VĂN MINH VIỆT NAM TRONG ẨM THỰC Các dân tộc khác không phân biệt được
người Việt Nam khác hơn người Trung Hoa
như thế nào. Cũng da
vàng, mũi tẹt. Đúng
vậy, nguồn gốc dân tộc chúng ta phát xuất
từ miền Nam Trung Quốc nếu nh́n gần, nhưng
càng phăn xa hơn nữa, th́ các dân tộc Nhật
Bản, Đại Hàn cũng như Trung Hoa và Việt Nam đều
thuộc giống dân Mông Cổ (race). Một giống dân từ miền Bắc tản
ra, và riêng Việt Nam th́ nhiều năm trước trong đà
di dân của ḿnh về hướng Nam đă dung ḥa phát
triển với các dân tộc thiểu số địa
phương, lại hấp thụ nhiều nền văn
minh khác nhau của các dân tộc khác từ phía Tây sang như
dân tộc Chàm, từ phía Nam lên như dân tộc
Campuchia. Một sự hội
tụ của ba nguồn dân tộc chính của Á Châu và
Hải Đảo đó lại được thêm vào
gần một trăm năm đô hộ của Pháp từ
Âu Châu, đă tăng thêm sự phong phú về văn minh văn
hóa của dân tộc ta.
Người Việt Nam chúng ta vốn có nhiều óc
sáng tạo, biết của người một thứ ǵ
th́ học hỏi trước cho bằng được,
rồi sau đó phát huy làm c̣n hay hơn, tốt hơn
của người truyền đạt cho ḿnh. Nay chỉ xét về ẩm
thực mà thôi, ta có thể tự hào rằng ta có được
nhiều thức ăn rất độc đáo mà
người ngoại tộc khó mà phân biệt được. Nhưng nếu ta không hiểu được
sự khác nhau đó mà hănh diện th́ thật là đáng
tiếc. Tức nhiên có người
nghĩ khác lại, người viết bài này không giám chê là
họ mất gốc. Cũng
tội cho họ khi đi làm cùng những người
Mỹ mà mang mắm kho để ăn trưa th́ thật
là khó ngửi cho người ta.
Giống như bắt người Việt Nam vừa
sang Mỹ định cư ăn “blue cheese” hay anchovy
vậy. Bài này chỉ chú
trọng nói lên sự khác biệt và độc đáo
của thức ăn Việt Nam. Việt Nam và Trung Hoa chế biến thức ăn
giống nhau. Cũng
nướng, hấp, hầm, nấu, luộc, chiên, xào,
chưn, tuy cơ bản giống nhau nhưng hương
vị và nguyên liệu khác nhau.
Căn bản suy luận theo âm dương ngủ hành
thật giống nhau. Nhưng, người Trung Hoa dùng bột ḿ th́ ta
dùng bột gạo. Từ
bột gạo, ta đă chế ra hủ tiếu, phở,
bún các loại. Các loại bánh
như bánh cuốn, bánh đúc, bánh bèo, bánh tét, bánh chưn,
bánh khoái, bánh xèo, bánh trán... đều là của ta. Từ lúa gạo trồng trên vùng
khô ta đă trồng lúa nước, và các giống gạo
ngon hơn lấy từ nơi khác về, từ Nam
Dương chẳng hạn đă làm cho thức ăn ngon
hơn. Nhất là lúa nếp
giúp ta chế biến nhiều thức ăn có lượng
protein cao. Người Trung Hoa dùng x́ dầu, là một
chất lấy từ đậu nành sau khi chế biến
tương. Người
Việt Nam độc đáo nhất là chế nước
chấm bằng cá, tôm, mực khi làm mấm các loại, đó
là do văn minh của người Khmer. Nhưng phải nói có loại tương nào sánh
kịp với tương Cự Đà của miền
Bắc Việt Nam, kết hợp acid amin lấy từ
ủ đậu nành với nếp lên mốc. Từ loại mấm ḅ hóc
của Campuchia, ta đă có nhiều loại mấm các
loại cá lóc, cá sặc, cá linh, mấm nêm, mấm
ruốt. Từ các loại
mấm lại sanh ra mấm ăn sống, mấm kho,
mấm chưn, mấm chua, mấm thái, mấm ruột,
mấm trứng. Chắc các
bạn trẻ cho rằng dân tộc Việt Nam kém văn
minh. Nếu những ai có tŕnh
độ học vấn cao chuyên về ẩm thực th́
thử phân tách các loại thức ăn của
người Việt chúng ta mà hiểu được, tuy có
mùi vị độc đáo và khó ngửi, nhưng có
nhiều chất bổ dưởng và dễ tiêu hóa, cơ
thể dễ tiếp thu hơn các thức ăn của Âu
Mỹ. Nếu xét về khía
cạnh gớm ghiết th́ nên nhớ rằng người
da trắng đă từng hứng bắt các con ḍi rớt
xuống từ những thú săn được treo trên
dàn bếp để mang ḍi chiên bơ (beure). Ḍi chiên bơ đâu có ngon
bằng con đuông dừa chiên bơ, béo bổ hơn
nhiều. Người Trung Hoa thường chế biến
thức ăn theo chua và ngọt.
Người Việt Nam thường cho mặn và
ngọt. Nhưng khi vào
dần về phía Nam, ḥa đồng với Campuchia, ta
lại thêm một món canh chua. Chế biến thịt cá, ta cũng luộc, quay,
hầm, ninh, nướng, xào hoặc làm chả, nhưng độc
đáo hơn, ta sử dụng được thịt
sống, thêm da, trộn thính vào cùng với gia vị như
tỏi, tiêu, gói bằng lá vong, lá chùm ruột, lá chuối
thành nem chua. B́ và tré cũng
dùng thịt chín gói với riềng, gừng, để được
lâu và nhậu hết xẩy.
Những thứ này phải là độc đáo
của Việt Nam thôi, nhất là giám dùng thịt heo mà không
làm chín để ăn.
Như món thịt ḅ th́ người Việt chúng ta đưa
vào phở làm bằng gạo, “ḅ lúc lắc” là thịt
sống nhúng vào mở sôi (deep fry) cũng có một không
hai. Bánh pḥng tôm phải nói là độc
đáo của vùng Sadec, có nhăn hiệu Bánh Pḥng Tôm Sa Giang mà
ngày nay ở Mỹ có làm được
loại Chips có tôm. Chúng ta ăn
cá như người Trung Hoa, nhưng để dành được
ngoài việc làm khô th́ Trung Hoa không làm mấm như chúng
ta. Nhất là ở Nam
phần Việt Nam, sở dĩ phải làm mấm là v́
bắt được một lần quá nhiều cá ăn
không hết phải t́m cách tồn trử. Nông dân trước kia trồng
lúa mùa, nghĩa là lúa trồng sáu tháng mới gặt, nên cá
chui rút xuống đất để tránh mùa khô đă nhô lên
trong ruộng, hay di cư từ sông rạch lên ruộng khi
tưới tiêu. Đồng
lúa trử một lượng cá rất lớn v́ sau sáu
tháng cá sanh sôi nẩy nở, mập béo, như cá rô, cá trê, cá
lóc. Khi hết mùa nước
th́ cá dồn về ao trong ruộng tụ lại nơi đó
để nông dân thu hoạch.
Có câu “thất mùa lúa, được mùa cá”. Làm khô cũng có, nhưng làm
mấm trử được
nhiều hơn trong các lu hủ để ăn suốt năm. Nhà giàu
th́ ăn mấm trứng hay mấm ruột, chỉ
lấy trứng hay ruột cá để làm mấm riêng, ăn
rất béo ngon. Nhà nghèo chỉ
ăn được mấm cá sặc, cá linh. C̣n trung b́nh mà ăn được
mấm thái, nghĩa là lấy thịt mấm cá lóc mà thái
nhỏ ra ăn sống, đó cũng là ngon lành sang
trọng lắm rồi. C̣n
các loại mấm chưn, mấm kho hay lẫu mấm là
rất b́nh dân. Mấm và rau là
ăn rau sống, bung sún, dừa khô nạo ra trộn
lại, đổ nước mấm kho vào trong chén riêng và ăn
th́ tuyệt, bao nhiêu bát cơm cũng hết. Nông dân chỉ cần ăn cho no để
có sức làm việc. Chủ điền
thương th́ cho ăn mấm, đầy đủ dinh
dưởng v́ giàu protein,
thứ protein mà cơ thể dễ tiếp thu nhanh
chóng. Nếu mỗi tuần ăn
được một bửa mấm th́ người
Việt Nam miền Nam cảm thấy ḿnh không xa quê
hương bao giờ.
Người miền Trung và miền Bắc độc
đáo nhất có mấm tôm rất ngon, và có vị chua. Người miền Nam có mấm
khía cũng rất b́nh dân v́ rẻ tiền hơn mấm
cá. Nhưng lưu hành và
giữ được lâu là mấm ruốt lấy từ
hải sản. Như mấm
cá linh bắt từ trong sông theo mùa nhất định,
thật nhiều và ăn tươi không kịp nên phải
làm mấm, nhưng mấm cá linh chỉ dùng để kho mà
thôi, và đặc biệt có nhiều chất dầu nên
không mấy tinh khiết.
Mấm nêm chỉ dùng làm thức chấm v́
hương vị đặc biệt của nó, nhất là ăn
cùng các thứ gỏi, thịt ḅ tái, bê thui...Chắc quí
vị c̣n biết những thứ cá mà ta dùng, như chả
cá Thăng Long, cá nướng trui, cá bộc đất sét
rồi nướng, và cá kho tộ, chắc chắn
người Trung Hoa không dùng.
Trong bài viết về “Cá Rô Mè Kho Tộ” của
một người vùng Mỹ Tho/Bến Tre cũ, các
bạn thấy công phu và độc đáo của nó,
nhất là phải dùng với rau lan luộc, ăn mới
bùi ngon. Người Trung Hoa ăn rau luộc, nấu canh,
rau xào chín; người Việt Nam ăn rau sống, rau chua,
rau luộc hay nấu canh.
Nấu canh hay rau luộc, có người làm cho hơi
sống, nghĩa là vừa chín nhưng không mềm rệu, nhưng
có thứ phải nấu cho rụt, hầm lâu chỉ để
lấy nước ngọt như của cải trắng
chẳng hạn. Những
thứ như cà rốt (do Âu châu chuyển sang) hay các hoa
quả màu đỏ th́ nên dùng sống mới có chất ca
rô ten mà ta cần để chống oxy hóa. Rau sống và rau chua là hai thức
ăn đặc biệt Việt Nam. Ta cần ở rau sống ngoài chất sơ c̣n
chất xanh của rau, giúp cho ruột giữ được
nhuận trường, mềm mại, chống các bệnh
ung thư ruột hay trĩ.
Rau chua cũng thế.
Rau chua c̣n cấy vào bộ máy tiêu hóa chúng ta một
số lượng men rất cần để chuyển
hóa thức ăn thành thứ dinh dưởng tốt cho
cơ thể. V́ đất
nước chúng ta nằm trong vùng nhiệt đới nên
mùa nóng bức có vị chua làm bửa cơm ngon hơn, nên
dưa cải và canh chua là hai món rất đặc thù. Người Đại Hàn
cũng dùng dưa chua Kim Chi, nhưng trên vùng băng giá đó,
Kim Chi phải có thêm gừng và ớt rất nhiều,
chủ yếu là trử được rau cho mùa đông
của họ. Tôi nhớ có đọc một bài viết về
màu sắc trong thức ăn Việt Nam, dường
như do một người Việt sống ở Pháp
nhiều năm, có thể là Giáo Sư Nhạc Trần Văn
Khê (anh của nghệ sĩ Trần Văn Trạch). Tác giả c̣n nói đến ăn
toàn diện, nghĩa là dùng tất cả giác quan của ḿnh
trong khi ăn. Ngửi
thấy hấp dẫn, nh́n thấy đẹp mắt, nhai
thấy mềm hay dai hay ḍn, vị có đầy đủ
chua cay mặn ngọt và đắn nữa. Trước hết, thức ăn
được tŕnh bày đẹp, được biến
từ nguyên liệu nhiều màu sắc, bắt mắt
người ăn. Rồi đến
có mùi thơm bốc lên từ mỗi loại thức ăn,
từ mỗi loại nước chấm, từ từng
loại rau thơm. Sau đó,
thưởng thức các món mềm như bún, dai như
thịt luộc, gịn như giá sống, có khi nhai những
thứ gịn như đậu phụng, bánh đa
nướng, bánh phồng tôm.
Sau khi ngửi, thấy, nhai, nghe, mới bắt đầu
nếm vị của món ăn.
Các món đều đa vị, chất mặn pha
với chất ngọt, chất đắng có hậu
ngọt, chất chua cũng có vị nồng cay. Hăy thử một cuốn bánh
tráng nem nướng, ngoài giá gịn, rau xà lách, rau thơm, c̣n có
chuối chát, khế chua, chấm nước mấm đường
tỏi ớt pha giấm, hay tương ngọt trộn
với nếp xay. Như
vậy, một món nem nướng, thịt nướng, cá
hấp đem đến cho người ăn có năm hay
sáu vị khác nhau mà tất cả đều hài ḥa, không
vị nào lấn vị nào.
Như thế có phải là sướng khẩu hay
không? Người Việt Nam
ta c̣n có lối dọn ăn có tính cách gia đ́nh nghĩa là
mọi người đều dùng chung nhau những
thức ăn dọn hết ra bàn, ai thích thứ ǵ th́ ăn
thứ đó. Mới nh́n th́
thấy không hợp vệ sinh và không có văn hóa v́ thấy
đủa chen nhau giống như dành dật thức ăn. Nhưng trong gia đ́nh có
người già người trẻ, người lao động
nhiều, người lao động ít, nhưng mọi
người chia sẽ với nhau, lịu cơm gắp
mấm, nhường nhịn cho nhau mà trong bửa cơm
thấy lộ ra không khí đoàn tụ thương yêu
lẫn nhau. V́ vậy, nếu
có khả năng, người làm bếp phải nghĩ
giới nào ăn được ǵ và thích ǵ, như có
người không ăn được cá th́ có món thịt,
người già không ăn được nhiều thịt
hay những thứ quá cứng quá dai th́ cũng có những
thứ dễ nuốt khác như canh rau nấu nhừ,
thịt hầm, cá chưn chẳng hạn. Ba miền dất nước đều có
những món ăn độc đáo riêng biệt. Văn hóa Việt Nam biến thiên
theo đà di dân từ Bắc xuống Nam, từ vùng
lạnh bốn mùa xuân hạ
thu đông đến vùng nóng hai mùa mưa nắng. Ngoài Bắc mà năm nào không đủ
lạnh để thịt đông không đông được
là tai hại cho nữ tướng trong nhà. Miền Nam mà thiếu thịt kho
nước dừa xiêm với dưa giá th́ Tết không ra
Tết. Món thịt kho này không
phải là “kho Tàu” v́ nó chỉ được người
Việt chế biến ra.
Người miền Nam c̣n chế biến các thức ăn
du nhập tới như canh chua từ Campuchia, thịt ḅ
bít tết lại có ướp nước tương tiêu
tỏi trước. Ca ri
Ấn Độ nấu với sửa dê th́ ta cho
nước cốt dừa vào.
Thịt ḅ nay làm thành ḅ bảy món, nhất là chấm
mấm nêm th́ tuyệt. Ngoài
các điều đă nêu, c̣n một khía cạnh khác cũng
cần nêu lên, tuy không mấy ai đồng ư hoàn toàn. Đó là người Việt dùng
thức ăn để trị bệnh. Chúng ta vô t́nh hay cố ư, am
hiểu khoa học hay chỉ làm theo truyền tụng
của dân gian, nhưng ta chọn thức ăn để
nuôi bệnh hay trị bệnh.
Theo thuyết âm dương ngủ hành, ta dung ḥa chua
cay mặn ngọt với nhiệt hàn. Ví dụ, ăn cá trê, cua đinh, thịt vịt
(thuộc hàn) th́ ta dùng nước chấm có gừng
(thuộc nhiệt). [Riêng
việc ăn cá tra, cá vồ, mà dùng gừng sẽ không ăn
được]. Ngoài ra,
người như thế nào th́ phải ăn thức ăn
nào, và ở vùng nào, thời tiết nào th́ có thức ăn
thích hợp. Thí dụ, khi
nấu cháo trắng cho người bị cảm lạnh
(hàn), nghĩa là âm đang thịnh trong người th́
bỏ vào gừng có nhiều dương (nhiệt) để
chế ngự được âm.
Đối với người cảm nắng
(dương thịnh) th́ phải cho ăn cháo hành (nhiều
âm) để chế ngự hạ hỏa. Mùa hè nóng bức cho ta một môi
trường sinh hoạt nặng về dương rồi
th́ nên dùng nhiều canh loăng với nhiều rau nấu
nhừ, và dùng các loại chè các loại đậu hay mè đen. Trái lại vào mùa đông lạnh,
cơ thể cần tăng dương, tăng calo, tăng
chất béo, nên ăn nhiều thịt và mỡ như
thịt đông chẳng hạn. Tóm lại, người Việt chúng ta có thể
tự hào với nền văn minh thực phẩm của
chúng ta. Nếu bất cứ
ở đâu, ta cố gắng cải tiến măi các thức
ăn đặc biệt của chúng ta th́ chẳng
những ta không mất gốc mà c̣n đống góp quan
trọng vào nền văn minh thế giới. BT |