Bật mí chuyện thâm cung bí
sử triều đình đỏ Hà Nội
VNNB, 1/9/00
Hứa Hoành
- "Đời tôi cống hiến cho đảng (chớ
không phải cho tổ quốc), đảng lại tiếc với một người
đàn bà hay saỏ" (Lê Đức Anh tuyên bố lúc cưới vợ bé
tại Hà Nội).
- Rút kinh nghiệm từ vụ Thiên An Môn, VC lập ra hai tiểu đoàn
người Nùng rất thiện chiến để phòng bị. Hiện nay, chúng
đang đóng các con ngựa gỗ (chướng ngại để dẹp các đám
biểu tình), tập luyện đàn áp biểu tình. Đưa Nông Đức
Mạnh lên làm chủ tịch quốc hội bù nhìn (dân Nùng) để
lợi dụng người Nùng. Khi có biến, chính Nông Đức Mạnh ra
lịnh cho các tiểu đoàn người Nùng này sẵn sàng bắn giết
người Việt không chút nương taỵ..
- Sau khi cướp chính quyền vào năm 1945, ông Hồ tha chết cho
Vi Văn Định, Tổng đốc Thái Bình, rồi Hà Đông, một tay
thực dân khét tiếng, để mua chuộc dân Nùng. Ông Hồ và đảng
CS biết rằng kháng chiến còn dài, và tập đoàn của ông còn
lẩn trốn trong chiến khu Việt Bắc, giang sơn của người Nùng
để tìm chỗ an toàn. Lúc đó, ông Hồ sử dụng một toán người
Nùng làm cận vệ (gọi là bảo vệ) gồm những người: Phùng
Thế Tài, Võ Chương, Đinh Đại Toàn, Chu Phương Vương, Hoàng
Văn Lộc Thế An, Đặng Văn Cáp Hoàng Sâm... dưới quyền
chỉ huy của Lê Quảng Ba, vì ông Hồ không tin người Việt.
oOo
Không những đồng bào hải ngoại, nhiều đồng bào trong nước,
cho tới bây giờ vẫn còn rất nhiều người chưa hiểu tâm
địa và mặt mũi của người CS. Những ai chưa từng sống
với CS ngày nào, lại càng dễ sai lầm khi nhận xét về họ.
Nhìn cách tổ chức chính quyền, nhiều người tưởng lầm
rằng các nhân vật giữ những chức vụ quan trọng trong chính
phủ phải là những người có tài, có đức, có khả năng và
quyền hành như các nước tự do khác. Nghĩ như vậy là chưa
hiểu gì về CS. Trong chế độ độc tài đảng trị, nguyên
tắc "Bảo vệ quyền lực (và quyền lợi) của đảng"
mà mỗi đoàn viên khi gia nhập phải long trọng tuyên thệ:
- Tuyệt đối trung thành với đảng CS (thay vì với tổ quốc!).
Lời thề đó là một thứ kỷ luật sắt, một nguyên tắc
bất biến, bất di bất dịch, là một bản án tử hình dành
sẵn cho bất cứ đảng viên nào có hành động làm trái lời
thề đó. Hiểu rõ nguyên tắc ấy, bây giờ chúng ta mới xét
những trường hợp cá biệt để chứng minh. Trước hết là
việc đưa ông Nông Đức Mạnh, một người Nùng lên ghế
chủ tịch quốc hội, đê? thấy rõ hơn về chủ trương
"bảo vệ quyền lực của đảng CS". Trong hiến
pháp VC có ghi: "Quốc Hội là cơ quan quyền lực cao nhất",
nhưng tất cả đại biểu đều là đảng viên, mà "đảng
viên phải trung thành với mọi mệnh lệnh của đảng",
vậy cuối cùng quốc hội cũng chỉ là "công cụ của đảng
CS mà thôi!".
Lời tuyên bố "Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất
nước" chỉ là một khẩu hiệu để mị dân. Đảng viên
đang giữ chức đại biểu quốc hội, "làm trái lệnh đảng,
chỉ còn con đường tự sát", hoặc bị số phận trù
dập, kéo lê cuộc sống vài ba mươi năm trong các nhà tù,
mệnh danh "trại cải tạo" khi được tha? ra... chỉ còn
đủ sức... chờ chết! Đó là trường hợp các ông Vũ Đình
Huỳnh, Vụ trưởng Vụ Lễ tân, từng theo sát ông Hồ nhiều
năm, ông Hoàng Minh Chính, viện trưởng viện Triết học Hà
Nội, thiếu tướng Đặng Kim Giang, phó chủ nhiệm Tổng cục
Hậu cần, Dương Bạch Mai, phó chủ tịch quốc hội... Bề
mặt, chúng ra sức tô vẽ cho chế độ nào là "đoàn
kết, liên hợp, hòa hợp hòa giải, xóa bỏ hận thù", nhưng
bên trong, chúng thi hành những thủ đoạn trái ngược một cách
dã man. Nhớ lại vài trường hợp trong lịch sử cận đại,
lúc còn trong rừng núi Thái Nguyên, ông Hồ lập chính phủ
tự phong ngày 24/8/45. Báo Cứu Quốc, cơ quan tuyên truyền
của tổng bộ Việt Minh loan báo "Chính Phủ Nhân Dân Lâm
Thời thành lập, trong đó có Chu Văn Tấn làm bộ trưởng
quốc phòng... "Chu Văn Tấn có tài và khả năng ra sao mà
được ông Hồ cất nhắc làm bộ trưởng quốc phòng? Chẳng
qua Tấn chi? là một tên du kích theo ông Hồ từ ngày chui rúc
trong hang Pác Bó, và có mặt trong cuộc nổi dậy vài chục tên
lèo tèo mà chúng gọi là "Khởi nghĩa Vũ Nhai" (Thái
Nguyên). Thật ra, Tấn "bị làm bô. trưởng" chỉ vì
hắn là người Nùng, một sắc dân thiểu số ơ? "chiến
khu Việt Bắc". Là người lắm mưu gian mẹo vặt, khi đặt
Tấn vào chức vụ bộ trưởng quốc phòng, ông Hồ và trung
ương đảng có mục đích riêng tự Khi nhiều người thân
cận nêu thắc mắc về việc này "bộ hết người Việt
tài giỏi rồi hay sao lại chọn một "thằng Mán" lên
làm bộ trưởng quốc phòng". Ông Hồ nói:
- Cái đó có lợi cho cách mạng! Khi tuyên bố cuộc kháng
chiến trường kỳ, ông Hồ nhắm vào chiến khu Việt Bắc,
rừng núi trùng trùng điệp điệp để ông và trung ương đảng
chui rúc, lẩn trốn. Tại đây, ông Hồ sẽ nhờ họ cung cấp
nhân lực, vật lực, tài lực, cung cấp lương thực, giúp đỡ,
che giấu... để đảng tồn tạị Ông Hồ chọn vùng núi
rừng thuộc các tỉnh từ Tuyên Quang, Bắc Cạn, Thái Nguyên,
Hà Giang, Cao Bằng... làm chiến khu Việt Bắc. Những ngày
mới cướp chính quyền, ông Hồ dùng hai chữ "Độc lập"
như mật ngọt rót vào tai đồng bàọ Biểu ngữ căng khắp
thành phố "Độc lập hay chết", "nhất định hy
sinh tất cả vì Độc lập". Mọi người hân hoan, hăng hái
"như muốn chết ngay cho đất nước"... Nhưng khi Pháp
tấn công, tự vệ chiến đấu rút lui trước. Còn trung ương
đảng và chính phủ cao chạy xa bay từ mấy hôm trước, để
lại bọn thanh niên "tự vệ thành" từ nhỏ tới
lớn chỉ biết o mèo, đầu chải láng, quần áo thẳng nếp...
ở lại anh dũng đưa mình ra hứng đạn! Không phải tự nhiên
ông Hồ lợi dụng người Nùng, người Thổ được!
Nguyên từ tháng 2/1942, ông Hồ cùng nhóm CS trở về nước
hoạt động trong hang Pác Bó, lúc đó ông chưa có tiếng tăm
gì. Bọn người Nùng, Thổ coi nhóm đó chẳng qua như "thổ
phỉ". Xưa nay, vương quốc người Nùng độc lập. Họ
cai trị theo truyền thống cha truyền con nối, coi quan châu như
một lãnh chúạ Hàng ngày, nhóm thủ túc ông Hồ đi rừng hái
bắp, đào khoai trộm, săn thú rừng của họ... bị họ phản
đối dữ dộị Khi quyền lợi vật chất bị va chạm, người
Nùng phản ứng mãnh liệt. Những cuộc chạm trán, đụng dộ
xẩy ra luôn. Thấy nhiều người Kinh xuất hiện trên lãnh
thổ mình với thái độ khả nghi, các Thầy Mo Nùng rỉ tai dân
chúng:
- Thằng Kinh nó xui người Thổ đi lính chết cho chúng nó!
- Nó lấy con bò, con trâu, vào nương bẻ trộm bắp, đào
trộm khoai của chúng tạ.. Trước thái độ thù nghịch ấy,
ông Hồ tìm cách mua chuộc ho. để được an toàn tánh mạng.
Ông tìm cách hòa giải mối thù, và lôi kéo họ về với đảng
của ông. Trước tiên, ông tự xưng "Ké Hồ" (tiếng
Thổ là chú hay bác) và chọn Chu Văn Tấn, con quan Châu người
Nùng gốc Cao Bằng, làm bộ trưởng quốc phòng. Từ đó, người
Nùng đổi thái độ, từ thù hận ra hợp tác, ra công phục
vụ cho đảng ông Hồ. Lựa trong số những người Nùng, Thổ
nhanh nhẹn, thông minh, ông Hồ đào tạo thành đảng viên CS
như Chu Phương Vương phong làm huyện ủy châu Chiêm Hóa, Lê
Quảng Ba làm trung đội trưởng... Vốn thật thà, lại được
tuyên truyền nhồi sọ rằng "khi cách mạng thành công, đời
sống người Nùng, Thổ sẽ được ấm no, sung sướng. Thật
ra, họ không biết gì về mấy chữ "Độc lập, Tự
do" như người Kinh ở đồng bằng.
Sau khi về thủ đô Hà Nội và ra mắt chính phủ tự phong vào
ngày 2/9/1945, ông Hồ vẫn sử dụng những người thiểu số
làm kẻ bảo vệ cho mình. Lúc đó kề cận ông có Đàm Quang
Trung, Đàm Minh Viễn. Về sau, năm 1954, Nguyễn Lương Bằng
tổ chức một trung đội bảo vệ gọi là "Trung đội
41" gồm 8 người thân tín, trong đó 2/3 là dân Nùng, Thổ.
Có người lại kể rằng, 8 nhân vật này được ông Hồ đặt
tên mới, bắt đầu bằng 8 chữ "Trường Kỳ Kháng
Chiến Nhất Định Thắng Lợi". Các người đó là:
- Võ Chương đổi thành Võ Trường.
- Vũ Chuân đổi thành Vũ Kỳ.
- Nguyễn văn Lý trở thành Hoàng Hữu Kháng.
- Nguyễn Hữu Văn thành Tạ Quang Chiến.
- Hoàng Văn Phúc đổi thành Hồ Văn Nhất.
- Chu Phương Vương trở thành Võ Viết Định.
- Nguyễn Quang Chí mang tên Hoàng Viết Thắng.
- Trần Đình đổi thành Trần Văn Lợi.
Có một điều đáng lưu ý là các họ tên người Nùng, Thổ
trơ? thành họ tên người Kinh. Lúc đó vào khoảng tháng 3 năm
1947, được rèn luyện trong trường "Công nhân" bên
Nga, ông Hồ rất thạo kỹ thuật ngụy trang và bảo vệ bản
thân như một lãnh tụ. Trường ấy về sau nhiều bọn
CS lấy le, gọi "Trường Đại học Đông Phương", và
bọn Tàu Cộng còn thêm thắt là "Học viện Đông Phương".
Trình độ đa số học viên mới ở bậc tiểu học, hay vừa
thoát nạn mù chữ mà tôi đã từng gặp và nói chuyện".
(Lời ông Nguyễn Ngọc Nga, cựu giáo sư Nga văn trường đại
học ngoại giao Hà Nội).
Vốn tính đa nghi như Tào Tháo, ông Hồ không chọn người
Kinh làm bảo vệ vì sợ bị mua chuộc, phản bộị "Hồi
đó, người Nùng, người Tày biết mẹ gì chủ nghĩa Mác Lênin,
mà họ cũng không thiết tha gì với mấy cái nhãn hiệu "Độc
lập, Tự do" của đảng CS ra sức tuyên truyền (Nguyễn
Ngọc Nga).
Vấn đề thời sự hiện nay là đưa một người Nùng tên Nông
Đức Mạnh lên làm chủ tịch quốc hội bù nhìn, là một âm
mưu thầm kín của đảng CS. Đó là lý do bên trong của việc
cất nhắc một " tên Mán" lên làm chủ tịch một cơ
quan quyền lực nhất nước ta". Nông Đức Mạnh được
đảng chỉ định, quốc hội bo? phiếu bầu "cuội"
cho có hình thức và Nông Đức mạnh đều đắc cử vẻ vang
với 98% số phiếu.
Nhiều người chưa hiểu CS. suy luận rằng sở dĩ VC chọn Nông
Đức Mạnh lên làm chủ tịch Quốc hội chỉ vì Mạnh là con
rơi của Hồ Chí Mịnh với một cô gái làng Thượng lúc ông
ta còn ẩn náu trong núi rừng Việt Bắc. Các đồng hương chưa
quên cuộc biểu tình của hàng vạn sinh viên trước công trường
Thiên An Môn, Bắc Kinh. Có mấy vạn sinh viên đại học
xuống đường, tranh đấu đòi tự do dân chủ. Họ căng
biểu ngữ, hô hào bất bạo động. Ho. cắm trại, ăn ngủ
tại chỗ với mục đích cương quyết liều chết để tranh
đấu cho tự dọ Trước tình thế có vẻ trầm trọng, liên
hệ đến sự an nguy của đảng CS, nhà cầm quyền CS họp và
quyết định "đàn áp không khoan nhượng". Bắc Kinh lúng
túng trong sự lựa chọn các đơn vị quân độị Binh sĩ người
Hán, chắc chắn họ sẽ không nổ súng vào đám biểu tình
tay không dù có lệnh. Nếu cưỡng bách, có thể xẩy ra tình
thế nguy hiểm: "Ho. sẽ quay súng bắn lại bọn cầm
quyền!". Biện pháp cuối cùng, chính Giang Trạch Dân điều
động sư đoàn từ Mãn Châu về Bắc Kinh đàn áp. Thuộc dòng
ngoại tộc, quân đội Mãn Châu xả súng bắn vào đám người
không có phương tiện tự vệ một cách dã man. Chiến xa của
họ cứ cán lên bất cứ ai cản đường. Máu nhuộm đỏ cả
quãng trường Thiên An Môn. Hàng trăm người chết liền tại
chỗ. Hàng ngàn người bị thương, máu me lênh láng. Các lãnh
tụ sinh viên bị bắt, trói thúc ké, hành quyết như tộị..
phản quốc!
Nô lệ Nga, Tàu nhiều năm, thấy quan thầy làm gì, VC "sao
y bản chánh" không cần suy nghĩ... Tuy vậy, bọn bồi bút
luôn luôn ca ngợi "đảng ta sáng suốt, luôn luôn vận
dụng chủ nghĩa Mác Lê một cách sáng tạo, nhuần nhuyễn...",
rồi bê nguyên xi "vụ cải cách ruộng đất" ở
miền Bắc vào năm 1955, giết oan hàng triệu người. Bây
giờ với 2 tiểu đoàn thiện chiến người Nùng (gần 1000 người)
sẵn sàng làm nhiệm vụ Thiên An Môn mới, khi có biến động.
Chọn Nông Đức Mạnh, CS muốn nặn ra "một ông vua Nùng
để sai khiến và lừa bịp dân Nùng cùng đồng bào thiểu
số khác". Bọn binh lính Nùng, khi thấy "ông vua Nông
Đức Mạnh" ra lệnh, mặc sức "bóp cò" vì có
phải cùng dòng giống với họ đâu mà khoan nhượng? Còn Nông
Đức Mạnh cũng sung sướng... ngỡ ngàng. Chính hắn cũng chưa
biết đó là họa hay phúc? Biết mình làm kép đóng trò, nhưng
nếu đóng không đúng bài bản, hay "cương" có thể
mất mạng như chơị Mỗi lần công du, thăm quốc gia nào,
Mạnh có người thông dịch là bí thư đảng bộ, mớm ý,
mớm lờị Trung ương đảng chỉ muốn Nông Đức Mạnh đóng
trò "một cách xuất sắc, không được tùy tiện, hay có
sáng kiến gì... Vi phạm các điều ấy là tự sát. Khi được
tin Nông Đức Mạnh lên làm chủ tịch quốc hội, dư luận
trong nước rất phẫn uất. Tại các quán cà phê, họ công
khai phát biểu:
- Bộ hết người rồi sao chọn "thằng Mán" lên làm
chủ tịch quốc hội?
- Nông Đức Mạnh có khả năng, đạo đức gì được làm
chủ tịch quốc hội?
Chúng tôi xin kể lại một trường hợp khác trong lịch sử
đê? chứng minh rằng "nguyên tắc bảo vệ quyền lợi và
quyền lực của đảng trước sau như một". Trường hợp
ấy là Tổng đốc Vi Văn Định. Cho tới nay, nhiều người
vẫn còn thắc mắc tại sao Hồ chí Minh không những tha chết
cho Tổng đốc Vi Văn Định, một kẻ bị dân chúng ta thán,
nguyền rủa và đảng của ông Hồ kết tội là "phản động,
đại Việt gian" mà còn biệt đãi như thượng khách?
Trong khi đó, người ái quốc như Tạ Thu Thâu hay Khái Hưng
chỉ vì thân Nhật (nhưng không làm điều gì có hại cho đồng
bào), hoặc như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi chưa trực tiếp gây
tội ác với dân tộc, lại bị giết một cách dã man? Chúng
tôi muốn nhắc đến nguồn gốc một Tổng đốc người Nùng,
đã lên tột đỉnh danh vọng này để đồng hương thấy rõ.
Tờ báo "Việt Nam Hồn" số 6, ra ngày 1/6/1926, có nói
đến trường hợp Vi Văn Định như sau: "... Lại có lắm
kẻ từ lúc bé, chưa từng thấy ngọn bút mà cũng ngôi cao
chức cả như tuần phu? Vi Văn Định (năm 1926 làm tuần phủ
Phúc Yên), án sát Mai Toàn Xuân. Năm 1929 37, Định làm Tổng
đốc Thái Bình, rất hống hách. Báo chí Bắc Hà, mỗi lần
nhắc tới tên ông, phải trịnh trọng ghi mấy chữ "Kính
bẩm cụ lớn Thái tử Thiếu bảo, Hiệp tá đại học sĩ, thưởng
thụ đệ tam đẳng Bắc đẩu bội tinh, tổng đốc kiêm
tuần phủ Thái Bình..." thì biết quyền hành của ông ta
như thế nàọ Triều đình Huế phong tặng Thái tử Thiếu
bảo tước Phước An Nam. Vi Văn Định sinh trong một gia đình
quan Châu, tù trưởng người Nùng năm 1878 tại Bản Chu, châu
Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Định là con trai quan Châu Vi Văn Lý,
một dòng họ lớn, hậu duệ (bên ngoại) của Nùng Trí Cao, Nùng
Tồn Phúc đời Lý (1010 1225). Vi Văn Lý được triều đình
phong "Nam tước Tràng phái".
Chỉ học lóm chữ nghĩa với mấy ông đồ gọi là "Văn
giai", năm 23 tuổi, Định kế nghiệp cha làm Tri châu Lộc
Bình (1901). Bẩy năm sau, Định được thăng làm Tri phủ Tràng
Khánh và đến năm 1913 làm Thượng tá Lạng Sơn. Con đường
làm quan của Định thênh thang rộng rãi nhờ những hành động
đàn áp các cuộc nổi dậy, chống đối, phục vụ quyền
lợi thực dân Pháp. Năm 1914, lúc mới 36 tuổi, Định là người
thiểu số đầu tiên được bổ làm Tuần phủ (tức Tỉnh trưởng)
Cao Bằng. Trong chính sách dùng người ngoại tộc cai trị
"dân Annam", hai năm sau Pháp chuyển Định về miền xuôi:
- Tuần phủ Phúc Yên 1923-27
- Tuần phủ Hưng Yên 1927-29.
Trong cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng thất
bại, Định cho lùng bắt vô số người tình nghi đánh đập,
tra khảo tàn nhẫn. Nhờ đó, Pháp cho Định thăng Tổng đốc
Thái Bình, một tỉnh lớn nhất miền đồng bằng. Đến năm
1937, khi Tổng đốc Hoàng Trọng Phu ở Hà Đông về hưu, Định
lên thay thế. Lập công lớn với Pháp, được Thống sứ
Bắc Kỳ hài lòng, nên cho Định sang Pháp hai lần để dự
cuộc đấu xảo tại Paris năm 1900 và tại Marseille năm 1922.
Ngoài 3 lần được Pháp ân thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh, Định
còn được triều đình Huế, theo đề nghi. của Pháp, ban thưởng
các mề đay cao quý như:
- Kim khánh hạng nhất
- Kim tiền ngoại hạng
- Ngân tiền hạng nhất.
Ngoài ra, Vi Văn Định còn được các quốc vương lân bang tưởng
thưởng các mề đay như:
- Huy chương "Vạn Tượng và Cây dù
trắng" của Quốc vương Lào.
- Huy chương Hoàng Gia Căm Bốt.
Đối với dân Nùng, Định được kính nể và tôn sùng như
một ông vuạ Mỗi lần Định về thăm quê quán ở Lộc Bình,
dân chúng đón rước như một ông vua về làng. Nhờ chính sách
đó, người Nùng bầy tỏ sự trung thành với thực dân Pháp.
Lập công lớn với Pháp, có nghĩa là gây tội ác nhiều với
dân tộc Việt Nam. Tôi được nghe Cụ Đặng Hữu Thụ,
nguyên Chánh thẩm Tòa Thượng thẩm Saigon trước năm 1975,
hiện định cư tại Pháp, quê ở làng Hành Thiện, Nam Định
kể:
"... Vi Văn Định làm Tổng đốc Thái Bình nổi tiếng
hống hách, nên dân chúng rất sợ. Định bắt quan lại dưới
quyền phải cởi giầy để ở ngoài văn phòng mỗi khi ra
mắt Vi, phạt Tổng lý phải ăn bèo tây (độc bình) khi Vi ra
lệnh vớt mà sau thời hạn, còn thấy sót ở dưới sông. Vi
cấm các hàng rong từ 12:30 đến 14:30 là giờ của Vi ngủ trưa,
không được rao hàng khi quẩy gánh hàng qua dinh của Vị Có
một anh hàng phở gánh, quên mất thời gian ngăn cấm, khi đi
qua dinh Vi rao lớn:
- Phở! Phở! Vi bắt anh hàng phở vào sân dinh, quẩy gánh
phở đi vòng quanh sân, rao lớn:
- "Phở! Phở!" từ trưa đến tối mới cho về. Vi có
người con trai là Vi Văn Lê, đang học Luật tại Pháp, là
bạn của Ông Nguyễn Thế Truyền, Đảng viên đảng "Việt
Nam Độc Lập". Cây đắng sinh trái ngọt chăng? Vào năm
1928 29, Vi Văn Lê hoạt động cho đảng Việt Nam Độc Lập
thời ông Tạ Thu Thâu lãnh đạo!
Khi Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu hưu trí, Vi Văn Định
đổi qua thay thế, trong dân gian có truyền tụng mấy câu:
- "Hoàng trùng đi, vi trùng lạị Suy đi xét lại, vi trùng
hại hơn hoàng trùng". Hoàng trùng, ám chỉ Hoàng
Trọng Phu, con phó vương Hoàng Cao Khải, nổi tiếng hống hách,
con cưng của thực dân Pháp. Phu là con rê? Tổng đốc Đỗ
Hữu Phương ở Nam Kỳ. Giống cha, nhưng Phu ít tàn ác hơn Vi
Văn Định. Vi trùng, ám chỉ Vi Văn Định. Trong dư luận có
người quả quyết ông giáo thụ Nguyễn Đình Đạo đã sáng
tác mấy câu ấy, nhưng Định không tìm được bằng chứng,
tức tối lắm, ra lệnh điều tra, cố tìm được kẻ nào dám
chọc phá Định để trừng phạt. Vi nói với Hoàng rằng khi
bắt được tên vô lại nào đó đã sáng tác mấy câu trên,
sẽ đập chết liền, hoặc cho hắn ở tù mọt gông!
Nói về giai thoại "Nguyễn Thế Truyền tát tai Vi Văn Định",
Cu. Đặng Hữu Thụ có thuật lại như sau: "Ông Nguyễn
Thế Truyền đã một lần viết báo "Việt Nam Hồn"
mắng Vi thậm tệ. Việc ông Nguyễn Thế Truyền tát tai Vi ở
bến đò Tân Đệ, làm dân chúng Bắc Kỳ lấy làm thích thú.
Việc này được một tờ báo khoảng năm 1933 thuật lạị Chúng
tôi có đọc tờ báo này, nay quên mất tên tờ báọ Ngoài ra,
có vài cuốn sách nói về việc này, như cuốn "Gặp gỡ
cuối năm" của Nguyễn Khải, cuốn "Hành Thiện xã chí"
do hội "Hành Thiện tương tế ấn hành".
Bà con ông Nguyễn Thế Truyền có hỏi ông về việc tát tai này
ơ? bến đò Tân Đệ xẩy ra trong trường hợp nào và sự
việc diễn tiến ra sao, ông chỉ cười và không trả lờị Cũng
vì vậy, dân Hành Thiện không ai rõ việc tát tai có thật hay
không? Có người nói ông chỉ dọa tát tai thôi chứ chưa tát
được vì phà vừa quay trở lại, và vừa cập bến, thì xe
của Vi Văn Định xuống phà ngay, và phu phà liền đưa phà
sang sông. Có người nói ông Truyền quen thân sinh viên Vi Văn
Lê, con trai ông Vi Văn Định, lại là đảng viên Đảng "Độc
Lập", không lẽ ông Nguyễn Thế Truyền lại tát tai cha
bạn mình? "Việc tát tai ông Vi Văn Định theo sách báo nói
trên và theo nhiều người kể cho chúng tôi nghe thì diễn
tiến như thế này:
"Vào khoảng năm 1933, tại bến đò Tân Đệ, trên đường
lớn nối liền hai tỉnh lỵ Thái Bình và Nam Định, ông
Tổng đốc Vi Văn Định đi xe hơi riêng, có tài xế lái, từ
phía Nam Định sang Thái Bình. Khi xe hơi đến bến đò, thì phà
đã qua quá nửa sông rồi. Ông Vi Văn Định bảo tài
xế hô phà quay lại, để cho quan Tổng đốc sang sông. Lúc
ấy, ông Nguyễn Thế Truyền đang ngồi trên phà, bảo các phu
phà, cứ tiếp tục đưa phà sang sông, vì phà qua nửa dòng sông,
và đã sang địa phận Thái Bình rồi, ông sẽ chịu hoàn toàn
trách nhiệm. Các phu phà thấy ông Nguyễn Thế Truyền nói có
lý, đang ngần ngừ suy nghĩ, thì tài xế lại hô to, bảo phà
quay lại phía Nam Định. Phu phà sợ quyền uy của Tồng đốc,
cho phà quay lạị Ông Vi Văn Định quát mắng phu phà là
"sao không cho phà quay lại ngay, để đón ông, mà còn
ngần ngừ một chút, để tài xế phải hô lần thứ hai mới
cho phà quay lạỉ" Các phu trình bầy lý dọ Ông Vi Văn Định
nổi nóng mắng ông Nguyễn Thế Truyền là "một tên dân
vô lễ", muốn ở tù hay sao mà dám cả gan cho phà tiếp
tục... Ông Vi Văn Định hỏi ông Nguyễn Thế Truyền tên là
gì, ở đâu, dám cãi lý với ông, và nắm tay định đánh ông
Nguyễn Thế Truyền. Ông Truyền liền xưng rõ tên họ, cùng
địa chỉ và tát ông Vi Văn Định hai cái tát tai thật mạnh
trong khi Vi Văn Định chưa kịp ra taỵ Ông Truyền nói sẽ cho
Thống sứ Tholance biết việc lạm dụng chức vụ của ông Định.
Nghe tên ông Nguyễn Thế Truyền, Vi Văn Định tái mặt, nhẩy
lên xe hơi, giục tài xế lái xuống phà liền, và không có
phản ứng nào đối với hành vi của ông Nguyễn Thế Truyền...
(Sách "Nhà Cách mạng Nguyễn Thế Truyền" trang 296).
Khi việc cướp chính quyền xẩy ra năm 1945,
ông Hồ không giết Định, mà còn giấu ông Định trong một
biệt thự ở Hà Nội, đãi ngộ như khách quý chỉ vì Định
là một "ông vua Nùng" mà ông Hồ và đảng của ông
còn cần đến sự giúp đỡ, che chỉ của người Nùng sau nàỵ
Đồng thời cũng có người suy luận rằng "sở dĩ ông
Hồ tha chết cho Vi Văn Định, một tên Việt gian đại phản
động cũng vì Vi Văn Định là nhạc phụ của hai nhà đại
khoa bảng đang phục vụ trong chính phủ của ông ta: "Bác
sĩ Tôn Thất Tùng và bác sĩ Hồ Đắc Di (1). Hai ông Tùng và
Di đều là rê? đông sàng của Vi Văn Định, vì Định có hai
người con gái đẹp tuyệt trần. Có người theo kháng chiến
ngoài Bắc cũng xác nhận như thế. Tôn Thất Tùng sinh năm
1912, tại Thừa Thiên, tốt nghiệp Y khoa Bác sĩ tại Pháp,
nổi tiếng về môn giải phẫu tim, gan. Về nước, Tôn Thất
Tùng làm giám đốc bệnh viện Phủ Doãn, Hà Nộị Tùng theo
kháng chiến, được Hồ chí Minh cử làm Thứ trưởng bộ Y
tế và làm giáo sư dạy trường Đại học Y khoạ Tôn Thất
Tùng được các quốc gia Đông Đức, Trung Cộng và cả Mỹ
mời đến thuyết trình về chuyên khoa giải phẫụ Sau khi qua
Mỹ về, ông Tùng chết một cách khả nghi tại Hà Nội năm
1982! Một nhà văn kháng chiến tập kết ra Bắc, làm giáo sư
Nga ngữ tại đại học Ngoại giao là ông Hoàng Quốc Kỳ kể
lại rằng: "... Ngày ở Việt Bắc, được tin vợ Tôn
Thất Tùng sinh đứa con đầu lòng, Hồ vất hết công việc
chỉ huy kháng chiến, trèo đèo, lội suối đi thăm tức thì...
chỉ vì vợ Tùng là cành vàng lá ngọc, thuộc dòng dõi Vi Văn
Định. Vợ Tôn Thất Tùng đẹp lắm, không khác gì tranh vẽ
những mỹ nữ Hy Lạp thời xa xưạ.."
("Ma đầu HCM" của Hoàng Quốc Kỳ trang 15). Bác sĩ
Hồ Đắc Di cũng là một khuôn mặt lớn của giới y khoa,
từng làm hiệu trưởng trường Y khoa Hà Nộị Ông Di xuất
thân trong một gia đình danh giá tại Hà Tĩnh, chào đời năm
1901. Ông Di là con trai của Thượng thư Hồ Đắc Trung (nhạc
phụ của vua Khải Định), em của ông Hồ Đắc Khải, Thượng
thư Bộ Lại của triều đình Huế. Em ruột ông là Hồ Đắc
Điềm, Tổng đốc Hà Đông, còn anh là Hồ Đắc Liên, Kỹ sư
mỏ và địa chất. Ông Di còn một người em nữa là Hồ Đắc
An, Tiến sĩ Dược khoạ Ông Di từng là sinh viên nội trú
bệnh viện Paris, có trước tác nhiều sách y khoa có giá trị.
Vi Văn Định bị bắt liền ngay khi Việt Minh cướp chính
quyền (1945), nhưng vì sự sống còn của ông Hồ và đảng
của ông sau này, nên ông buộc lòng không giết Định, mà còn
lén lút giấu ông Định trong một biệt thự sang trọng (như
trường hợp Trường Chinh đem mẹ lên ở trên Hà Nội, phục
dịch như bà hoàng trong thời "Cải cách ruộng đất"
mà dư luận đồn là Trường Chinh đấu tố cha mẹ. (Việc này
xin xem thêm sách đã dẫn của Hoàng Quốc Kỳ).
TRƯỜNG HƠ.P LÊ ĐỨC ANH: ÔNG LÀ AI?
Nói về Lê Đức Anh ít ai biết rõ ông hơn là người đã
từng phục vụ với ông trong nhiều năm. Người đó là ông Dương
Đình Lôi, nguyên trung tá trung đoàn trưởng pháo binh và
huyện ủy huyện Củ Chị Trong thư riêng cho tác giả, ông Lôi
viết:
"... Nhớ lại hồi cuối năm 1948 tôi đang học ở trại
Đồng Tư? Quân của trung đoàn 300 Dương Văn Dương tại Mũi
Bần, trong khu rừng Chà là, xã Đông Hòa, quận Nhà Bè (rừng
Sác). Một hôm, có hai liên lạc hỏa tốc của trung đoàn
xuống gặp ban giám đốc do Hoàng Ngọc, chính trị viên đại
đội phụ trách. Họ đưa ra chỉ thi. rút tôi và một thằng
bạn nữa về văn phòng có việc cần. Đồng Tử Quân là tổ
chức theo quân ngũ từ tiểu đoàn, đại đội, trung đội,
tiểu đội theo qui chế tự quản, mà tôi được chỉ định
làm chính trị viên cho toàn trại, thằng Lên làm đại đội
trưởng, thằng Phước, con Kỳ Huỳnh (chi đội trưởng chi đội
21) làm đại đội phó.
Năm 1949, CS tảo thanh Bình Xuyên, Tư Hoạnh, chi đội trưởng
và Kỳ Huỳnh, chi đội phó đều bị CS sát hại bằng cách
neo đá cho "mò tôm" trên sông Lòng Tảọ Tại khu 7 (tức
các tỉnh miền Đông Nam Phần), có tổ chức các trường
thiếu sinh quân như sau:
- Trường Thiếu sinh quân liên trung đoàn 301/310.
- Trường thiếu sinh quân liên trung đoàn 306/312. Trường
thiếu sinh quân trung đoàn 308 tức trung đoàn Nguyễn An Ninh.
Riêng thiếu sinh quân của trung đoàn 300, vì có các em nhỏ
từ 9 đến 12 tuổi, nên gọi "Đồng Tử Quân". Khi lên
văn phòng, tôi gặp Tư Huệ, tức chính ủy Nguyễn Việt
Hồng giao cho tôi làm tô? trưởng mật mã. Tôi cầm quyết định
do Hai Bứa ký, điều động về khu, đến trình cho Lê Đức
Anh, tham mưu trưởng, đóng tại Suối Tre, ấp Nhà Mát, Long
Nguyên, cách phòng chính trị một cái "trảng" phía bên
kia con suốị Tôi gặp Lê Đức Anh lần đầu tiên. Ông ta
mặt rỗ, mắt lé, có vẩy cá, trông già lọm khọm. Nhìn
mặt ông ta, lúc đầu tôi hơi ngán, nhưng nói trong bụng
"Ông Nguyễn Bình, ông Phạm Văn Bạch (chủ tịch Ủy ban
HCKC), ông Hà Huy Giáp, bí thư, ông Trần Văn Trà... mình không
sợ, lại sợ cái thằng già này saỏ" Nên tôi khước
từ nhiệm vụ ông mới giao "làm mật mã cho phòng tham mưu".
Tôi nói Tôi mới 17 tuổi, chưa phải công dân. Tôi muốn đi
học văn hóa để vô trường lục quân làm sĩ quan, chớ công
tác mật mã tôi không thích. Lê Đức Anh cười gằn hừ hừ:
- Chú là đảng viên, làm tiểu đội trưởng trong quân đội
thì phải có kỷ luật. Cấp trên phân công ở đâu thì
phải làm. Tôi cũng cứng cựa:
- Em chưa phải là lính chính thức. Ông ta cười hì hì:
- Chưa chính thức mà đã có cấp bậc, lại là đảng viên
phải phục tòng. Cuối cùng ông nói:
- Bây giờ chưa có lớp học. Khi nào có, phòng tham mưu sẽ xét
cho đi học. Bây giờ phải phục vụ. Chiến dịch đang cần
người! Thế là từ đó tôi nhận nhiệm vụ làm công tác
mật mã, trực thuộc ban văn thư phòng tham mưu do ông Lê Văn
Nhứt (anh em với Lương Văn Nho tức đại tá Võ Đông Giang bây
giờ), gốc ở chi đội 6, làm trưởng ban. Phòng tham mưu bộ
tư lệnh Nam Bộ bấy giờ gồm có:
- Lê Đức Anh làm tham mưu trưởng
- Nguyễn Văn Lung tức Ba Lung làm tham mưu phó, kiêm trưởng
ban tác huấn. và các ban như: nhân sự, trang bị, cấp dưỡng,
ban công binh, ban thông tin (Tám Danh), ban văn thư (do Phạm Xuân
Hoàng tức Ba Hoàng làm trưởng ban), ban quân báo, ban hậảu
cần (do Hai Hường làm trưởng ban)...
Hàng ngày, tôi cầm tập công văn vừa dịch xong, đem trình
cho Lê Đức Anh hoặc Trần Văn Trà. Lê Đức Anh có hai đứa
nhỏ phục dịch, thằng "Lộ đẹt" và thằng "Uyển
mắt lèm nhèm" như ông ta. Ở đây có ông Hai Lắm sún
răng làm bí thư cho ông Ba Tô Ký, lúc đó văn phòng tỉnh
hội Gia Định đóng gần phòng tham mưụ Ba Tô Ký có thằng
em hơi khật khùng, được giữ ngựa và làm lính gác trong đội
cảnh vệ tỉnh. Chúng nó nể tôi vì tôi có súng carbine riêng
(do thằng Paul, con ông Bẩy Viễn tặng lúc tôi và Paul gặp
nhau ở bệnh xá ông Tư Cao, khu rừng Bà Bông).
Lân la tìm hiểu đời tư, tôi được biết "Lê Đức Anh
sinh năm 1921 tại Thừa Thiên. Mới 16 tuổi, học chưa hết
lớp 3 trường làng, vì nhà nghèo, bỏ nhà theo một người
cai mộ phu đồn điền vào Nam tha phương cầu thực. Vào Nam,
Lê Đức Anh được gởi đến làm phu cạo mủ cao su đồn điền
Hớn Quản, tức tỉnh Bình Long sau nàỵ Truớc khi đi làm, Anh
có ký giao kèo, lãnh một số tiền trước để lại cho cha
mẹ, nên thời đó người ta gọi là "dân công tra".
Khi đưa Lê Đức Anh làm chủ tịch nước, VC phô? biến tiểu
sử: "Năm 16 tuổi, đồng chí vô Nam làm trong đồn điền
cao su, để tổ chức nghiệp đoàn". Là một cậu bé nhà
quê, mới 16 tuổi mà vô Nam "tổ chức nghiệp đoàn"?
Đọc xong, chúng ta thấy CS giấu đầu hở đuôi! Đời
sống của phu đồn điền bị thực dân bóc lột tàn nhẫn:
ăn không đủ no, bệnh thiếu thuốc men, lại còn bị cặp
rằng đánh đập như súc vật. Lợi dụng tình trạng ấy, cán
bộ CS xâm nhập rỉ tai tuyên truyền: kêu gọi đình công,
đưa yêu sách cải thiện đời sống. Năm 1936, nương theo đà
Mặt Trận Bình Dân cầm quyền bên Pháp, tuyên bố cải
thiện chế độ thuộc địa, cu ly các đồn điền cao su
miền Đông nhiều lần biểu tình đòi giảm giờ làm việc, tăng
lương, đau bệnh được nghỉ có tra? lương... Tờ báo "EÙcho
Annamite" ở Saigon có đăng một bức thư của một công nhân
gốc Quảng Nam tố cáo như sau: "Trước 5 giờ, còn tối
mịt, chúng tôi xếp hàng đi làm. Những người đến chậm
hay còn ngái ngủ, bị đánh đập bằng những cú ba toong
thật mạnh, để đừng có đến chậm nữa... "Thay vì
chỗ ở đủ tiện nghi như đã hứa hẹn, chúng tôi bị dồn
vào những lều tranh. Chỗ nào cũng thấy nước chẩỵ Suốt
đêm chúng tôi phải ngồi xổm, không đèn đóm gì cả và ướt
lạnh thấu xương. Sau một tuần lễ sống ở địa ngục này,
tôi tìm cách trốn đi. Nhưng hôm sau bị bọn Mọi bắt tôi
lại, đánh đập, lột quần áo đem nộp cho chủ đồn điền
để lãnh tiền thưởng... "Hoàn cảnh áp bức bóc lột
ấy chính là môi trường lý tưởng để CS tuyên truyền. Họ
"vẽ" ra đời sống của người công nhân ấm no, sung
túc, "làm chủ", cả đồn điền nghe bùi taị (2)
Tại Saigon, một nhà báo khuynh tả sớm nhất Nam Kỳ là Trần
Hữu Độ, quê ở Càng Long, tỉnh Trà Vinh, là dượng rể
của Trần Bạch Đằng (Trương Gia Triều) viết báo tố cáo
chế độ thực dân, khêu gợi sự bất bình của dân chúng.
Ông còn viết các sách "Hồi trống tự do", "Tờ
cớ mất quyền công dân", "Biện chứng pháp"...
khiến cho Pháp bắt đầu lo ngại CS xâm nhập. Nhật đảo
chính Pháp (9/3/45), rồi Nhật đầu hàng Đồng minh, tình
trạng Việt Nam như ngôi nhà vô chủ. Sẵn cơ hội ấy, Việt
Minh trương cờ đỏ sao vàng "cướp chính quyền"
khắp nơị Đê? có quân đội, khắp nơi ở Nam Kỳ, dân chúng
tự động võ trang chiến đấụ Họ lập ra 25 chi đội, mỗi
chi đội từ 400 đến 1000 quân du kích. Thoát cũi sổ lồng
từ biến cố đó, Lê Đức Anh gia nhập chi đội 10 của
tỉnh Thủ Dầu Một Chúng tôi sẽ kê? lại tất cả 25 chi đội
này trong một dịp khác. Địa bàn hoạt động của chi đội
10 là vùng Dĩ An, Tân Uyên, Biên Hòa ra tới Long Thành. Đầu năm
1946, Nguyễn Bình vào Nam, phong cho Huỳnh Văn Nghệ làm khu trưởng
khu 7, Ba Lung làm khu phó và Lê Đức Anh làm tham mưu trưởng.
Lúc nay Lê Đức Anh mới lấy người vợ tấm mẳn là bà Sáu
Cẩm, hội trưởng hội phụ nữ tỉnh Thủ Dầu Một...
"Năm 1954, Lê Đức Anh tập kết tại Hàm Tân, Xuyên Mộc
để ra Bắc. Phân khu miền Đông chỉ vỏn vẹn có 1 tiểu đoàn
chủ lực. Ra Bắc, Lê Đức Anh được phong đại tá. Mười năm
sau, Lê Đức Anh lại xâm nhập trở về Nam. Ông Dương Đình
Lôi kể lại: "Tháng 10/64, tôi trở về Nam, gặp lại Lê
Đức Anh, lúc này gọi là ông Sáu Nam tại bộ chỉ huy các
lực lượng vũ trang MTGPMN đóng ở Ta Bon, phía Nam đồn điền
cao su Mimot tỉnh Kompongcham, Cao Miên. Ông Sáu Nam tóc đã bạc,
lưng hơi khòm, nước da mét vì ở rừng, nhưng hai mắt vẫn lèm
nhèm, nói năng hử hử hỉ hỉ. Ông làm thu? trưởng B2, tức
cục Tham mưu của R. Bây giờ tướng ông ốm và cao (khoảng
1m7), đầu to, sọ khỉ dài, mái tóc bạc trắng. Cũng lần này,
tôi gặp một đứa bé chào đời ở chi khu Long Xuyên năm xưa,
con gái bà Sáu hội phụ nữ và ông Lê Đức Anh. Mặc dầu lúc
ấy ông làm tới chức đại tá, nhưng bị bà vợ lớn cắt
đứt quan hệ vì bội bạc. Bà bỏ lại đứa con gái 16 tuổi
tên Lê thị Thanh Tuyền cho ông, để gọi chút tình máu mủ...
cha con. Nhưng con bé có học, không gọi ông bằng "ba"
và chỉ gọi "ông Sáu Nam" như mọi người trong cơ
quan. Là người được học rất ít, chữ viết Lê Đức Anh
rất lớn, mập và tròn như đứa con gái óc mít (?). Nhìn nét
chữ biết là của ông ngaỵ Ông chỉ là đảng viên thường.
Lúc ra Bắc, ông lấy vợ lẽ, là một cô nữ sinh Hà Nội, nên
bi. "đì suốt 10 năm". Trong chiến dịch HCM chiếm
miền Nam, Lê Đức Anh được đề bạt lên thiếu tướng,
rồi trung tướng. Nam 1979, Lê Đức Anh được phong làm thượng
tướng, tư lệnh chiến dịch Campuchia, và cuối cùng được
thăng đại tướng.
"Hồi tưởng lại vào năm 1949, có lần
tôi gặp các bà vợ của mấy "ông lớn": "Một hôm
tôi có dịp đi ngang qua lán (trại) của mấy bà, bất ngờ tôi
thấy một lô bà bầu trong đó. Tôi bước vào để kiếm măng
le và mắm ruốc về ăn, thì thấy bà Sáu Cẩm, vợ Lê Đức
Anh, hội trưởng phụ nữ Thủ Dầu Một mang bầu và một bà
nhỏ hơn, nhưng mang "cái trống chầu tổ chảng" là
vợ của ông ba Tô Ký. Còn một bà to con, xinh xinh cũng có
bụng nở phình là vợ ông Ba Khịt, tức Ba Lung, (đại tá),
tham mưu phó. Vợ Tô Ký là con nhà giầu, người Việt gốc
Hoa, lúc làm đám cưới rất linh đình. Riêng món heo quay, có
đến hàng chục con, bộ đội ăn tràn họng, lấy thịt heo
chọi với nhau, như đất cục. Cuối năm 1949, xẩy ra chiến
dịch Bến Cát, còn gọi là chiến dịch Lê Hồng Phong. Trần
Văn Trà cử Lê Đức Anh làm tư lệnh mặt trận, Tô Ký làm
chánh ủy và Ba Xu, tức Trần Đình Xu (phu đồn điền cao su
xuất thân) làm TMT". Hàng ngày tôi ở văn phòng, lo dịch
các công điện và liên lạc với các mặt trận đường 13.
Chiến dịch thành công bắt được mấy xe hàng chở gạo từ
Chơn Thành đi Hớn Quản. Đổi lại, chiến dịch này "nướng
gần sạch" hai tiểu đoàn 302 và 304 ở mặt trận Bến Súc.
Số binh sĩ bị thương từ 200 đến 300 người, nằm rải rác
trong rừng từ Đường Long, Thanh Tuyền tới cầu sông Thị Tính.
Quân Pháp nhẩy dù xuống Nhà Mát (Long Nguyên), rượt bộ
chỉ huy chiến dịch chạy thục mạng tới Bà Tứ. Lần đó,
pháo 155 ly và 105 ly ở Bến Cát dập tơi bời.
Tôi nhớ có một lần văn nghệ nhân dịp Tết năm 1950, do
mấy ông "Tác huấn" bầy vẽ làm cây Noel. Trên cây
Noel gắn nhiều mảnh giấy xếp, các ông lớn tham gia lần lượt
lên rút mảnh giấỵ Ai bắt được mảnh giấy phải đọc to
và làm đúng lời ghi trong giấy như: hát một bài, ngâm thơ
hay làm một trò hề.. Lần đó, hai ông Sáu Nam và Ba Lung, trưởng
phó phòng tham mưu lên một lượt. Sáu Nam kêu Ba Lung rút trước
đại diện. Ba Lung vạm vỡ, hơi lùn, nói chuyện cứ khịt mũi,
có lẽ bị chúng phùng còi (?), còn tham mưu trưởng hai mắt lèm
nhèm, nói chuyện một hai tiếng, cứ "hỉ", "hử"
ở cuối câụ Ba Lung cầm tờ giấy cứ khum lưng cười hoàị
Bên dưới có tiếng vỗ tay động viên:
"Đọc lên! Làm đi!" Cuối cùng Ba Lung đọc chữ:
- Hai người làm ngựa cho ông ba Tô Ký với chị Năm Bi nhẩy
với nhau! Ba Lung kêu Sáu Nam khum xuống, nhưng ông này cao quá,
Ba Lung không chịu khum. Cuối cùng, hai người xin phép làm trò
khác. Trò "cầm c. cho chó đái" rồi hai ông đứng giơ
một chân vào gốc cây Noel làm... động tác ấỵ"
Sau này bọn trẻ trong ban mật mã nói tới anh ba, anh sáu thường
kèm theo "biệt hiệu":
- Ba Tô hay Ba Chè (Trà), Năm Bi hay nam cà lăm,
năm Ròm... còn Sáu thì phải nói "Sáu Nâu" hay "Sáu
cầm c. chó đái" tức Lê Đức Anh."
Hồi tập kết ra Bắc, tôi nghe mấy bà xầm xì với nhau về
việc Lê Đức Anh lấy vợ bé ở Hà Nội, quên bà hội trưởng
hội phụ nữ Thủ Dầu Một. Không rõ nội bộ đảng phê bình
ông ra sao, nhưng lúc đó báo "Quân đội nhân dân" có
đăng tin "Một đại tá lấy vợ, làm đám cưới chưa
từng có tại Hà Nội". Chị Năm Bi có nói:
- Kể ra ông người Huế đó (Lê Đức Anh) cũng gan. Chính ông
ta, trong lúc bị phê bình, đã nói một câu: "Đời tôi
cống hiến cho đảng (chớ không phải cho tổ quốc), đảng
lại tiếc với tôi một người đàn bà hay saỏ"
Chú thích:
(1) Việc này chúng tôi chưa kiểm chứng vì thiếu tài liệụ
Không rõ ông Di có chắc chắn là rể của Vi Văn Định không?
Kính xin quý vị độc giả vui lòng chỉ giáo.
(2) Xem "Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam: Thực chất
và Huyền thoại" của Nguyễn Văn Trung, Nam Sơn xuất bản
năm 1963, trang 43.
(HẾT)
|