BA MƯƠI NĂM

 

Một

 

Ba mươi năm rồi, anh khác xưa,

mái tóc lưa  thưa, sương muối pha.

Chứng tích thời gian hằn thân thể.

Mấy kiếp một đời, lết bôn ba.

 

Mười năm lăng bạt rừng núi cao,

Theo bước trầm luân: suối, vũng, hào.

Mắt thấy đồng hoang hoa vẫn nở,

Rừng sâu thấp thoáng nhánh hoa đào.

 

Mười năm trả nợ kiếp chinh y,

Ân oán hồ cuộc thịnh suy,

Vàng thau, lẫn lộn từ nguyên thủy.

Đóng đinh Chúa chịu chết từ bi.

 

Hai

 

Ba mươi năm, trời đất chẳng thay,

Vực sâu nước đọng, vẫn bùn lầy.

Đỉnh cao trí tuệ chưa thấy,

Ngôn ngữ  loài người lắm chua cay.

 

Mười năm học tiếng vượn, thú reo,

ngờ nghi bản thân, trao án treo,

quan ṭa chén cơm nghiệt ngă,

T́nh thương, lời thú tội trớ trêu.

 

Mười năm, một kiếp trả nợ xong,

hận thù, năm tháng cũng bao dung.

Vinh quy ngày về, mẹ hoan hỉ.

Phật tổ thương người, tỏa muôn phương.

 

Ba

 

Ba mươi năm, thời dẫu tả tơi,

mây xám đă tan, ngày mới tươi.

Thế giới không chỉ một người khổ,

Biển u sầu, núi sọ cũng vơi.

 

Một ngày, thức dậy bỗng thấy yêu:

Từ cơn ác mộng, nỗi đớn đau,

hận thù vưong vất chừng tan biến,

Ḷng thoáng b́nh an tựa buổi chiều.

 

Gặp anh chia xẻ chút suy ,

Lắng đọng tâm cởi oán thù,

Chiều sâu địa ngục không c̣n nữa,

Đỉnh núi hồthiên thư.

 

 Thường Dzu 6/04