Chuyện xưa tích cũ.
TUỔI GIÀ 2
Hồ Đắc A-Trang
Nguyễn Văn Trường
Xưa , xưa lắm, chuyện xảy ra ở một thiền viện.
Thiền sinh ngày ngày gánh nước tưới cây, hoa quả.
Đó là nhiệm vụ chính của thiền sinh, ngoài việc tu tập.
Hai thùng nước, một còn mới, cái kia thì quá cũ, đã có nhiều lỗ nhỏ để nước lún phún ra. Thế nhưng, thiền sinh vẫn dùng hai thùng không cân xứng này trong nhiều năm tháng. Thiền viện nghèo, hoặc nhiều lý do khác.
Một hôm đang trên đường tưới cây, thiền sinh bỗng nghe một giọng già nua khẽ nói: "Tôi tuổi già, thân xác hao mòn, tuy cũng chứa đầy nước, như tuổi trẻ bên kia, nhưng đến trên đầu giốc, thì tôi chỉ còn có nửa thùng, thật hổ thẹn."
Thì ra đó là tiếng nói của cái thùng lũng, buồn than thân phận.
Thiền sinh nhìn lại cười rằng: "Nhà ngươi hãy nhìn cả hai bên đường. Luống hoa dọc bên đường ở phía ngươi, bấy lâu nay nhờ nước rỉ phún ra mà không ngừng tươi nở trăm màu. Cái thùng mới ở bên phía đường, giữ đường khô ráo cho người đi lại. Đừng nghĩ rằng già mà không hữu dụng. Già trẻ khác nhau, cái dụng, cái lợi ích của già và trẻ đương nhiên cũng khác nhau. Không có ngươi ta phải nặng nhọc với luống hoa, nhờ ngươi, ta không phải lo đến việc ấy. Trời chẳng thiên riêng ai."
Thời gian không kiêng ai. Ai ai rồi cũng như cái thùng cũ trên đây. Thân thể hao mòn, suy yếu, mắt lòa, tai kém. Có những việc mà hồi nhỏ xem như trò chơi, giờ đây lại thấy nặng nhọc hoặc chẳng thể làm. Ngay cái ăn, cái uống, phải nương răng cỏ, nương bộ tiêu hóa, có khi phải cữ kiêng, hoặc vì dị ứng, hoặc vì bệnh tật. Nhưng đừng vì vậy mà mặc cảm tự ti, xấu hổ xem mình là kém. Tuổi già có bề dày của kinh nghiệm. Có đóng góp công sức trong suốt chiều dài và chiều sâu của cuộc sống. Lúc lên voi, khi xuống chó, thăng trầm cũng lắm. Vui cũng lắm mà buồn cũng lắm. Thích thú, lo âu, khổ cực, mồ hôi nước mắt, không cảnh nào mà không biết.
Những cái ấy thuộc dĩ vãng. Chỉ nhắm mắt lại thôi, thì cái phim quá khứ hiện ngay trong trí. Và mình có thể tự do muốn xem lại bất cứ đoạn nào, tùy ý thích. Thật dễ chịu.
Nhưng có người già không ẩn mình trong quá khứ.
Dĩ vãng qua rồi. Tương lai chưa tới. Chỉ có hiện tại, cái giây phút nhất thời trước mặt, con người mới là thật sống. Và mỗi ngày qua là thêm một ngày gần điểm hẹn với tổ tiên, nên muốn sống đầy, thèm sống hết khả năng mà tạo hóa dành cho. Vì vậy, dầu có sức mẻ như cái thùng cũ, những ông già, bà cả này, vẫn mạnh bước giữa giòng đời, làm việc và tận dụng thời gian.
Không tranh dành, không chiếm chỗ của tuổi trẻ. Trong một chừng mực nào đó hiểu mìnhï, hiểu người hiểu khả năng, hiểu tính tình, hiểu những giới hạn. Có những việc thuận cho tuổi già. Có những việc phải dành cho tuổi trẻ. Nghĩ mình còn trẻ như thuở nào là mộng huyễn. ï Không còn thời gian để nuôi và chạy theo ảo ảnh. Mà còn đi nữa, cũng không làm. Sức đâu mà ngược dòng. Mà có sức cũng không chèo nước ngược. Vì đã thấy được cái phù du nên dứt khoát buông bỏ phù du.
Như vậy, không có nghĩa là lánh đời, ẩn trú ở chùa, am cốc, thiền viện, dòng tu, ru mình trong câu kinh tiếng kệ, dọn mình về chốn vĩnh hằng, cho một kiếp sau phong phú hơn. Điều ấy những người già nàyï hoãn lại, hoãn cho đến sức tàn, lực tận. Chừng ấy,dành cho Trời, tấp nơi đâu cũng được.
Họ cũng hiểu nhiều người gặp phải những thương đau không vơi được, mất đứa con, giữa đường gãy gánh thêm bệnh nan y, không còn một hi vọng gì ở hiện tại và tương lai. Cuộc đời như chấm dứt từ đây. Cho nên, bỏ đời tìm đạo, tìm sự an tịnh trong lời kinh, câu kệ. Và họ cảm thông: sự ẩn náo, đào thoát có thể là một giải đáp thích hợp cho một số cá tánh.
Họ cũng biết có người lấy cửa chùa, dòng tu làm kế sinh nhai; nhưng ở cái tuổi lãnh tiền già, tiền hưu, thì không vào cái thời mà con người còn có thể đổi nghề nghiệp, cách làm ăn. Vã lại, việc buôn thần bán thánh không lúc nào là việc của họ.
Cho nên, nếu đi tu, thì chỉ vì phát tâm đạo, hoặc được một ân tứ, để bước thêm một bước trong cuộc sống tâm linh.
Nói chung, không ngược giòng, ï không buông trôi, không để mặc cho số phận, vẫn đóng góp phần mình.
Dầu là cái thùng lủng, vẫn có những đóng góp thức thời. Duyên lành không thiếu. Chỉ thiếu thiện chí, thiếu tình người, nên không thấy, không nắm bắt cơ may. Những cơ may ấy nằm ngay trong thân phận, trong cái vô thường của thế cuộc.
Cho nên, nếu có tu thì không tu luyện thần thông để thành tiên thánh, không cố vươn để được là siêu nhân.
Có hãnh diện về dĩ vãng, nhưng không khư khư ôm chặt lấy nó để phải chết khô trong ấy. Cũng không tròng nó vào con cái, cháu chắt, cho bất cứ ai. Không nhân danh dân tộc, nhân danh luân thường đạo lý, nhân danh nguồn gốc, để buộc con cháu hoặc tuổi trẻ hoặc bất cứ ai đi vào con đường "tất yếu đúng" của mình. Có những người rất trẻ, nhưng kiến thức sâu rộng, học thức uyên bác. Có những điềøu mà tuổi trẻ hiểu rõ mà tuỗi già thì mù mờ hay rất dốt.
Mỗi thế hệ sống cái thời của nó. Mỗi con người đều có cuộc sống riêng tư. Không nghĩ dùm cho con, cho cháu, cho tuổi trẻ, cho người khác, vì ý thức rằng không một ai sống thay bất cứ một ai được. Cũng không tìm nhốt bất cứ ai trong những kinh nghiệm, cái nhìn, cái hiểu biết, "cái tất yếu đúng" của mình. Làm như vậy, có thể là bạo hành tâm linh, có thể làm tài năng thiêu chột.
Vậy, phải tìm đối thọai, có qua có lại, có lắng nghe học hỏi, tìm hiểu.
Già trẻ mâu thuẩn và va chạm là việc thường. Điều đáng tiếc là đôi bên đều chắc bẩm rằng mình đúng, nắm bắt được cái chân lý ngàn đời của loài người. Thế rồi chẳng thấy được hoàn cảnh của nhau, cứ tranh phải trái, không lắng nghe được lẫn nhau, không biết thương nhau, để cùng tìm một giải pháp thỏa đáng cho nhau.
Tiêu biểu cho những người già này, có Thanh Hư Đạo Sư.
Xưa có thời tiên sinh hét ra lữa. Hét ra lữa là với những con người lăng nhăn, thiếu đức độ, mà thiếu phúc, thiếu duyên gặp phải tiên sinh, vì tiên sinh là người rõ ràng thù bạn phân minh, xấu tốt phân biệt, dứt khoát với cái xấu. Với tiên sinh, cuộc đời không có chỗ cho cái xấu. Là nhà giáo, hoặc cha me,ï thì dạy dỗ là cắt, tỉa bỏ các thói hư tật xấu. Nói uốn nắn, thì phải dám mạnh tay, bằng không thì thói nào tật nấy, rồi vẫn như cũ. Làm quan, tiên sinh bực bội vì tính ù lì, thụ động của đông đảo công chức quan lại. Tiên sinh dứt khoát, không nể nang bất cứ ai dưới quyền. Người tuổi tác, bậc cha anh, nếu không phải, lười biếng, thiếu tinh thần cầu tiến, thì hãy đi chơi chỗ khác. Vận nước lâm nguy, giáo dục suy thoái, dân số tăng trưởng. Tiên sinh làm việc không ngưng nghỉ và buộc mọi người phải làm việc cũng không ngưng nghỉ.
Kết quả, gây thù chuốc oán cũng nhiều, nhưng phải nhận, từ tình trạng hỗn mang của thời lập quốc, dần dần có được một trật tự, một nề nếp.
Năm nay, niên kỷ non 80, nhà cách mạng quan lại thời ấy, đã có những đổi thay căn để. Tóc bạc như tiên ông, sắc diện cũng như tiên ông. Vẫn sắc sảo, quắc thước. Xưa thì hiếu động, năng nổ. Giờ thì cái cách làm việc, cái nhiệt tình vẫn còn, nhưng trầm mặc, qui cũ hơn. Lời nói, tiếng cười tuy có khác nhưng vẫn trong, dòn và tươi, biểu hiện một tinh thần tráng kiện, và một thể chất khỏe mạnh.
Thanh Hư không ăn chay, không tụng niệm cầu phúc, như các ông già bà lão thường làm.
Nhưng còn hơn ăn chay và trì tụng kinh kệ. Hầu hết các kinh kệ tiếng Việt, và tiếng Anh đều được tiên sinh đọc qua, tìm hiểu, đào sâu, thấu đáo. Và muốn vậy, thì không thể để tâm chạy loạn. Phải tĩnh tâm, phải dọn mình cho kinh kệ. Tuy không nguyện chay lạc, nhưng còn hơn chay lạc, không tu tập nhưng còn hơn tu tập. Nghe, đọc, suy nghĩ về lời kinh, chưa đủ để thấu hiểu ý kinh. Phải sống như mình hiểu theo lời dạy của kinh, mới thấy những giao động bên trong, những mâu thuẫn giữa cái hiểu và thực tiển trước mặt. Nhờ vậy mà hiểu đạo hơn.
Tiên sinh không chỉ muốn học, hiểu, thực hành cho riêng mình. Ông còn muốn chia xớt với những thiện tri thức, để hiểu thêm, học thêm, để hiệu chính cho bản thân.
Thời dụng biểu hàng ngày của tiên sinh vì vậy nên căng lắm. Giờ giấc học tập, thiền hành, rảo bộ với phu nhân, đâu vào đó. Dầu vậy, thỉnh thoảng có những bất thường xãy ra, điện thoại của một người bạn có thể dài hàng giờ, đứa con bỗng tạt về thăm cha mẹ một vài hôm, ông vẫn vui vẻ đón nhận.
Chúng tôi gặp lại tiên sinh trong bối cảnh mới này.
Tiên sinh nghỉ hưu hơn mươi năm nay. 6 đứa con thêm dâu rễ. Nhưng rồi thì mỗi đứa mỗi nơi. Không phải lo cơm nước, đưa đón cháu chắc. Khỏe ru! Thời giờ như mênh mông. Cuộc sống nhẹ nhàng, thoải mái. Cái mộng nhàn hạ ôm ấp từ lâu như bổng nhiên ập tới. Một tháng, hai tháng, đến tháng thứ ba thì bắt đầu tiên sinh thấy "nhàn cư không nhất thiết là bất thiện", nhưng không phù hợp với một người có thói quen năng động như tiên sinh. Thế rồi như thiên hạ, ngày ngày tiên sinh xem phim chưởng. Siêng năng, cần mẫn. Nhưng rồi cũng chán. Kế đó thì lãnh việc về làm cho qua thời gian. Nhưng tuổi lớn, viết chương trình thì quên trước lộn sau.
Duyên với đạo đưa tiên sinh về với Phật Pháp. Rữa tay gác phấn, gát chưởng, gát bỏ cả những văn chương phù phiếm, dùng đạo để đi sâu vào tình người, sống thật là người.
Cái nghiêm túc thuở nào vẫn còn, nhưng tính dứt khoát, đâu ra đó hình như mất dạng.
Chúng tôi gọi là đạo sư, vì nghĩ tiên sinh là người chí tình tu tập.
Những giòng trên đây,phần lớn chúng tôi lãnh hội được của tiên sinh.
Chúng tôi cảm nhận đó là một con người chung thủy. Với vợ con, với tình người. Nhưng không thủy chung với các thói quen tật xấu, thí dụ tính nóng nảy, nông cạn, hay phê phán, khen chê. Giờ thì tiên sinh cũng nhận rằng con người xấu nhất, dỡ nhất vẫn có cái tốt , cái hay của nó, và con người tốt nhất, hoàn mỹ nhất vẫn có cái bất toàn của họ. Trời chẳng thiên riêng ai. Hay dỡ tốt xấu, ai ai rồi cũng có một chỗ để sống.
Nhân nghe anh Võ Minh Thế kể chuyện chiếc thùng cũ, ghi lại câu chuyện và đôi lời của Thanh Hư Đạo Sư. Mong được lời chỉ giáo của quí vị đọc giả.
Houston, Tết Tân Tỵ, 2001