BA MƯƠI
NĂM
Một
Ba mươi năm rồi, anh khác xưa,
mái tóc lưa thưa, sương muối pha.
Chứng tích thời
gian hằn thân thể.
Mấy kiếp một
đời, lết bôn ba.
Mười năm lăng bạt rừng núi cao,
Theo bước
trầm luân: suối, vũng, hào.
Mắt thấy đồng hoang hoa vẫn nở,
Rừng sâu thấp
thoáng nhánh hoa đào.
Mười năm trả nợ kiếp chinh y,
Ân oán mơ hồ
cuộc thịnh suy,
Vàng
thau, lẫn lộn từ nguyên thủy.
Đóng đinh Chúa chịu chết từ bi.
Hai
Ba mươi năm, trời đất chẳng thay,
Vực sâu nước
đọng, vẫn bùn lầy.
Đỉnh cao trí
tuệ ṃ chưa thấy,
Ngôn ngữ loài
người lắm chua cay.
Mười năm học tiếng vượn, thú reo,
ngờ nghi bản thân, trao án
treo,
quan ṭa là chén
cơm nghiệt ngă,
T́nh
thương, lời
thú tội trớ trêu.
Mười năm, một kiếp trả nợ xong,
hận thù, năm tháng
cũng bao dung.
Vinh
quy ngày về, mẹ hoan hỉ.
Phật tổ thương người,
tỏa muôn phương.
Ba
Ba mươi năm, thời dẫu tả tơi,
mây xám đă tan, ngày mới tươi.
Thế giới không chỉ một người khổ,
Biển u sầu, núi sọ cũng
vơi.
Một ngày, thức
dậy bỗng thấy yêu:
Từ cơn ác mộng, nỗi đớn đau,
hận thù vưong vất chừng tan biến,
Ḷng thoáng b́nh
an tựa buổi chiều.
Gặp anh chia
xẻ chút suy tư,
Lắng đọng tâm tư cởi
oán thù,
Chiều sâu địa
ngục không c̣n nữa,
Đỉnh núi mơ
hồ ở thiên thư.
Thường Dzu 6/04