LÊ ĐỨC ANH: ÔNG LÀ AI ?
Nói về Lê Đức Anh ít ai biết rõ ông hơn là người đã
từng phục vụ với ông trong nhiều năm. Người đó là ông Dương
Đình Lôi, nguyên trung tá trung đoàn trưởng pháo binh và
huyện ủy huyện Củ Chị Trong thư riêng cho tác giả, ông Lôi
viết:
"... Nhớ lại hồi cuối năm 1948 tôi đang học ở trại
Đồng Tư? Quân của trung đoàn 300 Dương Văn Dương tại Mũi
Bần, trong khu rừng Chà là, xã Đông Hòa, quận Nhà Bè (rừng
Sác). Một hôm, có hai liên lạc hỏa tốc của trung đoàn
xuống gặp ban giám đốc do Hoàng Ngọc, chính trị viên đại
đội phụ trách. Họ đưa ra chỉ thi. rút tôi và một thằng
bạn nữa về văn phòng có việc cần. Đồng Tử Quân là tổ
chức theo quân ngũ từ tiểu đoàn, đại đội, trung đội,
tiểu đội theo qui chế tự quản, mà tôi được chỉ định
làm chính trị viên cho toàn trại, thằng Lên làm đại đội
trưởng, thằng Phước, con Kỳ Huỳnh (chi đội trưởng chi đội
21) làm đại đội phó.
Năm 1949, CS tảo thanh Bình Xuyên, Tư Hoạnh, chi đội trưởng
và Kỳ Huỳnh, chi đội phó đều bị CS sát hại bằng cách
neo đá cho "mò tôm" trên sông Lòng Tảọ Tại khu 7 (tức
các tỉnh miền Đông Nam Phần), có tổ chức các trường
thiếu sinh quân như sau:
- Trường Thiếu sinh quân liên trung đoàn 301/310.
- Trường thiếu sinh quân liên trung đoàn 306/312. Trường
thiếu sinh quân trung đoàn 308 tức trung đoàn Nguyễn An Ninh.
Riêng thiếu sinh quân của trung đoàn 300, vì có các em nhỏ
từ 9 đến 12 tuổi, nên gọi "Đồng Tử Quân". Khi lên
văn phòng, tôi gặp Tư Huệ, tức chính ủy Nguyễn Việt
Hồng giao cho tôi làm tô? trưởng mật mã. Tôi cầm quyết định
do Hai Bứa ký, điều động về khu, đến trình cho Lê Đức
Anh, tham mưu trưởng, đóng tại Suối Tre, ấp Nhà Mát, Long
Nguyên, cách phòng chính trị một cái "trảng" phía bên
kia con suốị Tôi gặp Lê Đức Anh lần đầu tiên. Ông ta
mặt rỗ, mắt lé, có vẩy cá, trông già lọm khọm. Nhìn
mặt ông ta, lúc đầu tôi hơi ngán, nhưng nói trong bụng
"Ông Nguyễn Bình, ông Phạm Văn Bạch (chủ tịch Ủy ban
HCKC), ông Hà Huy Giáp, bí thư, ông Trần Văn Trà... mình không
sợ, lại sợ cái thằng già này saỏ" Nên tôi khước
từ nhiệm vụ ông mới giao "làm mật mã cho phòng tham mưu".
Tôi nói Tôi mới 17 tuổi, chưa phải công dân. Tôi muốn đi
học văn hóa để vô trường lục quân làm sĩ quan, chớ công
tác mật mã tôi không thích. Lê Đức Anh cười gằn hừ hừ:
- Chú là đảng viên, làm tiểu đội trưởng trong quân đội
thì phải có kỷ luật. Cấp trên phân công ở đâu thì
phải làm. Tôi cũng cứng cựa:
- Em chưa phải là lính chính thức. Ông ta cười hì hì:
- Chưa chính thức mà đã có cấp bậc, lại là đảng viên
phải phục tòng. Cuối cùng ông nói:
- Bây giờ chưa có lớp học. Khi nào có, phòng tham mưu sẽ xét
cho đi học. Bây giờ phải phục vụ. Chiến dịch đang cần
người! Thế là từ đó tôi nhận nhiệm vụ làm công tác
mật mã, trực thuộc ban văn thư phòng tham mưu do ông Lê Văn
Nhứt (anh em với Lương Văn Nho tức đại tá Võ Đông Giang bây
giờ), gốc ở chi đội 6, làm trưởng ban. Phòng tham mưu bộ
tư lệnh Nam Bộ bấy giờ gồm có:
- Lê Đức Anh làm tham mưu trưởng
- Nguyễn Văn Lung tức Ba Lung làm tham mưu phó, kiêm trưởng
ban tác huấn. và các ban như: nhân sự, trang bị, cấp dưỡng,
ban công binh, ban thông tin (Tám Danh), ban văn thư (do Phạm Xuân
Hoàng tức Ba Hoàng làm trưởng ban), ban quân báo, ban hậảu
cần (do Hai Hường làm trưởng ban)...
Hàng ngày, tôi cầm tập công văn vừa dịch xong, đem trình
cho Lê Đức Anh hoặc Trần Văn Trà. Lê Đức Anh có hai đứa
nhỏ phục dịch, thằng "Lộ đẹt" và thằng "Uyển
mắt lèm nhèm" như ông ta. Ở đây có ông Hai Lắm sún
răng làm bí thư cho ông Ba Tô Ký, lúc đó văn phòng tỉnh
hội Gia Định đóng gần phòng tham mưụ Ba Tô Ký có thằng
em hơi khật khùng, được giữ ngựa và làm lính gác trong đội
cảnh vệ tỉnh. Chúng nó nể tôi vì tôi có súng carbine riêng
(do thằng Paul, con ông Bẩy Viễn tặng lúc tôi và Paul gặp
nhau ở bệnh xá ông Tư Cao, khu rừng Bà Bông).
Lân la tìm hiểu đời tư, tôi được biết "Lê Đức Anh
sinh năm 1921 tại Thừa Thiên. Mới 16 tuổi, học chưa hết
lớp 3 trường làng, vì nhà nghèo, bỏ nhà theo một người
cai mộ phu đồn điền vào Nam tha phương cầu thực. Vào Nam,
Lê Đức Anh được gởi đến làm phu cạo mủ cao su đồn điền
Hớn Quản, tức tỉnh Bình Long sau nàỵ Truớc khi đi làm, Anh
có ký giao kèo, lãnh một số tiền trước để lại cho cha
mẹ, nên thời đó người ta gọi là "dân công tra".
Khi đưa Lê Đức Anh làm chủ tịch nước, VC phô? biến tiểu
sử: "Năm 16 tuổi, đồng chí vô Nam làm trong đồn điền
cao su, để tổ chức nghiệp đoàn". Là một cậu bé nhà
quê, mới 16 tuổi mà vô Nam "tổ chức nghiệp đoàn"?
Đọc xong, chúng ta thấy CS giấu đầu hở đuôi! Đời
sống của phu đồn điền bị thực dân bóc lột tàn nhẫn:
ăn không đủ no, bệnh thiếu thuốc men, lại còn bị cặp
rằng đánh đập như súc vật. Lợi dụng tình trạng ấy, cán
bộ CS xâm nhập rỉ tai tuyên truyền: kêu gọi đình công,
đưa yêu sách cải thiện đời sống. Năm 1936, nương theo đà
Mặt Trận Bình Dân cầm quyền bên Pháp, tuyên bố cải
thiện chế độ thuộc địa, cu ly các đồn điền cao su
miền Đông nhiều lần biểu tình đòi giảm giờ làm việc, tăng
lương, đau bệnh được nghỉ có tra? lương... Tờ báo "EÙcho
Annamite" ở Saigon có đăng một bức thư của một công nhân
gốc Quảng Nam tố cáo như sau: "Trước 5 giờ, còn tối
mịt, chúng tôi xếp hàng đi làm. Những người đến chậm
hay còn ngái ngủ, bị đánh đập bằng những cú ba toong
thật mạnh, để đừng có đến chậm nữa... "Thay vì
chỗ ở đủ tiện nghi như đã hứa hẹn, chúng tôi bị dồn
vào những lều tranh. Chỗ nào cũng thấy nước chẩỵ Suốt
đêm chúng tôi phải ngồi xổm, không đèn đóm gì cả và ướt
lạnh thấu xương. Sau một tuần lễ sống ở địa ngục này,
tôi tìm cách trốn đi. Nhưng hôm sau bị bọn Mọi bắt tôi
lại, đánh đập, lột quần áo đem nộp cho chủ đồn điền
để lãnh tiền thưởng... "Hoàn cảnh áp bức bóc lột
ấy chính là môi trường lý tưởng để CS tuyên truyền. Họ
"vẽ" ra đời sống của người công nhân ấm no, sung
túc, "làm chủ", cả đồn điền nghe bùi taị (2)
Tại Saigon, một nhà báo khuynh tả sớm nhất Nam Kỳ là Trần
Hữu Độ, quê ở Càng Long, tỉnh Trà Vinh, là dượng rể
của Trần Bạch Đằng (Trương Gia Triều) viết báo tố cáo
chế độ thực dân, khêu gợi sự bất bình của dân chúng.
Ông còn viết các sách "Hồi trống tự do", "Tờ
cớ mất quyền công dân", "Biện chứng pháp"...
khiến cho Pháp bắt đầu lo ngại CS xâm nhập. Nhật đảo
chính Pháp (9/3/45), rồi Nhật đầu hàng Đồng minh, tình
trạng Việt Nam như ngôi nhà vô chủ. Sẵn cơ hội ấy, Việt
Minh trương cờ đỏ sao vàng "cướp chính quyền"
khắp nơị Đê? có quân đội, khắp nơi ở Nam Kỳ, dân chúng
tự động võ trang chiến đấụ Họ lập ra 25 chi đội, mỗi
chi đội từ 400 đến 1000 quân du kích. Thoát cũi sổ lồng
từ biến cố đó, Lê Đức Anh gia nhập chi đội 10 của
tỉnh Thủ Dầu Một Chúng tôi sẽ kê? lại tất cả 25 chi đội
này trong một dịp khác. Địa bàn hoạt động của chi đội
10 là vùng Dĩ An, Tân Uyên, Biên Hòa ra tới Long Thành. Đầu năm
1946, Nguyễn Bình vào Nam, phong cho Huỳnh Văn Nghệ làm khu trưởng
khu 7, Ba Lung làm khu phó và Lê Đức Anh làm tham mưu trưởng.
Lúc nay Lê Đức Anh mới lấy người vợ tấm mẳn là bà Sáu
Cẩm, hội trưởng hội phụ nữ tỉnh Thủ Dầu Một...
"Năm 1954, Lê Đức Anh tập kết tại Hàm Tân, Xuyên Mộc
để ra Bắc. Phân khu miền Đông chỉ vỏn vẹn có 1 tiểu đoàn
chủ lực. Ra Bắc, Lê Đức Anh được phong đại tá. Mười năm
sau, Lê Đức Anh lại xâm nhập trở về Nam. Ông Dương Đình
Lôi kể lại: "Tháng 10/64, tôi trở về Nam, gặp lại Lê
Đức Anh, lúc này gọi là ông Sáu Nam tại bộ chỉ huy các
lực lượng vũ trang MTGPMN đóng ở Ta Bon, phía Nam đồn điền
cao su Mimot tỉnh Kompongcham, Cao Miên. Ông Sáu Nam tóc đã bạc,
lưng hơi khòm, nước da mét vì ở rừng, nhưng hai mắt vẫn lèm
nhèm, nói năng hử hử hỉ hỉ. Ông làm thu? trưởng B2, tức
cục Tham mưu của R. Bây giờ tướng ông ốm và cao (khoảng
1m7), đầu to, sọ khỉ dài, mái tóc bạc trắng. Cũng lần này,
tôi gặp một đứa bé chào đời ở chi khu Long Xuyên năm xưa,
con gái bà Sáu hội phụ nữ và ông Lê Đức Anh. Mặc dầu lúc
ấy ông làm tới chức đại tá, nhưng bị bà vợ lớn cắt
đứt quan hệ vì bội bạc. Bà bỏ lại đứa con gái 16 tuổi
tên Lê thị Thanh Tuyền cho ông, để gọi chút tình máu mủ...
cha con. Nhưng con bé có học, không gọi ông bằng "ba"
và chỉ gọi "ông Sáu Nam" như mọi người trong cơ
quan. Là người được học rất ít, chữ viết Lê Đức Anh
rất lớn, mập và tròn như đứa con gái óc mít (?). Nhìn nét
chữ biết là của ông ngaỵ Ông chỉ là đảng viên thường.
Lúc ra Bắc, ông lấy vợ lẽ, là một cô nữ sinh Hà Nội, nên
bi. "đì suốt 10 năm". Trong chiến dịch HCM chiếm
miền Nam, Lê Đức Anh được đề bạt lên thiếu tướng,
rồi trung tướng. Nam 1979, Lê Đức Anh được phong làm thượng
tướng, tư lệnh chiến dịch Campuchia, và cuối cùng được
thăng đại tướng.
"Hồi tưởng lại vào năm 1949, có lần
tôi gặp các bà vợ của mấy "ông lớn": "Một hôm
tôi có dịp đi ngang qua lán (trại) của mấy bà, bất ngờ tôi
thấy một lô bà bầu trong đó. Tôi bước vào để kiếm măng
le và mắm ruốc về ăn, thì thấy bà Sáu Cẩm, vợ Lê Đức
Anh, hội trưởng phụ nữ Thủ Dầu Một mang bầu và một bà
nhỏ hơn, nhưng mang "cái trống chầu tổ chảng" là
vợ của ông ba Tô Ký. Còn một bà to con, xinh xinh cũng có
bụng nở phình là vợ ông Ba Khịt, tức Ba Lung, (đại tá),
tham mưu phó. Vợ Tô Ký là con nhà giầu, người Việt gốc
Hoa, lúc làm đám cưới rất linh đình. Riêng món heo quay, có
đến hàng chục con, bộ đội ăn tràn họng, lấy thịt heo
chọi với nhau, như đất cục. Cuối năm 1949, xẩy ra chiến
dịch Bến Cát, còn gọi là chiến dịch Lê Hồng Phong. Trần
Văn Trà cử Lê Đức Anh làm tư lệnh mặt trận, Tô Ký làm
chánh ủy và Ba Xu, tức Trần Đình Xu (phu đồn điền cao su
xuất thân) làm TMT". Hàng ngày tôi ở văn phòng, lo dịch
các công điện và liên lạc với các mặt trận đường 13.
Chiến dịch thành công bắt được mấy xe hàng chở gạo từ
Chơn Thành đi Hớn Quản. Đổi lại, chiến dịch này "nướng
gần sạch" hai tiểu đoàn 302 và 304 ở mặt trận Bến Súc.
Số binh sĩ bị thương từ 200 đến 300 người, nằm rải rác
trong rừng từ Đường Long, Thanh Tuyền tới cầu sông Thị Tính.
Quân Pháp nhẩy dù xuống Nhà Mát (Long Nguyên), rượt bộ
chỉ huy chiến dịch chạy thục mạng tới Bà Tứ. Lần đó,
pháo 155 ly và 105 ly ở Bến Cát dập tơi bời.
Tôi nhớ có một lần văn nghệ nhân dịp Tết năm 1950, do
mấy ông "Tác huấn" bầy vẽ làm cây Noel. Trên cây
Noel gắn nhiều mảnh giấy xếp, các ông lớn tham gia lần lượt
lên rút mảnh giấỵ Ai bắt được mảnh giấy phải đọc to
và làm đúng lời ghi trong giấy như: hát một bài, ngâm thơ
hay làm một trò hề.. Lần đó, hai ông Sáu Nam và Ba Lung, trưởng
phó phòng tham mưu lên một lượt. Sáu Nam kêu Ba Lung rút trước
đại diện. Ba Lung vạm vỡ, hơi lùn, nói chuyện cứ khịt mũi,
có lẽ bị chúng phùng còi (?), còn tham mưu trưởng hai mắt lèm
nhèm, nói chuyện một hai tiếng, cứ "hỉ", "hử"
ở cuối câụ Ba Lung cầm tờ giấy cứ khum lưng cười hoàị
Bên dưới có tiếng vỗ tay động viên:
"Đọc lên! Làm đi!" Cuối cùng Ba Lung đọc chữ:
- Hai người làm ngựa cho ông ba Tô Ký với chị Năm Bi nhẩy
với nhau! Ba Lung kêu Sáu Nam khum xuống, nhưng ông này cao quá,
Ba Lung không chịu khum. Cuối cùng, hai người xin phép làm trò
khác. Trò "cầm c. cho chó đái" rồi hai ông đứng giơ
một chân vào gốc cây Noel làm... động tác ấỵ"
Sau này bọn trẻ trong ban mật mã nói tới anh ba, anh sáu thường
kèm theo "biệt hiệu":
- Ba Tô hay Ba Chè (Trà), Năm Bi hay nam cà lăm,
năm Ròm... còn Sáu thì phải nói "Sáu Nâu" hay "Sáu
cầm c. chó đái" tức Lê Đức Anh."
Hồi tập kết ra Bắc, tôi nghe mấy bà xầm xì với nhau về
việc Lê Đức Anh lấy vợ bé ở Hà Nội, quên bà hội trưởng
hội phụ nữ Thủ Dầu Một. Không rõ nội bộ đảng phê bình
ông ra sao, nhưng lúc đó báo "Quân đội nhân dân" có
đăng tin "Một đại tá lấy vợ, làm đám cưới chưa
từng có tại Hà Nội". Chị Năm Bi có nói:
- Kể ra ông người Huế đó (Lê Đức Anh) cũng gan. Chính ông
ta, trong lúc bị phê bình, đã nói một câu: "Đời tôi
cống hiến cho đảng (chớ không phải cho tổ quốc), đảng
lại tiếc với tôi một người đàn bà hay saỏ"
(HẾT)
|