Bộ máy lâu lâu nó cũng chạy
Ngô Nhân Dụng

Kư giả Mure Dickie viết về việc cải tổ các ngân hàng thương mại ở Trung Quốc, trên nhật báo Financial Times. Nói chung, vá víu.

Ở đầu bài báo, ông Dickie kể chuyện cũ, trước đây hơn 10 năm. Ông làm việc ở Bắc Kinh, là một thân chủ của Trung Quốc Ngân Hàng, một trong bốn nhà băng lớn nhất. Một hôm ông thấy ngân hàng lầm lẫn, làm cho trương mục của ông được lợi một số tiền vài ba trăm mỹ kim. Ông này học được tính “Quân tử Trung Quốc” (Xưa vẫn gọi là Quân tử Tàu) từ bao giờ không biết, bèn đến báo cho nhân viên ở trụ sở chính của ngân hàng này để trả lại tiền cho họ. Nhân viên ngân hàng không biết làm cách nào để giải quyết, chuyển ông đi từ cửa sổ này sang bàn giấy khác, mỗi lần đều phải đứng nối đuôi chờ đợi; cho tới khi ông nản chí bỏ cuộc luôn. Người thâu ngân viên sau cùng nói cảm ơn thiện chí của ông; nhưng cô thú nhận cô không có phương án nào giải quyết mối bận tâm của ông cả.

Người sống ở một nền kinh tế b́nh thường chắc không hiểu nổi thái độ của các nhân viên ngân hàng này. Thấy thân trủ đến trả lại tiền cho ngân hàng, tức sở làm, cơ quan, chủ nhân của ḿnh th́ phải mừng rỡ lấy lại ngay mới phải chứ? Họ không có sẵn phương án nào để nhận tiền người ta trả th́ cứ đặt ra những thủ tục mới, nếu không th́ chính ngân hàng bị thiệt. Nhưng họ không dám làm ǵ cả. Hoặc v́ sợ để lộ những lỗi lầm của ḿnh gây ra sự việc đó, hoặc v́ không dám làm phiền thủ trưởng của họ phải giải quyết một chuyện tầm thường chỉ có vài trăm mỹ kim! Tóm lại, đúng là lối làm ăn tiêu biểu quốc doanh! Chuyện nhỏ như vậy, chắc chuyện lớn cũng không khác. Từ trên xuống dưới đă quen thói “dùng tiền chùa!”

Cuối bài báo, ông Dickie kể một kinh nghiệm bản thân gần đây. Năm ngoái, ông dùng thẻ rút tiền ở một cái máy tự động (ATM) của Ngân Hàng Công Thương Trung Quốc (ICBC) tính lấy ra 2,000 nhân dân tệ, khoảng 250 đô la Mỹ. Đó là ngân hàng thương mại lớn nhất thuộc nhà nước, được ông tin cậy. Ông nghe tiếng máy ATM chạy ŕ ŕ như đếm tiền, rồi ngưng, chẳng thấy đồng tiền nào ra cả.

Khi vào ngân hàng khiếu nại, lúc đầu họ khăng khăng quả quyết là máy trục trặc nên việc rút tiền bị đ́nh chỉ; sau cùng họ mới nhận là máy có trừ khoản tiền đó ra khỏi trương mục của ông; và họ hứa sẽ bồi hoàn. Trong khi đôi co, ông được biết thêm là cái máy ATM này nó hay bị hư như vậy lắm v́ khách hàng cứ vào than phiền hoài. Khi nhà báo hỏi nếu cái máy hay hư như vậy tại sao ngân hàng không bỏ nó đi, vị quản đốc quơ tay nói, “Nhưng lâu lâu máy nó cũng chạy!”

Đọc xong câu chuyện trên tôi thấy có điều ǵ không ổn. Một chuyện lớn chứ không phải nhỏ.

“Lâu lâu máy nó cũng chạy” có thể là một lư do để giữ cái máy ATM ở đó hay không? Ở những khu thương xá bên này, có những cái máy bán kẹo viên bé tí cho trẻ em theo cha mẹ đi mua sắm ghé vào mua kẹo. Bỏ vô máy một, hai đồng xu nhỏ, máy chạy ra mấy cục kẹo xanh xanh đỏ đỏ. Nhưng có lúc máy không chạy, em bé bỏ tiền vô mà kẹo không ra, những người phụ trách ở thương xá thường quàng kín cái máy lại, viết mấy chữ: “Máy hư” gắn lên. Tránh không để thân chủ mất tiền và bực ḿnh. Ở bên lề đường phố đông hay có những cột tính giờ đậu xe tự động, bỏ 25 xu vô th́ có quyền đậu xe được 15 phút, tối đa đậu 2 tiếng. Cũng vậy, nếu máy hư, người ta đem chụp kín đầu để không ai bỏ tiền vô mà đồng hồ không chạy, mất tiền vô ích. Nếu một cái máy ATM không chịu phát tiền ra chắc người chủ cũng cho nó nghỉ chứ không để thân chủ bất b́nh.

Tại sao người ta phải cho những cái máy bị hư ngưng hoạt động? Chắc là v́ không muốn mất khách, v́ muốn bảo vệ lợi nhuận của cơ sở thương mại. Nhưng đó là một chuyện nhỏ, v́ thực ra trong hành động đó có những lư do sâu xa và cơ bản hơn.

Khi một cửa hàng, nhà băng, hay thành phố đặt những cái máy tự động cho thân chủ dùng, họ có một thứ hợp đồng giữa hai bên. Khi dùng thẻ rút tiền tự động của ngân hàng, chắc chúng ta đă kư những hợp đồng, ít ai đọc hết. Nhưng khi thành phố đặt những máy tính giờ đậu xe bên cạnh đường, họ cũng bị ràng buộc bởi những hợp đồng do luật lệ ấn định. Dù kư kết hay không, người sử dụng và người đặt máy cũng có những hợp đồng ngầm hiểu với nhau. Là bên này dùng máy th́ bên kia bảo đảm là máy chạy. B́nh thường là máy phải chạy, thỉnh thoảng máy có bị hư th́ bên đặt máy đă làm sai bản hợp đồng ngầm đó.

Nhưng phải coi chuyện máy hư là trường hợp bất thường và khi chuyện đó xảy ra th́ phải cho máy ngưng ngay. Không thể nói rằng “Cái máy này nó hay bị hư, nhưng cứ để đó v́ lâu lâu nó cũng chạy!” Mà đó chính là lối suy nghĩ của vị quản đốc một chi nhánh ngân hàng ở Trung Quốc.

Tại sao một con người có ăn học, có địa vị, và sống giữa thủ đô một nước văn minh, đă tiếp xúc với người ngoại quốc, mà lại có lối suy nghĩ như vậy nhỉ?

Theo tôi, đó là một câu hỏi rất quan trọng.

Bởi v́ bộ máy nhà nước cai quản xă hội cũng có vai tṛ giống như các bộ máy khác. Nó được đem ra bày đó với mục đích phục vụ thân chủ, được gọi là nhân dân. Phần lớn chúng ta khi sinh ra là đă thấy có bộ máy đó sẵn rồi nên không để ư, coi như Trời đă sinh ra ông nhà nước ngay từ lúc tạo thiên lập địa rồi. Nhưng thực ra đáng lẽ mọi người đều phải đặt câu hỏi: Bày bộ máy đó ra đây để làm cái ǵ vậy?

Hăy khoan bàn về vai tṛ của nhà nước trong xă hội, không bàn đến chuyện nhà nước phải dân chủ, phải được dân bầu, vân vân. Hăy nh́n nhà nước giống như một cái máy đậu xe tự động hay máy bán kẹo. Nó được đặt ra ở đó để cung cấp những thứ dịch vụ như là cấp bằng lái xe, sửa đường sá, giữ trật tự an ninh, vân vân, và tất nhiên, bắt ḿnh đóng thuế. Điều đầu tiên là chúng ta phải giả thiết rằng cái máy đó chạy đă. Nếu nó không chạy, tức là chuyện bất thường. Không thể coi như cái nhà nước đó “lâu lâu máy nó cũng chạy” là điều may mắn đáng mừng rồi!

Mà ở những quốc gia như Trung Quốc hoặc Việt Nam, họ quen suy nghĩ theo lối nh́n guồng máy nhà nước “lâu lâu máy nó cũng chạy,” coi đó là điều may mắn, phúc đức cho dân. Mỗi lần thấy máy chạy một cái là phải tung hô, đời đời nhớ ơn! Cái ông quản đốc nhà băng ở Trung Quốc suy nghĩ như vậy, cho nên ông ấy mới biện minh việc giữ nguyên cái máy ATM, v́ “lâu lâu máy nó cũng chạy!”

Cái quan niệm đó có phải do nền văn hóa Khổng Mạnh nó tạo ra hay không? Có thể lắm, nhưng không chắc chắn. Chế độ phong kiến tập cho người ta cái thói coi bộ máy quan chức là cha mẹ. Cha mẹ th́ hiển nhiên rồi, ḿnh sinh ra đời là đă phải gọi cha là cha, làm sao tránh được? Thời phong kiến quan niệm đó đă in sâu hàng ngàn năm, mất công lắm mới gột rửa được.

Nhưng tại sao trong chế độ cộng sản, một sản phẩm của Tây Phương, quan niệm nhà nước “lâu lâu máy nó cũng chạy” vẫn c̣n nguyên vẹn vậy?

Nghĩ cho kỹ th́ có hai lư do. V́ bản chất chế độ cộng sản là độc tài, chuyên chế, cho nên nó cũng không khác ǵ nhà nước phong kiến. Lư do thứ hai là nhà nước cộng sản bắt dân chúng ca ngợi họ, nhớ ơn họ, không khác ǵ mà c̣n mạnh mẽ hơn, thường xuyên hơn cái nhà nước quân chủ đời xưa. Với lối cai trị như vậy, họ không những kéo dài mà c̣n củng cố tinh thần phong kiến cho chặt chẽ, rộng răi hơn xưa nữa!

Đến lúc người dân, những người tiêu thụ các dịch vụ của bộ máy nhà nước phải đặt câu hỏi, phải đặt những câu hỏi căn bản.

NGÔ NHÂN DỤNG