Trần Viết Ðại
Hưng
Sau đây là lời ca nguyên thủy đầu tiên bằng tiếng Việt với cái tên Tiếng Gọi Sinh Viên hay Sinh Viên Hành Khúc ( do Luật sư Ðinh Thạch Bích nhớ và kể lại ):
Này sinh viên ơi ! Ðứng
lên đáp lời sông núi
Ðồng lòng cùng
đi, đi mở đường khai
lối
Vì non sông nước
xưa truyền muôn năm chớ quên
Nào anh em Bắc Nam cùng
nhau ta kết đoàn
Hồn thanh xuân như gương
trong sáng
Ðừng tiếc máu
nóng tài xin rán
Thời khó, thế
khó, khó làm yếu ta
Dù muôn chông gai vững
lòng chi xá
Ðường mới
kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương
Ðây đó hồn
nước Nam, ai đó can trường
Ðiệp khúc:
Sinh viên ơi! Hăng hái
đi đến cùng
Ca vang lên, đâu giòng
Tiên giống Rồng
Tiến lên ! Cùng tiến
Vẻ vang đời sống
Chớ quên ta rằng
ta là giống Lạc Hồng.
Những câu " mở đường khai lối ", " đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương " đã phù hợp" với chính sách khai hóa dân An Nam của nước Ðại Pháp. Ngoài ra , lời ca rất hiền hòa, chỉ nhắc nhở dân thuộc địa về giòng dõi Rồng Tiên Lạc Hồng của mình nên Tây nó cũng " cava" mà cười xòa cho qua. Công bằng mà xét thì dù có yêu nước hăng hái cách mấy đi nữa, Lưu hữu Phước cũng không thể làm gì hơn được để qua mắt bọn mật thám chó săn kiểm duyệt . Tuy nhiên, ta phải trả bài đó về với vị trí chân thực đầu tiên của nó là " một bài hát tiếng Tây " , kêu gọi mấy ông sinh viên An Nam ( thời đó có quan niệm " Phi Cao đẳng bất thành phu phụ ") học trường Tây bảo hộ, khi tốt nghiệp thành tài sẽ cộng tác với Tây mà " khai hóa" dân An Nam mít biết cách sống hợp vệ sinh trong tình yêu Mẫu quốc Pháp, Việt đề huề.
Về giá trị âm nhạc của bài này, tôi xin trích một đoạn viết về lược sử 50 năm Tân nhạc của Nhạc sĩ Phạm Duy dăng trong báo Văn Học, có nói tới bài Tiếng Gọi Thanh Niên :
" ..Tiếng Gọi Thanh Niên được soạn với hơi thở của một ca khúc Pháp. Lấy ví dụ câu này :
Thanh niên ơi ! Mau tiến lên cõi ..đời !
Tiếng Pháp không phải
là tiếng đơn âm như tiếng
Việt Nam cho nên nhiều khi phải dùng
nhiều âm thanh để phổ nhạc một
chữ :
À la fran – cai – se !
Lưu hữu Phước đã mắc phải cái vận tiết ngoại lai dó và do đó ngay hồi năm 1945, khi tôi có bổn phận phải dạy cho thanh niên nam nữ trong Phong Trào Thanh Niên Tiền Phong ở Sài gòn hát bài này, tôi thấy tuổi trẻ Việt Nam không bao giờ hát đúng nhịp cả , bởi lẽ tự nhiên là hơi thở của ca khúc không phải là hơi thở của dân tộc Việt Nam. Tôi hiểu được vì sao mà chúng ta vẫn coi bài này như một quốc ca, nhưng tôi vẫn thấy đó là điều phi lý.."
Sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, tuyên bố sẽ trả độc lập cho Việt Nam. Bài Tiếng Gọi Sinh Viên được Lưu hữu Phước và Mai văn Bộ đổi lời và đổi tên thành Tiếng Gọi Thanh Niên với những câu đầu là :
Này thanh niên ơi ! Quốc
gia đến ngày giải phóng.
Ðồng lòng cùng
đi ,đi, đi tiếc gì thân sống
Bài ca này được hàng ngàn sinh viên, học sinh, công chức , thợ thuyền hát vang trong một cuộc biểu tình vào một chiều Chủ nhật hạ tuần tháng ba năm 1945 trước Ðại học xá Bạch Mai( cư xá cho sinh viên Ðại học Hà Nội ) để biểu dương tinh thần ái quốc và ý chí đòi độc lập của dân tộc Việt Nam. Bài Tiếng Gọi Thanh Niên một lần nữa lại được hàng ngàn công chức đồng ca vang dội trước nhà Hát Lớn Hà Nội trong buổi chiều lịch sử ngày 17 tháng 8 , 1945. Sau đó họ đã biểu tình tuần hành quan những đường lớn. Giữa những tiếng hoan hô " Việt Nam độc lập muôn nam" lại xen kẽ những tiếng " Hoan Hô Việt Minh". Những tiếng hô lạ tai đó mỗi lúc lại được gào thét nhiều hơn do những kẻ lén vào hàng ngũ công chức ".Tới ngã sáu Cửa Nam, vài anh áo cộc quần đen, chắc chắn không phải là công chức, vừa chạy vừa phất lá cờ đỏ giữa có ngôi sao vàng, anh khác giơ một vật ít thấy ở thời đó là khẩu súng lục, bắn chỉ thiên vài phát như để thị uy, miệng hô : " Anh em hãy cùng tôi hô : Mặt Trận Giải Phóng Muôn Năm.."(1)
Cô Hoàng Mai thân mến ,
Những sinh viên, thanh niên, công chức hát bài Tiếng Gọi Thanh Niên thời đó, chắc chắn với tấm lòng yêu nước, yêu độc lập , tự do như toàn dân miền Nam đã hát bài Tiếng Gọi Công Dân trong ba mươi năm nay. Nhưng khó mà chối cãi được rằng Lưu hữu Phước và Mai văn Bộ ( đã theo Việt Minh ít nhất là từ năm 1943) đã đổi lời ca từ " nịnh tây " ra " yêu nước " để lợi dụng lòng khao khát độc lập giải phóng của dân ta mà tạo khí thế thuận tiện cho việc cướp chính quyền của Việt Minh ( tháng 8 năm 1945). Lịch sử vẫn còn rành rành như thế.
Ngay sau khi chính phủ quốc gia không Cộng sản ra đời và lấy bài Tiếng Gọi Thanh Niên ( sau đổi là Tiếng Gọi Công Dân ) làm quốc ca thì vào năm 1948 tại Tòa Án Việt Minh ở Hà Ðông, Lưu hữu Phước đã đâm đơn " kiện" chính quyền quốc gia và yêu cầu chính phủ Việt Minh " cấm" chính phủ ta dùng bài hát đó làm quốc ca ( Theo Vũ trung Hiền trong báo Người Việt số 1104 ngày 26.11.87). Khi Cộng sản vào Sài gòn năm 1975, trên băng tần số 9 Ðài Truyền Hình Việt Nam, trên tờ báo Sài gòn Giải Phóng, cũng như trong những buổi hội thảo với các văn nghệ sĩ, Lưu hữu Phước đã mạt sát thậm tệ sự việc miền Nam đã tiếm dụng bài Tiếng Gọi Thanh Niên làm quốc ca ( theo Nông anh Ngọc trong báo Lửa Việt số 5 ngày 30.9. 87). Giáo sư Vũ trung Hiền còn trích dẫn lời Lưu hữu Phước nói trong bài viết của ông, " Ngụy quyền miền Nam đã ăn cắp nhạc và lời của tôi, sửa sang thêm bớt để làm quốc ca của chúng nó ".
Một sự kiện oái oăm khác không thể chối cãi là tác giả bài quốc ca bài quốc ca của ta cũng chính là tác giả bài ca chính thức của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Tác giả đó chính là Lưu hữu Phước, một cán bộ cao cấp hàng bộ trưởng của chính quyền Cộng sản Việt Nam, kẻ thù của người Việt Nam tự do; hắn lại đương sống nhăn và không ngớt to mồm lớn miệng nhục mạ chúng ta là đã ăn cắp bài ca của hắn làm quốc ca. Thiết tưởng như thế là đã quá đủ lý do để vứt bỏ ngay cái mối quốc sỉ kia như cắt bỏ một cái mụn nhọt trên thân thể. Dĩ nhiên sự cắt bỏ đột ngột ấy gây đau xót, nuối tiếc và phản ứng chống đối. Nhưng nếu nghĩ rằng cuộc khủng hoảng thân thế của người Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 cần phải sớm chấm dứt, nếu cho rằng việc dứt bỏ quá khứ , lột xác dọn mình, là việc tối cần thiết trước khi mưu đồ quang phục quê hương thì tất không tránh được cái việc đổi bài hát chào cờ trước hết. Hành động ấy chỉ cần tiến hành sao cho có tình có nghĩa, để không ai cảm thấy tủi hổ hay thiệt thòi thì phản ứng ngược lại cũng tương đối nhẹ nhàng thôi.
Con đường quang phục vủa Việt Nam hiện nay đòi hỏi đấu tranh Cách mạng trên nền tảng văn hóa, đấu tranh ấy đòi hỏi trước hết những biểu tượng thật trong sáng, không tì vết, tạo hãnh diện và không gây bối rối. Trong các biểu tượng, phải nói là bài hát chào cờ đứng hàng quan trọng nhất. Bài hát chào cờ nhiều tì vết, lai lịch thiếu nghiêm chỉnh, gây bối rối, lại đang bị địch đem ra làm đề tài bêu rếu thì dù có đau xót, nuối tiếc đến đâu cũng không nên khư khư giữ lấy. Ðấu tranh quang phục tổ quốc đòi hỏi ý thức đầy đủ và rõ rệt về những gì mình đang làm và sẽ làm. Ðấu tranh ấy không cho phép giữ lại hay tiếp tục giữ lại những sai trái của quá khứ. Nếu ta không đủ bãn lĩnh để lột xác dọn mình thì dù có ông Bụt hiện xuống đưa cây đũa thần đánh phép một cái cho bọn người lưu vong chúng ta một sớm một chiều lấy lại nước thì rồi cũng lại đánh mất nước thêm một lần nữa mà thôi.
Cô Hoàng Mai thân mến,
Ðọc đến đây, cô có oán hận vì đã tò mò tìm hiểu những cái tréo cẳng ngỗng của tình đời chưa? Trước cái quái dị của lịch sử đó thì chính quyền quốc gia trong khối Liên Hiệp Pháp, chính quyền Ðệ Nhất, Ðệ Nhị Cộng Hòa và người Việt lưu vong phản ứng ra sao. Tôi xin lần lượt tóm lược như sau :
Chính quyền quốc gia trong khối Liên Hiệp Pháp do Cựu Hoàng Bảo Ðại làm Quốc Trưởng:
Trong các nội các của thời đó cũng có nhiều người có tinh thần quốc gia và độc lập ( kể cả Cựu Hoàng Bảo Ðại ) nhưng đa số thiếu ý thức về chính trị cách mạng và kiến thức về văn hóa dân tộc. Họ hiểu và nói tiếng Tây giỏi hơn tiếng mẹ đẻ và có một số người không đủ tiếng Việt để nói trước công chúng ( người đầu tiên là vị Quốc trưởng ). Khoảng vào năm 1952-1953, vị Tổng trưởng Giáo Dục Nguyễn thành Giung đến thăm trường Chu văn An, Hà Nội, có ngỏ vài lời với các em học sinh ( trong đó có tôi ) bằng tiếng Tây ! Tôi không trách họ vì họ là một cách gạch nối hữu ích giữa Nô Lệ và Ðộc Lập tương đối êm đềm nên cũng chẳng mong họ có đủ ý thức để chọn một bài quốc ca hay sửa lại cái sai lầm cơ bản ấy mặc dầu Lưu hữu Phước đã ồn ào chửi rủa ngay từ năm 1948.
* Chính quyền Ðệ Nhất Cộng Hòa
Cố Tổng Thống Ngô đình Diệm là một người có ý thức rất cao về chuyện chống cộng và có thiện chí xây dựng một nước Việt Nam tự do trên căn bản dân tộc nên quốc hội thời đó đã tổ chức một cuộc thi soạn thảo quốc ca ( 1956) . Nhạc sĩ Hùng Lân tham dự với 2 bài Nhân Dân Cách Mạng Việt Nam và Việt Nam Minh Châu Trời Ðông, nhạc sĩ Phạm Duy với bài Chào Mừng Việt Nam.. Trong số các bài dự thi, bài Việt Nam Minh Châu Trời Ðông của nhạc sĩ Hùng Lân được nhiều người chú ý hơn cả :
Việt Nam minh châu trời
Ðông
Việt Nam nước thiêng
Tiên Rồng.
Non sông như gấm hoa
uy linh một phương
Xây vinh quang sáng trưng
bên Thái Bình Dương..,
Lời ca rất trang trọng ( tuy có vài chữ ít thông dụng như " minh châu "..) nhạc điệu rất uy nghi, nhưng đoạn sau hơi khó hát và thiếu dồn dập để làm xúc động đa số quần chúng ( về sau bản này đã trở thành " đảng ca" của Ðảng Ðại Việt.
Tuy mở ra cuộc thi quốc ca nhưng quốc hội bàn đi tán lại rồi cũng bỏ qua luôn. Tổng Thống lại là người thích được tôn sùng cho nên cũng chẳng thắc mắc gì thêm nữa vì Người cũng cảm thấy hài lòng với bài " Toàn dân biết ơn Ngô Tổng Thống ! Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm !" Bài này đã được tấu lên vào đầu xuất phim trong các rạp chiếu bóng, thay thế luôn cho bản Tiếng Gọi Công Dân . ( Vì nhạc chào cờ dài quá nên chủ rạp chỉ dám cắt bản quốc ca mà không dám cắt bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống.
* Chính quyền Ðệ Nhị Cộng Hòa
Chính quyền do trung tướng Nguyễn văn Thiệu làm Tổng Thống và Ðại tướng Trần thiện Khiêm làm Thủ Tướng ( lâu năm nhất). Chắc các ngài rất bận rộn (?) trong việc đánh giặc, nhất là trong chiến dịch Lam Sơn ( 1971) và trong cuộc rút quân khỏi Cao Nguyên ( từ ngày 17 đến 26 tháng 3 năm 1975). Các ngài cũng phải dành nhiều thì giờ đối phó với Linh mục Trần hữu Thanh và nhóm " ký giả ăn mày ". Tuy được phò tá bởi các vị cố vấn " trong sạch" như tướng Ðặng văn Quang; giỏi giang như các vị khoa bảng tuổi trẻ tài cao xuất thân từ Hoa Kỳ õ, hay những vị cố vấn" trung thành " với chế độ tự do như ông Huỳnh văn Trọngï, Vũ ngọc Nhạ; các ngài cũng chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ đến chuyện bài ca , bài hát vì thời giờ còn lại các ngài còn phải rình xem lúc nào Mỹ bật đèn xanh đèn đỏ để đứng lên ngồi xuống cho nhịp nhàng, tránh khỏi cảnh ve sầu lạc điệu !
Ông Thái chính Châu kể lại vào năm 1972, có một giáo sư dạy nhạc của ông tên N.V.V đã gửi thư cho Tổng thống, Lưỡng Viện Quốc Hội, Tối Cao Pháp Viện để yêu cầu bỏ bài Tiếng Gọi Công Dân và đề nghị bài Việt Nam, Việt Nam làm bài quốc ca. Nhưng chẳng có Tổng thống hay Viện nào đoái hoài đến. Ông chỉ còn biết uất ức . Tôi thương ông vì tôi cũng đã uất ức từ lâu rồi với nhiều cái quái đản cơ bản trong một chế độ, trong một quê hương mà tôi muốn sống, muốn phụng sự , muốn cúc cung tận tụy.
Sau 12 năm mất nước, gần đây có một số bậc thức giả có tâm huyết khơi lại vấn đề quốc ca để người Việt lưu vong suy nghĩ và hành động. Trong chiều hướng đòi thay thế quốc ca Tiếng Gọi Công Dân của Lưu hữu Phước bằng bài Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy, có các vị sau đây thực hiện với các đề nghị khác nhau:
* Ông Thái chính Châu ở Culver city, Cali ( trong báo Người Việt ngày 6/5/87) là người đầu tiên khơi lại vụ này và mong mỏi các hội đoàn họp nhau lại để cùng nhau quyết định hành động.
* Ông Nông anh Ngọc ở Long Beach, Cali ( trong báo Người Việt ngày 28 /5/87) đã và đang mở cuộc trưng cầu dân ý bằng cách tự mình gửi phiếu lấy ý kiến từ các hội đoàn, các cơ quan truyền thông , nhân sĩ Việt Nam khắp nơi trên thế giới. ( Ðây là một sự hy sinh thời giờ và tiền bạc đáng khen ).
* Nhà thơ Thi Vũ ở Paris ( trong báo Quê Mẹ , số tháng 7 và 8 năm 1987 ) cho rằng : " Hiện nay chúng ta không có nhà nước để làm việc ấy, thành ra ý kiến của ông Châu ,ông Ngọc và của chúng tôi chỉ là ý kiến đưa lên thảm xanh để nhắc nhở một cái gì khác – nhân vụ quốc ca, nhưng không thề đưa tới một quyết định nào hợp lý, hợp hiến cả. Có người cho rằng nhà thơ Thi Vũ chờ chính khách Võ văn Ái thắng kiện ở Liên Hiệp Quốc để có một nhà nước lo cho việc hợp hiến ấy ! Tôi thì nghĩ rằng Thi Vũ – Võ văn Ái xưa nay vẫn là người quá cẩn thận.
* Luật gia kiêm Phê bình gia Phạm kim Vinh ở Garden Grove, Cali ( trong báo Quan Ðiểm tháng 9 năm 1987) nhận định : " Ðồng bào quốc nội đang chết lần lần ở trong một nhà tù khổng lồ, không còn hơi sức nào để nghĩ tới quốc ca, quốc kỳ. Còn đối với khối người Việt lưu vong thì mọi cuộc tham khảo ý kiến rộng rãi sẽ kéo dài bất tận và tinh thần " hội đồng chuột " sẽ chẳng bao giờ đưa tới một giải pháp tốt...". Ông kêu gọi việc bỏ bài Tiếng Gọi Công Dân và chấp nhận bài Việt Nam Việt Nam,nên thực hiện bắt đầu từ các nhóm, hội đoàn. Ông mong rằng. "...Các hội đoàn của người Việt quốc gia ở hải ngoại sẽ tìm được can đảm để giải quyết cho xứ sở và dân tộc bài toán danh dự này. Sự khiêm tốn và dè dặt trong trường hợp này sẽ bị coi là vô trách nhiệm". Có người cho rằng ông Phạm kim Vinh có lối nhận định một chiều, bít chặt sự suy tư của độc giả, nhưng tôi nghĩ trong việc này, ông đã đề ra một lối thoát duy nhất cho một bế tắc trong 30 năm qua. Tôi hoàn toàn đồng ý với ông và kính mến ông.
Ông Vũ trung Hiền ở Pasadena, Cali ( trong báo Người Việt số ngày 26/11/87) và ký giả tiến sĩ Cuồng Danh ( tức nhạc sĩ T.Q.N) ở San Jose ( trong báo Dân Việt ngày 8/12/87) đòi " ném bài hát của Lưu hữu Phước về Hà Nội cho hắn và chấp nhận ngay bài Việt Nam Việt Nam ngày mai."
Có một số ý kiến chưa đồng ý việc thay thế trên, nhưng vì chưa được phổ biến trên báo chí nên tôi không tiện nêu quý danh dù rằng đa số những ý kiến đó đều là của các bậc trí giả thân hữu mà tôi rất quý mến. tôi xin lần lượt kể ra sau đây ( những dòng chữ trong phần có dấu ngoặc đơn là lời thưa lại của tôi ) :
* Không được thay thế vì biết bao nhiêu chiến sĩ và nhân dân Việt Nam quốc gia đã chết cho bài quốc ca đó. ( Tôi thiết tưởng xương máu của chúng ta đổ ra trong mấy chục năm qua đâu có phải cho một bài hát hay cho một lãnh tụ nào mà chính là đổ ra cho sự Tự Do và Hạnh Phúc của miền Nam. Còn nếu nói là đã có nhiều xương máu đổ ra vì một bài quốc ca phản ánh một cuộc Cách mạng thì đó, có bài Tiến Quân Ca với thành tích xúi giục nhân dân tranh nhau chết để được phanh thây uống máu quân thù như vậy mà vào năm 1982, Cộng sản đã tổ chức một cuộc thi sáng tác quốc ca mới ,với ý định loại bỏ bài Tiến Quân Ca chỉ vì tác giả Văn Cao đã một lần trót có tư tưởng lệch lạc trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Cộng sản Việt Nam chưa làm được việc đó vì các bài dự thi dở quá, dù là của các tác giả đã có một thời nổi danh như Ðỗ Nhuận, Tô Vũ, Nguyễn văn Tý .. và có lẽ khuynh hướng bảo thủ trong Ðảng còn mạnh nên chuyện đổi quốc ca của Cộng sản, dù do Trường Chinh chủ xướng, cũng không đi đến thành công).
* Khi đứng nghiêm chào cờ, bài Tiếng Gọi Công Dân vẫn gây xúc động trong lòng ta ( Tôi thiết tưởng khi hát quốc ca chào cờ, chúng ta hướng về tổ quốc với bao kỷ niệm cũ của quê hương, gia đình, bạn hữu mà cảm động. Theo sự nhận xét của cựu Dân biểu Trần văn Ân thì đó là các " phản xạ tình cảm có điều kiện " mà thôi. Nếu trong lúc đó , đột nhiên ta nhớ đến những lời rủa sả và vị trí thù địch của tác giả thì liệu ta còn cảm động nữa không? Hay chỉ còn uất hận mà thôi? Nhiều chiến sĩ tự do, trước kia theo kháng chiến chống Pháp gần 9, 10 năm đã thú thực là vẫn còn cảm động khi nghe bản Tiến Quân Ca vì nó đã gợi lại bao kỷ niệm thời trai trẻ nhưng vẫn không thể mở mồm để xưng tụng bài quốc ca của Cộng sản đó được ).
* Không nên thay thế vì sợ lại chia rẽ thêm ( Sự phân hóa giữa chúng ta đã quá nhiều rồi, biết đâu sự đồng tình, đồng ý thay thế vụ quốc ca này lại chẳng là một điểm tựa tiên khởi cho sự kết hợp ? Khó có một sự kiện cơ bản nào khác hiển nhiên hơn để Cộng Ðồng Hải Ngoại có cơ hội biểu dương tinh thần đoàn kết).
* Xuất xứ không quan trọng ( Thưa đúng vậy, bài Tiến Quân Ca của Văn Cao cũng được sáng tác trong ngõ cô đầu Khâm Thiên, nhưng tác giả của các bài quốc ca đó không phải là kẻ thù của chế độ, nhất là trong thời điểm bài quốc ca được suy tôn).
* Chúng ta chưa thực sự phất cờ, gióng trống để trở về phục quốc, vấn đề quốc ca chưa cần phải đặt ra. Thay thế bài quốc ca ngay bây giờ là một sự vội vã của các đấng " anh hùng sốt ruột " ( Tôi đã thưa lại với người bạn có ý kiến này, vốn là người mà tôi hằng mến phục, rằng : " Người Việt Nam tự do chúng ta rất cần những nguồn cảm hứng để nuôi chí quang phục, cũng như Khổng Minh ngày xưa cần ngọn gió Ðông Nam để phá quân Tào. Trận Xích Bích ngày nay đã bắt đầu từ sau ngày 30/4/75, đang và sẽ diễn tiến theo các biến chuyển chính trị, quân sự và kinh tế của Mỹ, Nga, Tàu và các nước Ðông Nam Á hay sự tương quan giữa hai phe Tự Do và Cộng sản chứ không phải đợi ngày phất cờ khởi nghĩa như thời xưa ).
* Có người chưa đồng ý vì nếp sống của tác giả bài Việt Nam Việt Nam ( Thưa quý bạn, nếu có điều chi chăng nữa thì chẳng qua là chuyện " Một trà, một rượu, một..." mà chính đại thi sĩ Tú Xương đã phải thú nhận, " Có chăng chừa rượu với chừa trà..". Tác giả bài La Marseillaise ( quốc ca Pháp ) là Claude Joseph Rouget de Lisle, một anh chàng rượu chè, trai gái, cờ bạc be bét. Còn Phạm Duy là một nghệ sĩ lớn nhất của nước Việt Nam hiện đại mà vẫn duy trì một gia đình rất hạnh phúc bên cạnh một bà vợ hiền, tám người con khôn lớn, và một bầy cháu nội ngoại. Trong hơn 1000 bài ca mà Phạm Duy đã " khóc cười theo vận nước nổi trôi " thì hai trường ca Con Ðường Cái Quan và Mẹ Việt Nam là có tầm vóc nhất. Con Ðường Cái Quan đi vào chiều dài của đất nước, Mẹ Việt Nam đi vào chiều sâu của dân tộc mà chung khúc là bài Việt Nam Việt Nam được soạn theo thể nhạc ngũ cung Việt Nam. Bài ca đó đã in sâu vào lòng mỗi người chúng ta, đã hòa nhịp với hơi thở chúng ta. Bài Việt Nam Việt Nam là của người Việt Nam, không còn là của riêng Phạm Duy nữa. Chính tác giả, trong một buổi họp mặt công khai, đã long trọng tuyên bố dâng hiến bài này cho quê hương và dân tộc Việt Nam.
Cô Hoàng Mai thân mến,
Tôi đã kính cẩn lắng nghe và đối thoại với các quí bạn chưa thuận ý như trên. Sau nhiều suy tư, tìm hiểu và cân nhắc, một nhóm bằng hữu đã quây quần thân mật trong một ngôi biệt thự nằm êm ả trên Ðại lộ Hoàng Hôn ( Sunset Blvd) của thành phố Cựu Kim Sơn vào một đêm không trăng sao tối thứ bảy thượng tuần tháng chạp năm 1987. Họ là những ký giả , những văn nghệ sĩ tên tuổi. Họ là những giáo sư, tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ có danh tiếng. Họ là những người trí thức từ lớp tuổi thanh niên, học sinh , sinh viên, cho tới các cụ già sáu, bảy chục tuổi. Mọi người đã lần lượt bày tỏ quan điểm của riêng mình một cách thẳng thắn chân thành. Cũng có một vài ý kiến khác biệt lúc ban đầu nhưng vì cùng chung một ý chí quang phục, cùng chung một tâm tình đôn hậu của người Việt Nam, ăn ở lúc nào cũng có tình có nghĩa, có thủy có chung nên tất cả đã đồng lòng đứng lên để tỏ bày lòng thành kính tri ân những đồng bào, chiến sĩ đã hy sinh cho tự do và hạnh phúc của miền Nam trong suốt thời gian bài Tiếng Gọi Công Dân được dùng làm quốc ca nên cùng nhau hát lại bài này một lần chót để giã biệt với một dĩ vãng quá nhiều u uẩn. Rồi để chuyển mình hướng về tương lai, tất cả đã quyết định chấp nhận bài Việt Nam Việt Nam làm bài ca chính thức của người Việt Tự Do. Một cựu Thiếu tá phi công trong phi đoàn Thần Phong anh hùng , từng oanh tạc miền Bắc Cộng sản, đã đánh vài nốt nhạc để bắt giọng và Nhạc sĩ Phạm Duy với mái tóc bạc phơ đã đứng lên mặt bàn đánh nhịp cho toàn thể người có mặt đồng ca vang dội bài Việt Nam Việt Nam một cách trang nghiêm và cảm động :
Việt Nam! Việt Nam nghe từ
vào đời
...............
Việt Nam hai câu nói
sau cùng khi lìa đời..
Người Việt Nam đâu có phải thích chém giết , mà :
Việt Nam không đòi
xương máu
Việt Nam kêu gọi thương
nhau
Việt Nam đi xây đắp
yên vui dài lâu.
Việt Nam sẽ không còn bom đạn và chiến tranh nữa, vì :
Tình yêu đây là
khi giới
Tình thương đem
về muôn nơi
Việt Nam đây tiếng
nói đi xây tình người..
Nếu trong quá khứ các bài quốc ca trước của Việt Nam đã như một mặc khải tiên tri vận mệnh của đất nước thì kỳ này ta có quyền tin tưởng trong ngày mai, Việt Nam sẽ là " lương tâm của nhân loại ".
Việt Nam trên đường
tương lai
Lửa thiêng soi toàn
thế giới.
Việt Nam ta nguyền tranh đấu
cho đời ..
Bạn thân mến,
Nhóm người này đã can đảm dứt bỏ cái ẩn ức của dĩ vãng để chuyển mình tạo khí thế cho tương lai. Họ không muốn phô trương danh tánh và sẽ chỉ nguyện làm một đóm lửa khiêm nhường. Họ cầu mong đốm lửa nhỏ đó sẽ được hưởng ứng và bùng lên thành một trận bão lửa quét sạch bạo quyền phi nhân, mang trả lại tình người đôn hậu về cho quê hương mến yêu. Vinh dự đó không dành riêng cho một nhóm nào, kể cả tác giả bài ca, mà thuộc về toàn thể người Việt Nam đã, đang và sẽ hy sinh cho chính nghĩa tự do, dân chủ..
... Tôi viết đến đây thì trời vừa bừng sáng. Tiếng còi tàu não nùng gọi nhau trong sương mù giữa vịnh Cựu kim Sơn đã dần thưa. Nhìn ra Thái Bình Dương phía cuối chân trời, những tia nắng đầu tiên của vừng Thái Dương từ phía Ðông chiếu xuống như thể hiện lên một viễn tượng của đất nước " Việt Nam đây miền xinh tươi . Tự Do, Công Bình, Bác Ái muôn đời ".
Thân ái chào bạn
Bùi Duy Tâm (5 giờ
sáng ngày 18/12/87)
(1) Sách "Những ngày chưa quên" (Ðoàn Thêm)
Nói chung ba bài viết của tướng Nguyễn chánh Thi, Bác sĩ Phan quang Ðán, Bác sĩ Bùi duy Tâm đều đưa có đề nghị muốn đem bài "Việt Nam Việt Nam" của Nhạc sĩ Phạm Duy để thay thế cho bài quốc ca cũ "Tiếng Gọi Thanh Niên" của Lưu hữu Phước. Thật ra trong bài viết đầu tiên nói đến chuyện thay quốc ca của tôi, tôi có kể chuyện ông thầy nhạc Nguyễn văn Vinh của tôi đòi thay bài quốc ca đương thời bằng bài Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy, chứ bản thân tôi không đề nghị chuyện đó. Công tâm mà nói bài Việt Nam Việt Nam của Nhạc sĩ Phạm Duy cũng hay và có ý nghĩa, nhưng chuyến đi về Việt Nam mới đây của Nhạc sĩ Phạm Duy đã cho thấy cái cơ hội bài "Việt Nam Việt Nam" trở thành quốc ca sẽ không bao giờ trở thành sự thật được nữa. Chúng ta đã khắt khe với Lưu hữu Phước, không lẽ chúng ta lại dễ dãi với Phạm Duy. Trong lãnh vực chính trị không nên để tình cảm chen vào nhiều quá, trong chính trị nên để lý trí suy xét và hành động và có làm như thế thì sẽ không có những lỡ lầm hối tiếc về sau.
Phải nói rằng khi bài "Tiếng Gọi Thanh Niên" của Lưu hữu Phước được chọn làm quốc ca trong chính phủ Bảo Ðại, chuyện đó có thể châm chước được vì lúc đó lý lịch quốc gia hay cộng sản của Lưu hữu Phước còn mù mờ, anh ta còn đóng vai một thanh niên yêu nước tranh đấu giành độc lập thì cũng khó biết được chân tướng của anh là ai. Nhưng đến thời Ðệ Nhất và Ðệ Nhị Cộng Hòa thì đất nước đã chia đôi, lý lịch Cộng sản của Lưu hữu Phước đã quá rõ ràng mà hai chính quyền Quốc gia vẫn còn sử dụng bài ca của Lưu hữu Phước làm quốc ca là một sự tắc trách và sai lầm không thể tha thứ. Tôi rất tâm đắc với sự phẫn nộ của nhà văn Hà thúc Sinh khi anh đau đớn vạch ra cái lỗi lầm tày trời của các chính quyền quốc gia đã sử dụng bài hát địch làm quốc ca. Guồng máy chiến tranh chính trị trong 21 năm (1954-1975) đã làm gì để rồi chúng ta có một bài quốc ca oan trái và vô lý cùng cực đến như vậy? Nói như thấy về Mặt trận đấu tranh chiến tranh chính trị của chúng ta còn quá yếu, chúng ta thua Cộng sản không phải vì chúng quá hay, quá tài giỏi mà bởi chúng ta quá dở, thiếu ý thức đấu tranh chính trị. Hai mươi sáu năm lưu vong (1975-2001) cũng không làm cho chúng ta trưởng thành hơn về phương diện chính trị, vẫn không sửa đổi nổi cái sai lầm quốc ca mà hai chính quyền Ðệ nhất và Ðệ nhị cộng hòa đã phạm phải. Cứ gào thét chống cộng mà không biết phải chống cộng từ chỗ nào. Ðấu tranh quang phục quê hương là chuyện làm đi đến ngày mai, tạo lập một chế độ dân chủ đa nguyên cho toàn dân chứ không phải để khôi phục lại hai nền Cộng hòa của quá khứ. Nếu cứ khư khư giữ lại những gì của quá khứ ù, cả luôn những sai trái không thể tha thứ của nó, thì ngày chiến thắng thành công chắc cũng sẽ còn xa xôi diệu vợi.
Trong bài viết của Bác sĩ Bùi duy Tâm có một điểm rất quan trọng là nhờ phỏng vấn với Nha sĩ Nguyễn thành Nguyên (người đã đóng góp công sức tạo nên bài quốc ca) , một sự thật phũ phàng được tiết lộ là bài hát " Tiếng Gọi Thanh Niên" chỉ là lời Việt của bản nhạc tiếng Pháp " Marche des Etudiants" dùng để ca tụng phong trào thể thao Ducuroy của người Pháp. Ðiều này nói lên bản chất lai căng của bài hát. Sau này ở Việt Nam , Mai văn Bộ có viết nguyên một cuốn sách về Lưu hữu Phước nhan đề " Lưu hữu Phước, con người và sự nghiệp"( nhà xuất bản Trẻ 1989) đã mập mờ , gượng gạo, gian dối biện bạch rằng bài " Tiếng Gọi Thanh Niên" có lời Việt trước rồi mới có lời Pháp sau, Mai văn Bộ và Lưu hữu Phước chống chế gượng gạo như thế để cho bài ca này có một lý lịch cách mạng đẹp đẽ, chứ không dám thú nhận bài hát này là một bài hát " nịnh Tây" có lời Pháp để rồi biến thành bài ca " yêu nước" lời Việt. Nhạc sĩ Phạm Duy đã phân tích rất đúng khi ông nhận ra bài hát " Tiếng Gọi Thanh Niên" khi được hát với lời Pháp thì đúng nhịp nhưng khi hát với lời Việt thì trật nhịp, điều đó chứng tỏ lời Pháp có trước lời Việt. Chuyện tranh cãi quốc ca do tôi đề xướng nổ ra năm 1987 và lúc ấy Lưu hữu Phước và Mai văn Bộ còn sống và họ đã gian dối sửa đổi lại tiến trình hình thành bài hát nhiều uẩn khúc này, nghĩa là họ cho lời ca tiếng Việt có trước lời tiếng Pháp. Chế độ Cộng sản làm sao mà chấp nhận nhà Nhạc sĩ có chức vụ bộ trưởng như Lưu hữu Phước mà lại làm bài hát " nịnh Tây’ được. Vấn đề sửa đổi và chống chế lại quá trình hình thành bài hát là vì lý do sâu xa như vậy.
Mai văn Bộ , trong cuốn sách " Lưu hữu Phước, con người và sự nghiệp " đã nói đến bài " Tiếng Gọi Thanh Niên " như sau:
" Một trong những đỉnh cao của sự nghiệp sáng tác âm nhạc của Lưu hữu Phước là bài Tiếng Gọi Thanh Niên.
Ra đời trong bối cảnh lịch sử đầy bão táp của một thời kỳ chiến tranh và cách mạng, nó vừa có tính chất sáng tạo độc đáo, vừa mang ý nghĩa kế thừa sâu sắc. Nó là đòn chủ yếu góp phần dập tắt phong trào " vui vẻ trẻ trung" của một bộ phận thanh niên vùng đô thị đang dao động, đồng thời nó đã mở đầu cho phong trào ca hát " Thanh niên là lịch sử " trước hết trong hàng ngũ sinh viên và học sinh, để rồi dần dần trở thành tiếng hát yêu nước và cách mạng của thanh niên từ Bắc chí Nam.
Vì ý nghĩa và tầm quan trọng trên đây của bài Tiếng Gọi Thanh Niên nên tôi thấy cần trao đổi ý kiến với tác giả để xem xét trên những khía cạnh tiêu biểu hoặc cùng ôn lại những kỷ niệm có liên quan mà một mình tôi không thể nhớ hết được.
Sau đây, xin ghi lại cuộc trao đổi của chúng tôi:
Lưu hữu Phước: Lần đầu tiên, khi còn học ở trường phổ thông cấp 1 ở Ô Môn, Phước đã nghe, đã hát và còn nhớ mãi mấy câu:
Huyết khí ở đâu
người Nam !
Chớ để chúng
múa gậy vườn hoang !
Ðầu đen mái
đỏ khác chi thú cầm
Ai ơi là giống Lạc
Hồng !
Ta có trách nhiệm kế thừa tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của Hai Bà, trong bài hát Trưng Nữ Vương trên đây, được soạn theo âm điệu của bản Mạc-xây-e
Một kỷ niệm sâu sắc khác là , khi học đến năm thứ hai trường Cô –le Cần Thơ, một bạn quê ở Rạch Giá có chép cho chúng mình bài hát gọi là Hoàng Phố.
Mai văn Bộ: Ðó là anh chàng cao giò Nguyễn thành Nguyên, sau này có một thời gian sống chung với chúng ta ở Hà Nội.
Mai văn Bộ: Chúng ta đều nghĩ rằng Bài-hát-kêu-gọi-khởi-nghĩa đó phải khởi đầu bằng câu:
Nào anh em ơi ! Tiến lên đến ngày giải phóng !
Lưu hữu Phước: Ðúng như vậy. Chúng ta đã thảo luận không biết bao nhiêu lần về câu mở đầu đó, mà cũng là chủ đề của bài hát. Chỉ có khi ngủ mới quên đi thôi.
Mai văn Bộ: Khi ta ngủ, biết đâu tiềm thức chẳng thức và chẳng làm việc?
Lưu hữu Phước: Dầu sao, Phước cũng đã trải qua nhiều đêm ấp ủ, trăn trở, có lúc rất bi quan. Cho đến một hôm, đúng hơn một đêm...
Mai văn Bộ: Tại sao có cái đêm huyền diệu đó ?
Lưu hữu Phước: Một Chủ nhật đầu tháng 4 năm 1941, tiếp tục cuộc hành hương trở về nguồn, chúng ta đi thăm làng Phù Ðổng và đến Sóc Sơn. Anh có nhớ anh mang về một cành hoa trà không ?
Mai văn Bộ: Có ! Mặc dù chúng mình đã đọc tiểu thuyết Trà hoa nữ ( La Dame aux camélias ) của A. Ðuy-ma, nhưng có đứa nào trông thấy hoa trà đâu. Không ngờ hôm đó mình gặp ngay trước cửa đền Sóc Sơn một cây hoa rất lạ mắt, hoa giống như hoa hồng, cũng đỏ rực nhưng cánh hoa dày hơn, có nhụy vàng óng ánh, có lá hình bầu dục dày, bóng và rất xanh. Ðến khi hỏi bà cụ giữ đền, mình mới biết đó là cây hoa trà. Bà cụ vui vẻ tặng mình một cành, mình đem về gác trọ trao lại cho Phước..
Lưu hữu Phước : Tặng hoa mà thực sự là bắt chẹt ! Nhà không có bình cắm hoa, anh lấy một cái ly đựng nước cắm hoa vào rồi tuyên bố : " Trước khi hoa tàn, Phước phải viết xong Bài-hát-kêu-gọi-khởi-nghĩa :.
Mai văn Bộ: Phước nhớ dai thật đấy !
Lưu hữu Phước : Bị đặt điều kiện,bị dồn vào chân tường mà không nhớ sao được ! May ma hoa trà cũng lâu tàn...
Mai văn Bộ : Nhưng rồi mọi việc xảy ra như ý muốn.
Lưu hữu Phước: Ðúng như vậy. Phước không sao ngủ được và bắt đầu sáng tác bài hát ..và đến một giờ sáng,bài hát coi như đã xong.
Mai văn Bộ: Thế là Nguyên (Nguyễn thành Nguyên) và mình bị dựng dậy. Sao? Bài hát Phước đã viết xong rồi à?...Không thể nào quên được cái cảnh nửa đêm, ba đứa chụm đầu lại, vừa nhìn xuống bài hát mới viết trên giấy, cả nhạc và lời, vừa hát với một tinh thần sảng khoái đặc biệt sôi nổi. Rồi lại xóa, lại chữa, khi thì một lời, khi thì một nốt. Rồi lại hát vang dậy cả góc phố.
Lưu hữu Phước: Khoái nhứt là Ðiệp khúc:
Vung gươm lên, ta quyết
đi đến cùng !
Vung gươm lên, ta thề
đem hết lòng !
Tiến lên, đồng
tiến, sá chi đời sống
Chớ quên rằng
là ta là giống Lạc Hồng !
Hết Ðiệp khúc , quay trở lại:
Nào anh em ơi ! Tiến
lên đến ngày giải phóng !
Ðồng lòng cùng
nhau đi, sá gì thân sống !...
Cứ như thế, sáng lúc nào không hay. Bỗng có tiếng gõ cửa! Anh nhớ không ?
Mai văn Bộ: Cảnh sát đến ?
Lưu hữu Phước: May quá ! Thầy đội xếp chỉ yêu cầu, " Các cậu sinh viên Sài Gòn hát khẽ một tí ! Cả khu phố bị đánh thức từ nửa đêm!" Té ra cảnh sát can thiệp vì chúng ta làm ồn, chớ không phải chúng ta vừa sáng tác một Bài-hát-kêu-gọi-khởi-nghĩa!
Mai văn Bộ: May mà họ không biết và không tịch thu bài hát còn để trên bàn viết !
Lưu hữu Phước: Từ đó, Bài-hát-kêu-gọi-khởi-nghĩa chưa có nhan đề, bắt đầu cuộc đời đầy gian truân bất ngờ của nó.
Mai văn Bộ: Nhưng, qua mọi biến cố, nó không ngừng tiến lên phía trước và cuối cùng, nó đã hoàn thành sứ mạng khó khăn là đến kịp nơi hợp điểm vinh quang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Lưu hữu Phước: Lẽ ra, một bài hát kêu gọi khởi nghĩa chỉ có thể là một bài hát bí mật, bí mật ghi chép, bí mật phổ biến..cho đến ngày khởi nghĩa. Thế nhưng, số phận bắt nó phải đi theo một con đường khác. Nó chỉ được giữ tương đối bí mật không quá một năm. Chỉ vì học sinh trường Bưởi đã có bài hát " Hymne du Lypro" và nữ sinh Ðồng Khánh đã có bài " Debout, Belle Jeunesse!" , nên sinh viên đòi phải có bài hát riêng của mình.
Mai văn Bộ: Buồn cười là những bài hát đó đều do Tây soạn ra. Tất nhiên là để tiếp tục " khai hóa " học sinh theo yêu cầu của chủ nghĩa thực dân đang suy tàn. Chúng mình đã tán thành sự gợi ý của anh Dương đức Hiền, tức là làm lời khác cho Bài-hát- kêu-gọi-khởi –nghĩa.
Lưu hữu Phước: Lúc đầu, Phước còn ngần ngại, vì sợ làm hỏng tác dụng kêu gọi khởi nghĩa của bài hát khi thời cơ đến ! Nhưng lập luận của anh Dương đức Hiền là " Ta cứ đặt lời ca cho sinh viên hát công khai để phổ biến trước điệu nhạc, khi nào thời cơ đến ta sẽ đưa lời ca khởi nghĩa ra, mọi người sẽ hát được ngay !" Phước đã bị thuyết phục, vì ngẫm ra, anh Dương đức Hiền có cách nhìn thực tế.
Mai văn Bộ : Cuối cùng, mọi người đều nhất trí lấy bản nhạc của Bái-hát-kêu-gọi-khởi nghĩa, nhưng đồng thời, lúc nào cũng phải nghĩ đến sự cần thiết vượt qua cửa ải ác nghiệt của Sở kiểm duyệt. Có khác nào muốn dung hòa những cái không thể dung hòa được !
Bằng chứng là sự giằng co gay gắt đó đã hiện ra ngay trong mấy câu đầu của bài Sinh viên hành khúc:
Này sinh viên ơi ! Chúng
ta kết đoàn hùng tráng
Ðồng lòng cùng
nhau ta đi kiếm nguồn tươi sáng
Vì tương lai quốc
gia, vì tương lai quốc dân
Từ nay ta tiến lên,
từ nay ta ráng cần..
Ngoài ra , chúng ta cũng chỉ làm cho Ðiệp khúc của bài hát tháng 4 năm 1941 dễ nghe hơn, trơn tru hơn một chút thôi:
Nếu không hát :
Vung gươm lên, ta quyết
đi đến cùng !
Vung gươm lên, ta thề
đem hết lòng !
Tiến lên đồng
tiến, sá chi đời sống !
Chớ quên rằng
ta là giống Lạc Hồng !
Thì ta lại hát :
Sinh viên ! Ta quyết đi
đến cùng !
Sinh viên ơi ! Ta nguyện
đem hết lòng !
Tiến lên, đồng
tiến, vẻ vang đời sống !
Chớ quên rằng
ta là giống Lạc Hồng !
Lưu hữu Phước : Rất dễ hiểu là khi đưa ra Sở Kiểm duyệt, bài hát bị xóa cả bài, với lý do đơn giản là: bài hát của sinh viên Ðại học Ðông Pháp, lời phải làm bằng tiếng Pháp !
Mai văn Bộ: Chán vô cùng !
Lưu hữu Phước : Không có cách nào khác! Ðành vậy thôi. Một bộ tham mưu được triệu tập, gồm có anh Dương đức Hiền, Huỳnh văn Tiểng, Trần văn Khê, Phan huỳnh Tấn.. Cuộc họp đi đến kết luận : Một là, cứ phổ biến trong sinh viên bài hát " Sinh viên hành khúc " như một tài liệu mật, và nếu có dịp, như khi đi du ngoạn, đốt lửa trại v.v sinh viên ta cứ hát ; Hai là, dầu sao cũng phải soạn lời tiếng Pháp để phổ biến rộng điệu nhạc. Vấn đề cuối cùng là : ai sẽ soạn lời tiếng Pháp cho bài hát ?Phước đã đề nghị Mai văn Bộ và mọi người vui vẻ chấp thuận ngay ! (cười)
Mai văn Bộ : Tại sao Phước không đề nghị người khác ?
Lưu hữu Phước : Vì anh đã soạn lời tiếng Pháp cho bài Hành khúc của thanh niên Nam Kỳ ! Vả lại, mọi người đã đồng ý cho anh một thời gian một tuần để soạn bài hát. Thế nhưng, chỉ sau vài ngày anh đã hoàn thành nhiệm vụ. Tối hôm đó, Phước đi ngủ, anh thức viết bài hát. Viết xong, anh lăn ra ngủ. Phước gọi dậy hỏi bài hát đâu. Anh ú ớ nói một đêm nữa mới xong. Nhưng , kéo hộc tủ bàn viết ra, Phước chụp ngay bài hát đã viết xong: La marche des étudiants.
Étudiants,du sol l’appel tenace
Pressant et fort, retentit dans l’éspace
Phước mừng quá, và ngay sáng hôm đó, bộ tham mưu họp lại, phân tích lời bài hát, rút ra ba nhận xét : Một là, nói Ðông Dương ( Indochine) mà không nói Ðông Pháp ( Indochine Francaise); Hai là, nói phục vụ Ðông Dương, tức phục vụ ba nước Việt, Miên, Lào; Ba là, nước Pháp chính quốc hoàn toàn vắng mặt. Thế là, bộ tham mưu nhứt trí thông qua.
Mai văn Bộ: Sở Kiểm duyệt của thực dân không có lý do gì để bác bỏ bài hát nên đã duyệt
Lưu hữu Phước : Bài hát La Marche des étudiants được in va phổ biến rộng trong sinh viên, với Ðiệp khúc :
Ta phục vụ Người,
hỡi Ðông Dương yêu quý
Với lòng dũng
cảm và kỷ luật !
Ðây là mục tiêu,
đây là pháp lệnh
Và không gì lay chuyển
nổi niềm tin của chúng ta.
(Te servir, chère Indochine
Avec coeur et discipline
C’est notre bit. cést notre loi
Et rein n’ ébranle notre foi)
Tuy vậy, sinh viên còn cảm thấy thiếu bài hát riêng của mình.
Mai văn Bộ : Do đó, nhân danh Tổng hội sinh viên Ðông Dương, do anh Phạm biểu Tâm làm Hội trưởng lúc bấy giờ, Phước và Ban âm nhạc của Hội đã tổ chức một cuộc thi làm lời tiếng Việt cho bài hát. Phước còn nhớ cuộc thi đã được tiến hành như thế nào không ?
Lưu hữu Phước: Phước còn nhớ có 4 bài dự thi, mỗi bài gồm 3 đoạn và một Ðiệp khúc. Một bài của anh và anh Tiểng, một bài của anh Ðặng ngọc Tốt, một bài của anh Lê khắc Thiền và một bài của anh Vũ văn Cẩn và Nguyễn ngọc Minh. Ban chấm thi chọn những câu hay nhứt, được 3 đoạn và một Ðiệp khúc, gồm nhiều câu của hai anh Lê khắc Thiền và Ðặng ngọc Tốt. Nhan đề " Tiếng gọi sinh viên " là của anh Thiền.
Năm 1942, khi được đưa ra Sở Kiểm duyệt, bài hát bị cắt bỏ Ðiệp khúc và hai Ðoạn 2 và 3, chỉ còn có đoạn 1, khiến bài hát không thể hát được ! Ðó là nói vậy thôi. Trong thực tế, sinh viên Việt Nam vẫn chép tay chuyền cho nhau và vẫn hát toàn bài như nó không hề bị kiểm duyệt cắt xén gì cả, chỉ có điều là chưa được in.
Mai văn Bộ : Tới khi nào thì bài Tiếng gọi thanh niên mới được in ra, Phước còn nhớ không ?
Lưu hữu Phước : Ðến năm 1944, Phước vận động mãi và nhờ sự can thiệp của nhiều người, Sở Kiểm duyệt Sài Gòn mới cho phép in cả 3 Ðoạn và Ðiệp khúc. Nhưng phải gửi in tại một nhà in ở Cà Mau. Tuy vậy, Sở Mật thám Pháp đã gửi thông tư mật cho các Ty thanh niên Thể dục thể thao, ra lệnh cấm, không cho phép hát mấy bài Tiếng gọi thanh niên, Người xưa đâu tá, Hồn tử sĩ và cấm cả bài Bóng người Núi Lam. Do đó bài Tiếng gọi thanh niên in xong ở Cà Mau, vừa mới được chở hết lên Sàì Gòn vào tháng 9 năm 1944 thì đến tháng 10 bị Sở Mật thám tịch thu khi chúng khám nhà chị Hai tôi, chỗ tôi ở tại đường Dixmude ( nay là đường Ðề Thám ).
Mãi đến năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, ta mới có điều kiện hoạt động nửa công khai và bài hát mới được viết lại theo tinh thần tháng 4 năm 1941 và được nhà xuất bản Hoàng Mai Lưu ấn hành dưới nhan đề Quốc dân hành khúc.
Mai văn Bộ : Tiếng gọi sinh viên trở thành Tiếng gọi thanh niên và cuối cùng là Quốc dân hành khúc. Phước nghĩ thế nào về sự thay đổi này?
Lưu hữu Phước: Xin nhắc lại tiền thân của tất cả những bài hát mang các tên khác nhau trên đây , là Bài-hát-kêu-gọi-khởi-nghĩa tháng 4 năm 1941, mà nội dung chủ yếu được thể hiện bằng những lời ca sau đây:
Này anh em ơi ! Tiến
lên đến ngày giải phóng !
Ðồng lòng cùng
nhau ta di, sá gì thân sống !
Cùng nhau ta tuốt gươm,
cùng nhau ta đứng lên
Thù kia chưa trả xong,
thì ta luôn cố bền
Lầm than bao năm, ta đau
khổ biết mấy
Vàng, đá, gấm
vóc, loài muông thú cướp
lấy
Loài nó hút lấy
máu đào chúng ta
Ðời ta gian nan, cửa
nhà tan rã
Bầu máu, nhắc tới
đó, càng thêm nóng sôi
Ta quyết thề phá
tan quân dã man rồi..
Với Ðiệp khúc hùng tráng :
Vung gươm lên, ta quyết
đi đến cùng !
Vung gươm lên, ta thề
đem hết lòng !
Tiến lên, đồng
tiến, sá chi đời sống !
Chớ quên rằng
ta là giống Lạc Hồng !
Tiếng gọi sinh viên chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu của một giai đoạn. Trái lại, Tiếng gọi thanh niên và Quốc dân hành khúc là sự khẳng định lại tinh thần thãng 4 năm 1941 và đồng thời, tuy được nâng lên theo đà chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, nội dung sá gì thân sống ở câu 2 đến Ðiệp khúc vẫn nhắc lại tinh thần rực lửa " quyết xả thân" lúc bấy giờ đã truyền từ những liệt sĩ của Khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ sang thế hệ trẻ.
Mai văn Bộ : Ðúng như vậy ! Xin hỏi Phước câu hỏi cuối cùng . Hai mươi tuổi, sáng tác Bài-hát-kêu-gọi-khởi-nghĩa và tiếp theo , Tiếng gọi sinh viên trở thành Tiếng gọi thanh niên và thể rút ngắn của nó là bài Lên Ðàng, đã từng bước huy động hàng vạn, hàng chục vạn sinh viên và thanh niên tham gia phong trào ca hát tiến thẳng đến Cách Mạng Tháng Tám, Phước nghĩ gì về sự thành công lớn lao đo.?
Lưu hữu Phước : Thành thật mà nói, Phước chưa bao giờ dám ước mơ tới một sự thành công như thế ! Vì yêu nước mà sáng tác, sáng tác để cổ vũ tinh thần yêu nước của thanh thiếu niên..phần còn lại là sự nghiệp của quần chúng. Tôi phải cám ơn anh chị em thanh niên cùng thế hệ, vì việc soạn nhạc của tôi thực ra là thể hiện tấm lòng yêu nước hăng say của tuổi trẻ và dầu chỉ được bạn bè, đồng chí hát mươi ngày, cũng đủ vui lòng rồi..ù
Mai văn Bộ viết tiếp , " Ðầu niên khóa 1941-, với một đa số áp đảo, anh Dương đức Hiền được bầu vào ghế Chủ tịch T.H.S.V.Ð.D. Như vậy là " cuộc đảo chính qua hai bước " đã được thực hiện một cách êm thắm bằng sự biểu quyết của đa số. Ðến niên khóa 1943-1944 cũng vậy.
Tóm lại, thông qua phong trào ca hát " Thanh niên và lịch sử " và chủ trương tổ chức các trại hè sinh viên ở ba miền Bắc, Trung, Nam, nhóm tích cực vừa đâu tranh vừa xây dựng lực lượng, đã hoàn toàn làm chủ tình hình .
Trên thực tế , trường Ðại học Hà Nội vào đầu năm 1944 đã trở thành một vườn ươm cách mạng".
Trích trong cuốn sách " Lưu hữu Phước, con người và sự nghiệp" của Mai văn Bộ từ trang 95 đến trang 134)
Ðúng là " dấu đầu lòi đuôi" , Mai văn Bộ và Lưu hữu Phước cố chống chế cho rằng lời Việt bài hát có trước lời Pháp rồi lại kể chuyện có mở cuộc thi viết lời Việt cho bài hát. Nếu có lời Việt cho bài nhạc ngay từ đầu thì còn mở cuộc thi để chọn lời Việt làm gì nữa? Nói đến Cộng sản là nói đến gian dối, những người làm nhạc trong chế độ Cộng sản như Lưu hữu Phước cũng không sao thoát khỏi cái thói gian dối cố hữu đó. Trong đoạn văn trích dẫn trên có nói đến người tham gia đặt lời cho bài hát Nguyễn thành Nguyên, hy vọng ông Nguyễn thành Nguyên (hiện nay vẫn đang còn sống ở San Francisco), là một nhân chứng lịch sử về bài quốc ca , sẽ bổ túc thêm sự dẫn giải để làm sáng tỏ một vấn đề của lịch sử dù ông đã trả lời Bác sĩ Bùi duy Tâm là lời Việt bài quốc ca có sau lờùi tiếng Pháp. Gian lận và bóp méo lịch sử vốn là nghề ruột của Cộng sản và chúng ta phải có bổn phận bạch hóa và làm sáng tỏ những gì còn uẩn khúc, mù mờ để trả lại sự thật cho lịch sử. Chúng ta không thể để cho Cộng sản tiếp tục thói quen " ăn gian nói dối " thêm được nữa.
Mới đây , trong số báo Xuân Văn Nghệ năm Mậu Dần 1998 tại Sài Gòn, tác giả Hồng Hải đã viết về Lưu hữu Phước trong bài viết mang tên " Năm Mậu Dần nghĩ về những bài hát tiến công của Nhạc sĩ Lưu hữu Phước" như sau:
" ...Chính vì có những con người cách mạng, tổ chức yêu nước từ nhà trường đến phong trào sinh viên thanh niên, cao trào cách mạng giành chánh quyền tháng tám và trải qua hai cuộc kháng chiến đánh Pháp chống Mỹ dưới sự lãnh đạo của Ðảng, Nhà nước, do Bác Hồ làm lãnh tụ đã bồi đắp cho Nhạc sĩ Lưu hữu Phước tinh thần yêu nước..
....Nhất là bài hát Tiếng gọi thanh niên, các chế độ bù nhìn tay sai của đế quốc Pháp, Mỹ không thiếu những nhạc sĩ nhưng không có nhạc phẩm nào qua được âm điệu của nhạc Tiếng gọi thanh niên, nên chúng trắng trợn chiếm đoạt làm quốc thiều cho chế độ chúng !
(Báo Xuân Văn Nghệ năm Mậu Dần 1998 trang 6 và 27 )
Nước đã mất, nhà đã tan hơn hai mươi lăm năm rồi mà vẫn còn bị Cộng sản chửi về bài Quốc ca của chúng ta như thế này thì đúng là đau đớn và nhục nhã thật. Tuy nhiên, phải công nhận chúng chửi đúng vì quả thật chúng ta đã "cầm nhầm " bài hát của một Nhạc sĩ Cộng sản. Chính vì sự đần độn về văn hóa, sự thiếu ý thức chính trị của những người cầm quyền miền Nam ngày xưa bây giờ đồng bào hậu sinh lãnh đủ ! Và không biết nỗi nhục này còn kéo đến bao giờ..nếu chúng ta không ra tay hành động.
Trên thế giới này người dân nước nào cũng hãnh diện với bài quốc ca của nước họ. Người nhạc sĩ sáng tác quốc ca là người con yêu của tổ quốc quốc gia ấy. Chỉ có những người Việt Nam lưu vong bất hạnh mới có một bài quốc ca là bài hát của kẻ thù. Mỗi lần hát lên là mỗi lần người hát cảm thấy tủi nhục, xót xa.
Bài quốc ca của Hoa Kỳ cũng mang lại niềm hãnh diện cho người công dân Mỹ mỗi lần bài ca được hát lên, người ta nhìn thấy trên gương mặt người hát nỗi sung sướng tự hào. Trong bài viết của Bác sĩ Phan quang Ðán cũng có nói đến bài quốc ca của xứ Hiệp chủng Quốc này. Xin nói thêm là vào tháng 8 năm 1814, quân đội Anh đóng gần thủ đô Washington bắt một công dân Mỹ tên William Beanes của vùng cao Marlborough, Maryland. Họ giữ ông Beanes trên một tàu chiến ở vịnh Chesapeake gần cửa sông Potomac. tướng John Mason lo chuyện trao đổi tù binh gửi hai người Mỹ đến gặp người Anh để lo cho ông Beanes được phóng thích. Những người Mỹ được gửi đi là ông Francis Scott Key, một luật sư và một người viết nhạc,làm thơ tài tử, vốn là người bạn của ông Beanes, và ông John S. Skinner, một nhân viên chính phủ Mỹ.
Key và Skinner tới Baltimore. Tại đó họ lên một tàu Mỹ tên Flag of truce ship (Tàu cờ ngừng bắn), vốn là một con tàu dùng để thương thảo với người Anh. Con tàu này đưa hai ông đến gần tàu chiến Anh vốn đang tính chuyện tấn công cứ điểm Mc Henry nằm gần cảng Baltimore. Người Anh đồng ý thả ông Beanes. Nhưng họ không muốn những người Mỹ đến gặp họ biết chuyện người Anh sắp tấn công những người Mỹ yêu nước trên bờ. Do đó, họ cầm giữ Skinner và Beanes ngay trên chiếc Tàu cờ ngừng bắn, nằm gần đoàn tàu của người Anh cho đến khi trận đánh chấm dứt.
Cuộc tấn công bắt đầu vào ngày thứ ba , 13 tháng 9, 1814, và kéo dài suốt ngày đêm. Ông Key và bạn ông biết cứ điểm Fort MacHenry phòng ngự rất yếu. khi màn đêm buông xuống, họ nhìn thấy lá cờ Mỹ vẫn còn bay phất phới trên con Tàu cờ ngưng bắn. Key cảm thấy xúc động bồi hồi. Ông rút một cái thư từ trong túi áo và bắt đầu viết những vần điệu. Xế ngày hôm đó, người Anh thả những người Mỹ có mặt trên tàu và Key trở về Baltimore. Tại đây, ông hoàn tất bài ca . Vào khoảng tháng 11, 1814, bài hát được in ở Baltimore dưới cái tên " The Star-Spangled Banner" (Mảnh vải dát cờ) . Sau đó không lâu nó được in tại nhiều thành phố khác của Mỹ. Quân đội Mỹ bắt dầu hát bài ca này vào lúc thượng cờ và hạ cờ mỗi ngày vào năm 1895. Quốc hội Hoa Kỳ chính thức chấp nhận bài hát này làm quốc ca vào tháng Ba năm 1931.
Kinh nghiệm quốc ca Mỹ và Pháp cho thấy bài quốc ca được hình thành trong quần chúng trước khi được quốc hội chính thức chấp nhận làm bài quốc ca cho quốc gia.
Ngày nay người quốc gia ở rải rác khắp thế giớ, có lẽ một ban đặc nhiệm được hình thành để rồi tổ chức một cuộc thi chọn " Bài ca quang phục" (hãy khoan sử dụng danh từ quốc ca). Cuộc thi sẽ tiến hành trong 3 tháng, các nhạc sĩ tham dự gửi bài nhạc và lý lịch kèm theo. Qua phương tiện Internet cũng có thể mời quốc nội tham gia với lý lịch Nhạc sĩ được giữ kín. Dĩ nhiên viết nhạc quang phục quê hương thì không thể là Cộng sản rồi, và quốc nội cũng có thể tham gia góp ý , bình bầu bài hát mới này dù chuyện này cũng cần ban Ðặc nhiệm " bảo mật, phòng gian" tối đa để tránh rắc rối cho người tham dự trong nước. Ban giám khảo Ðặc nhiệm chọn chừng 10 bài hay nhất rồi cho phát thanh trên các hệ thống truyền thanh, truyền hình Việt ngữ khắp các nơi có người Việt cư ngụ trên thế giới cũng như phổ biến trên báo chí. Rồi sau đó mở một cuộc trưng cầu dân ý để lấy " bài ca quang phục " hay nhất, dựa trên ý nghĩa lời ca, lý lịch quốc gia của tác giả bài hát và dĩ nhiên dựa trên phiếu bầu của dân tỵ nạn Việt Nam toàn thế giới. " Bài ca quang phục" này rất có hy vọng trở thành quốc ca của một nước Việt Nam tương lai. Nếu không được như thế thì nó cũng là bài ca dùng để chào cờ cho tất cả những buổi lễ nào của người tỵ nạn Việt Nam. Ðây là một chuyện khả thi, vấn đề bây giờ là có lửa có lòng ngồi với nhau để làm việc này không. Nếu không làm thì cứ phải tiếp tục chịu cái cảnh "chống Việt Cộng " mà lại phải lấy một bài hát của " Việt Cộng " làm quốc ca!
Rồi đến bài " Hồn tử sĩ " của Lưu hữu Phước nữa. Ai có đi dự ngày Quân lực 19 tháng 6 hàng năm thì lại phải chứng kiến một chuyện vừa mỉa mai, vừa chua xót là những người quốc gia dùng bài của một tên Cộng sản (Lưu hữu Phước) để chiêu hồn chiến sĩ quốc gia ! Cũng nên ngưng tức khắc chuyện oan trái, oái oăm này lại ngay trong khi chờ bài mới. Chỉ cần vài phút im lặng mặc niệm trong khi làm lễ là đủ rồi.
Tháng trước Tổng thống Putin cho phép sử dụng lại điệu nhạc của bài quốc ca Liên bang Xô Viết cũ (dù Liên Bang Xô Viết đã tan tành từ năm 1991õ), chỉ đổi lời lại mà thôi. Xem thế mới thấy chuyện bài ca, bài hát quốc ca nó nhiêu khê đến chừng nào.
Nhà Bác học Einstein lúc còn sinh tiền có nói một câu khá hay. " Phá vỡ một thành kiến còn khó hơn phá vỡ một nhân nguyên tử " . Ai cũng thấy rõ bài quốc ca cũ của V.N.C.H là một thành kiến sai lầm nhưng phá vỡ nó không phải là chuyện dễ. Kể từ khi tôi đặt vấn đề đổi quốc ca đến nay đã 14 năm, những người góp ý với chuyện đổi quốc ca như ông Nguyễn Hậu (Chủ tịch hội cựu tù nhân chính trị), nhà báo Phạm kim Vinh, Lãnh tụ Phật giáo Hòa Hảo Nguyễn Long Thành Nam, Giáo sư Nguyễn ngọc Huy, đã qua thế giới bên kia. Tình hình quốc nội mấy tháng nay kể từ ngày Lý Tống rải 50000 truyền đơn xuống Sài Gòn , Tây Ninh (17.11.200), có nhiều biến động. Ðất nước đang trở mình chuẩn bị đón vận hội mới. Cộng sản Việt Nam đang sống những ngày cuối cùng vì dân chúng chắc chắn sẽ vùng lên để quật ngã chúng. Trong thời điểm này nếu có một bài hát tụ hội được lòng người, thôi thúc họ đứng dậy tranh đấu và tiến về phía trước thì quý hóa và thực tiễn biết bao. Bổn phận của chúng ta là tạo điều kiện cho bài hát lịch sử này ra đời chứ không thể ngồi thụ động được nữa.Có nhúng tay vào làm rồi kết quả sẽ đến, nếu gặp ù khó khăn thì cũng được ích lợi là rút thêm kinh nghiệm đấu tranh.
Quốc ca hiện nay của chúng ta là quốc nhục. Muốn gỡ bỏ cái nhục chung này thì mọi người chúng ta đều phải xắn tay áo vào hành động. Tổ quốc Việt Nam nếu còn có một ngày mai tươi sáng cũng là tùy vào sự dấn thân của mọi người dân, quốc nội cũng như hải ngoại. Thụ động, thờ ơ với cuộc đấu tranh lúc này là có tội với tổ quốc, với lịch sử.
Ngày mà mọi người,
quốc nội cũng như hải ngoại ca
vang bài hát mới, tượng
trưng cho linh hồn của người Việt
Nam tự do, thì đó cũng là
ngày báo hiệu một bình minh xuất
hiện trên quê hương Việt Nam yêu
dấu của chúng ta.
Lawndale, một ngày Chủ nhật
nắng ráo mát mẻ đầu tháng
1 năm 2001
Trần Viết Ðại
Hưng
1. Lời góp ý thêm
của tác giả cuốn sách này.
2. Ai có nhờ lời
trong bài hát " Lãnh tụ ca" và "
Tình bác sáng đời ta" của
Lưu hữu Phước, xin gửi
cho tôi để có thể bổ túc
khi tái bản cuốn sách này. (Xin
gửi theo địa chỉ email: HPHUNHUAN@AOL.COM)