt đất của Tổ quốc đem dâng cho ngoại bang còn đau đớn đến đâu.
Chúng tôi nghĩ tất cả mọi người
chúng ta, không ai có quyền im lặng. Bởi vì im lặng là đồng ý, là đồng lõa với
cộng sản. Im lặng sẽ mắc trọng tội với Tổ quốc và Dân tộc. Chính vì vậy người
Việt hải ngoại khắp nơi đã cực lực lên án chính quyền cộng sản. Trong nước cũng
đã có nhiều nhà trí thức, nhiều đảng viên cao cấp, cùng nhiều cựu quân nhân các
cấp, lên tiếng đòi lãnh đạo đảng và nhà nước phải công khai hóa hai hiệp ước,
quốc hội phải hủy bỏ các hiệp ước đó, và phải để cho đồng bào toàn quốc tự do
quyết định về hai hiệp ước đó.
Riêng đối với các bạn quân nhân,
chúng tôi biết ngoại trừ một số chỉ huy cao cấp, hầu hết anh em đều bị bịt mắt
che tai, không cho nhìn thấy sự thật, mà chỉ được học tập những điều ngụy biện
dối trá, và hơn nữa còn bị theo dõi kìm kẹp.
Nhưng là những người cầm súng bảo vệ quê hương, các bạn có quyền và có
khả năng yêu cầu đảng và nhà nước cho biết tại sao không phổ biến nguyên văn
các hiệp ước đã ký? Và nếu quả thật là có lý do chính đáng để hiến ải Nam-quan,
thác Bản giốc...và hơn 10,000 cây số vuông biển cho Tàu, thì tại sao không đem
ra trình bày công khai trước đồng bào toàn quốc?
Phải chăng tập đoàn lãnh đạo đảng
và nhà nước cộng sản biết rất rõ rằng không bao giờ Quân Dân Việt-Nam chấp
thuận một việc làm phản bội, đê hèn như thế nên đã lén lút làm?
- Nếu họ bảo trên thực tế Tàu đã chiếm những
vùng đất đó rồi nên phải nhường cho chúng, thì phải hỏi tại sao, và ai đã để
cho Tàu chiếm những vùng đất và biển ấy?
Tội để mất đất mất biển đó là của ai nếu không phải là của chính đảng và
nhà nước cộng sản?
-
Riêng về ải Nam quan và thác
Bản-giốc thì cho đến khi ký hiệp ước và trồng cột mốc mới vẫn chưa hề bị chiếm,
như tất cả mọi người đều biết. Vậy tại sao lại phải đem cống hiến cho Tàu cái
địa danh oai hùng nhất đó của Tổ quốc?
-
Hơn nữa, dù giặc có chiếm chỗ
nào rồi thì một chính quyền thật sự yêu nước cũng không bao giờ chịu hợp thức
hóa, như Nga chiếm quần đảo Kouriles của Nhật từ cuối đệ nhị thế chiến mà nay
Nhật vẫn đòi, và vì thế hai nước vẫn chưa ký hòa ước chấm dứt tình trạng chiến
tranh.
-
Còn nếu bảo vì sự hòa hiếu giữa hai nước nên phải nhượng bộ thì
lại càng không được. Hòa hiếu thì phải có cả hai bên. Tương nhượng cũng phải có
cả hai bên. Tại sao lại chỉ có một bên bị mất, và lại mất một nơi đã lừng danh
trong lịch sử, từng là niềm kiêu hãnh của cả dân tộc, đồng thời lại là vị trí
chiến lược, sống còn của đất nước?
-
Sau nữa, nếu nói phải nhượïng cho Tàu để nhờ Tàu chống Mỹ thì lại
càng khó tin Đảng vẫn khoe đã đánh cho Mỹ cút rồi, Mỹ đâu còn ở đó? Họa chăng
chỉ còn Tàu, là kẻ thù truyền kiếp vẫn lăm le xâm lấn nước ta!
Vì vậy hầu như ai cũng tin rằng tập
đoàn lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản hiến đất dâng biển cho Tàu hoàn toàn
chỉ vì quyền lợi riêng của họ. Từ lâu, do những sai lầm căn bản, chính quyền
cộng sản vẫn ở trong cái thế tiến thoái lưỡng nan. Không đổi mới thì bị cô lập,
chết đói, mà đổi mới thật sự thì khi dân khá lên cũng sẽ mất quyền và đảng sẽ
tan. Vì thế, sau khi ký hiệp ước thương mại với Mỹ, đảng và nhà nước lo sợ “diễn
biến hòa bình”, phải bám víu vào Trung cộng để giữ vững ngôi vị. Đây là thế chẳng đặng đừng. Trong hai con
đường: mất quyền hay hiến đất dâng biển, tập đoàn lãnh đạo đảng và nhà nước
cộng sản đã chọn con đường bán đất bán nước.
Nhưng làm thế tập đoàn lãnh đạo
đảng và nhà nước cộng sản cũng lại đặt nhân dân Việt-Nam, nhất là Quân Đội Nhân
Dân Việt-Nam, trước một sự lựa chọn sống còn: chấp nhận hay không chấp nhận cho
chính quyền cộng sản hiến đất dâng biển cho Trung cộng -với những hậu quả khôn
lường của nó?
Câu trả lời thiết tưởng đã quá rõ
ràng. Và những người phải trả lời trước tiên hẳn không ai khác hơn là các quân
nhân Quân đội Nhân Dân Việt-Nam -những người có trách nhiệm bảo vệ sự toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ-Quốc. Chúng tôi tin rằng toàn dân đang chờ đợi tiếng nói của
QĐND và sẵn sàng hỗ trợ cho sự nghiệp bảo vệ quê hương, cứu dân, dựng nước này.
Hải
ngoại mùa Xuân năm Nhâm Ngọ