Chính trị quyết định kinh tế
NGÔ NHÂN DỤNG

 

Ba mươi năm đă qua kể từ ngày miền Nam bị chiếm, chế độ cai trị ở nước ta vẫn dựa trên hệ thống kiểm soát của công an như cũ. Kinh tế nước ta vẫn đứng hàng thấp nhất Á Châu. Đảng Cộng Sản vẫn nhất định nắm độc quyền lănh đạo, dù dân đă chán t́nh trạng tham nhũng và chậm tiến lắm rồi. Nhưng các nhà trí thức lên tiếng th́ lập tức bị trấn áp và tù đầy. Vậy tương lai nước ta sẽ đi về đâu?

Đảng Cộng Sản đă tuyên dương công tŕnh “đổi mới” của họ, Mùa Xuân vừa rồi họ hô khẩu hiệu “Mừng đất nước đổi mới” để dân chúng an tâm chờ đợi. Họ hứa hẹn rồi mọi chuyện sẽ thay đổi khá hơn. Nhưng chờ 30 năm mà vẫn tụt hậu so với các nước trong vùng, kể cũng hơi lâu quá rồi! Người dân Việt Nam, từ miền Bắc tới miền Nam c̣n chưa đứng dậy đ̣i thay đổi nhanh hơn, cũng v́ những tiếng nói kêu gọi đổi nhanh, đổi toàn diện chưa đủ mạnh, chưa thu hút được nhiều người. Những lời bộc bạch như lời ông Lê Đăng Doanh chỉ nói cho một số cán bộ nghe thôi, chưa được truyền lan, chưa thấm xuống đến các đảng viên b́nh thường. Mà tầng lớp cán bộ đảng th́ quyền lợi của họ dính liền với cơ chế hiện nay, làm sao họ lại muốn thay đổi nhanh hơn được? Trong cơ cấu xă hội hiện nay, họ là “giai cấp thượng lưu” đang được hưởng phần ăn lớn hơn người khác trong nồi cơm chung của dân tộc. Lỡ thay đổi, phần ăn của họ bị bớt đi th́ sao? Giới “thượng lưu lănh đạo” một xứ chỉ thay đổi cơ chế xă hội khi họ cảm thấy nếu không đổi hoặc dân sẽ làm cách mạng, hoặc tất cả bị tŕ trệ, chính họ bị thiệt tḥi. Các đảng Cộng Sản ở Đông Đức, Ba Lan, sợ dân nổi dậy. Đảng Cộng Sản Nga th́ thấy tất cả kinh tế tŕ trệ không đổi th́ chết. Họ chỉ thay đổi nếu thấy cái được lợi về lâu dài sẽ lớn hơn cái bị thiệt trong thời gian ngắn chuyển tiếp.

Cho nên chúng ta cần thuyết phục chính “giai cấp thượng lưu” ở nước ta, tức là các cán bộ có quyền và có tiền, thấy rằng nếu không thay đổi chính trị th́ kinh tế khó phát triển được. Nghĩa là nếu họ muốn cho tương lai chính họ và thế hệ con em họ được khá hơn, th́ không phải chỉ giữ tỷ lệ phần chia từ nồi cơm chung mà ḿnh đang hưởng, họ c̣n phải t́m cách làm cho cái nồi cơm đó nó to và đầy hơn, dù phần chia của ḿnh có thu nhỏ lại nhưng bát cơm vẫn to hơn cái bát có bây giờ.

Những người đang nắm quyền ở nước Việt Nam phải được thuyết phục rằng: Muốn cả nồi cơm đầy hơn, th́ phải thay đổi cơ chế xă hội, chính trị, kinh tế. Trong khi thay đổi cơ chế chính trị, quư vị có thể bị thiệt tḥi chút đỉnh trong thời gian ngắn khi tỷ lệ phần chia của quư vị bị giảm để san sẻ cho người yếu thế; nhưng trong tương lai cả nồi cơm đầy gấp bội th́ dù phần chia bị giảm một đi, số cơm trong bát vẫn nhiều hơn! Như vậy cũng là tiếp tục theo khẩu hiệu: Đời cha gian khổ củng cố đời con! Mà đâu đến nỗi khổ? Hy sinh bớt phần ḿnh một chút mà không những con cháu ḿnh, cả nước cũng được nhờ, c̣n đợi ǵ mà không thay đổi? Có nhiều chứng cớ để thuyết phục những người đang cầm quyền ở Việt Nam thấy nhu cầu thay đổi, v́ quyền lợi của chính họ.

Một bài học của kinh tế học hiện đại là: Chính trị có thể quyết định kinh tế. Một chế độ duy tŕ t́nh trạng chênh lệch giàu nghèo như hiện nay không những xấu về đạo lư xă hội, mà c̣n làm cho kinh tế chậm tiến nữa. Ngược lại, thay đổi cơ cấu, hạn chế quyền hành của các đấng thượng lưu lănh đạo, các sếp lớn, th́ kinh tế cả nước sẽ lên. Điều này đă được người ta nghiên cứu rất kỹ, có chứng cớ đàng hoàng. Nhân ngày 30 Tháng Tư, 30 năm sau, chúng tôi xin tŕnh bày lại những công tŕnh nghiên cứu đó.

Trong Tháng Tư, Hội Kinh Tế Hoa Kỳ (AEA) mới phát giải thưởng cho “nhà kinh tế học trẻ tuổi nhiều triển vọng nhất,” gọi là giải John Bates Clark Medal, hai năm phát một lần. Nhiều nhà kinh tế được giải Nobel đă từng đoạt giải này khi c̣n trẻ, như Paul Samuelson, Milton Friedman, Joeseph Stiglitz. Năm nay, giải được trao cho Daron Acemoglu, giáo sư Đại Học MIT, người gốc Thổ Nhĩ Kỳ, mới ngoài 30 tuổi.

Công tŕnh nghiên cứu của Acemoglu rất lư thú, v́ câu hỏi chính ông đặt ra là “Tại sao trên thế giới bây giờ lại có những nước nghèo và những nước giàu?” Ở những nước giàu th́ có các thị trường hoạt động hiệu quả, dân chúng được giáo dục và có nhiều máy móc, kỹ thuật để phát triển. C̣n ở các nước nghèo th́ thiếu hẳn các thứ đó. Có một nguyên nhân sâu xa và phổ quát nào để giải thích sự khác biệt đó hay không?

Câu trả lời giản dị nhất là, tại số trời! Nói cách khác, tại khung cảnh địa dư, thủy thổ và khí hậu khác nhau nên có nước tiến bộ, có nước lạc hậu.

Giáo Sư Acemoglu t́m hiểu một nguyên do khác, là tại con người chứ không phải tại trời đất. Và ông đă đem giả thuyết đó ra thử nghiệm theo phương pháp thống kê học, bằng các con số. Một cách cụ thể, Acemoglu thử coi có tương quan nào giữa mức phát triển kinh tế một xứ và các định chế xă hội tồn tại trong các xứ đó hay không. Công tŕnh của ông từ gần chục năm qua đă làm các giới nghiên cứu kinh tế học và chính trị học chú ư.

Các định chế xă hội đáng quan tâm nhất là:

Trong xă hội quyền sở hữu có được bảo vệ cho nhiều tầng lớp đông đảo dân chúng hay không, để cho nhiều loại người được khích lệ đầu tư và tham dự vào sinh hoạt kinh tế.

Những người nắm quyền lực, giới thượng lưu quư tộc, tiếng Việt gọi là “các sếp lớn” có bị giới hạn để họ không chiếm đoạt lợi tức của người khác bằng cách tạo ra thứ “sân bóng nghiêng” hay không.

Xă hội có b́nh đẳng trong cơ hội hay không, để hầu hết mọi người có hy vọng tham gia vào hoạt động kinh tế, và đầu tư, nhất là đầu tư vào giáo dục, nâng cao khả năng, kỹ thuật của chính ḿnh.

Giáo Sư Acemoglu nhận thấy rằng các nước trên thế giới khác nhau về sự có mặt và sức bền chặt của ba định chế trên. Có những xứ không cần đến pháp luật, có những xứ pháp luật được áp dụng cho mỗi lớp người một khác, sân chơi bóng nghiêng lệch. Chẳng hạn, giới thượng lưu có nhiều quyền lực về chính trị và kinh tế hơn thường dân, chỉ một nhóm người trong xă hội được ưu tiên đi học, được đi vay ngân hàng, và được mọi dễ dàng trong việc kinh doanh.

Một cuộc nghiên cứu sâu rộng của Acemoglu là so sánh những thuộc địa đă bị thực dân từ Âu Châu đi chiếm và khai thác từ thế kỷ 15. Đời sống kinh tế của các xứ đó bây giờ khác nhau có tương quan ǵ với cách cai trị các thuộc địa đó từ mấy thế kỷ trước hay không. Điều ông t́m ra là khi các nhóm thực dân có ư định cư lâu dài ở các thuộc địa, do đó họ thiết lập các định chế xă hội theo khuynh hướng ba điểm đă được nêu trên, th́ các định chế đó đưa tới sự phát triển kinh tế sau này, khi các xứ thuộc địa giành lại độc lập. Giới thượng lưu chính trị và kinh tế bản xứ tiếp tục giữ các định chế đó, giúp cho nền kinh tế xứ họ tiến bộ. Ngược lại, ở những thuộc địa mà thực dân chỉ tính đến để khai thác bóc lột không thôi, không thiết lập các định chế tạo cơ hội công bằng th́ giới thượng lưu bản xứ kế thừa cũng duy tŕ t́nh trạng bất công đó, và bóc lột đồng bào của họ dù trên lư thuyết họ tự xưng là thiên tả hay thiên hữu. Ở các xứ đó kinh tế chậm tiến.

Có những nhóm thực dân chỉ coi thuộc địa là một nơi để bóc lột, khai thác tài nguyên thiên nhiên và con người, lấy của rồi về xứ ḿnh. Có những nhóm khác th́ tính kế lâu dài ở thuộc địa, nhiều người định cư luôn tại thuộc địa, do đó họ thiết lập những guồng máy cai trị dựa trên luật lệ, ấn định ra chế độ bảo đảm quyền tư hữu và hạn chế những kẻ nắm quyền, áp dụng trong phạm vi giữa đám thực dân với nhau rồi lan ra những người bản xứ làm việc cho họ.

Trong nhóm chủ tâm chỉ “khai thác” có những thực dân từ nước Bỉ, ở Congo; người Hà Lan ở Indonesia, người Pháp, Ư ở nhiều xứ Phi Châu; có những người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở Châu Mỹ La-tinh. Trong loại thực dân thứ hai có những người Anh, Pháp ở Bắc Mỹ, Úc Châu và Tân Tây Lan, người Anh ở Hồng Kông và Singapore. Một yếu tố được Acemoglu dùng để phân biệt chủ tâm khai thác hay định cư, là so sánh tỷ số những người thực dân bị chết ở thuộc địa v́ những lư do bệnh truyền nhiễm chẳng hạn. Ông cũng quan tâm đến các yếu tố khác, như chủng tộc của đám thực dân, chẳng hạn người Anh khác người Tây Ban Nha. Ông cũng chú ư đến yếu tố hệ thống pháp luật theo lối Anh (common law) khác với lối Pháp (code civil) mà người thực dân mang đến thuộc địa. Các cuộc phân tích theo lối thống kê học cho thấy các yếu tố như chủng tộc của người thực dân, và hệ thống pháp luật họ mang tới, không ảnh hưởng đến tŕnh độ phát triển kinh tế của các thuộc địa sau khi độc lập. Luật pháp theo truyền thống kiểu Anh thường bảo đảm quyền tư hữu hơn. Luật theo lối Pháp từ thời Napoleon thường hạn chế quyền các thẩm phán nhiều hơn so với quyền hành pháp. Acemoglu nhận thấy chủng tộc và nguồn gốc của người thực dân không ảnh hưởng đến tŕnh độ kinh tế sau này, mà điều quan trọng là những người đó có thiết lập các định chế tốt hay không, do ư định của họ có tính định cư lâu dài hay không.

Trong các xứ cựu thuộc địa có những trường hợp đặc biệt như Mỹ, Úc, Tân Tây Lan, Canada (trước đều thuộc Anh) và các nước Phi Châu (khí hậu nóng ẩm và nhiều bệnh dịch) có thể làm nghiêng kết quả cuộc thử nghiệm, trong thống kê học gọi là outliners (ngoại lệ.) Acemoglu đă loại bỏ các nước này ra khỏi mẫu thử nghiệm, và thấy ảnh hưởng của các định chế trên tŕnh độ phát triển kinh tế vẫn không thay đổi. Ngay ở Phi Châu, giữa các nước vẫn thấy nơi nào có định chế xă hội tốt th́ kinh tế khá hơn.

Một biến số khác cũng được quan tâm là tỷ lệ người gốc Âu Châu trong dân số, tỷ lệ đó rất cao ở những nước tiến bộ như Mỹ, Úc, Canada, nhưng rất thấp ở những xứ như Hồng Kông, Singapore. Acemoglu đă đo lường biến số này để thử, và thấy nó không gây ảnh hưởng đáng kể nào.

Điều quan trọng là sau khi các thuộc địa giành được độc lập, những người thuộc giới thượng lưu (elite) trên mặt kinh tế và chính trị ở các xứ đó thừa hưởng di sản của các định chế xă hội như thế nào. Ở Châu Mỹ La-tinh, sau khi được độc lập vào thế kỷ 19 giới lănh đạo các nước này vẫn giữ nguyên hệ thống các luật lệ và những độc quyền kinh tế mà thực dân Tây Ban Nha đă lập nên. Chế độ nô lệ c̣n tiếp tục ở Brazil cho tới năm 1886. Ở Mexico, chế độ cưỡng bách lao công c̣n tồn tại cho đến năm 1910. Ở Guatemala chế độ đó c̣n giữ tới năm 1945.

Ở các nước đă có các định chế tốt từ thời thực dân, giới lănh đạo mới giành được độc lập thường cũng giữ nguyên các định chế tốt đó. Tại sao giới lănh đạo không thay đổi các định chế xă hội hưởng lợi? V́ thay đổi chế độ bảo đảm quyền sở hữu, hạn chế quyền của giới lănh đạo là công việc tốn thời giờ và tiền của. Nếu đă có sẵn th́ những người lănh đạo mới cứ dùng, xóa bỏ đi cũng tốn kém. Nếu chưa có, th́ họ càng không muốn thay đổi cho tốt hơn, v́ họ sử dụng hệ thống khai thác, bóc lột có lợi hơn.

Một yếu tố khác là đám người thuộc giai cấp lănh đạo được hưởng các đặc quyền có đông hay không. Nếu đó là một nhóm nhỏ, phần chia cho mỗi người được nhiều, th́ họ thường bảo vệ chế độ xă hội có tính cách khai thác, bóc lột.

Khi đám người đóng vai lănh đạo ở các xứ cựu thuộc địa đă tốn công xây dựng các định chế xă hội th́ họ thường không muốn thay đổi, khiến các định chế cũ tồn tại lâu hơn. Nếu đó là các đảng cách mạng đă đổ xương máu giành độc lập, rồi thừa hưởng một hệ thống xă hội trong đó những người lănh đạo được hưởng các đặc quyền, th́ rất khó làm cho họ thay đổi chế độ độc tài của họ. Họ kế thừa các đặc quyền của những người thực dân cũ. V́ việc thay đổi khiến họ bị thiệt tḥi quá. Ngược lại, nếu họ đ̣i được độc lập và có trong tay một chế độ xă hội b́nh đẳng hơn và họ đă sử dụng hệ thống tương đối tôn trọng quyền sở hữu và hạn chế quan lại, họ đă đầu tư sức lực và tiền bạc trong hệ thống đó, th́ họ cũng muốn bảo vệ hệ thống đó hơn. Thay đổi, để tạo ra một chế độ bóc lột cũng tốn kém và rủi ro nhiều, không bơ công.

Giáo Sư Acemoglu chú ư đặc biệt đến sự đảo ngược về kinh tế ổ nhiều vùng, từ năm 1500 đến ngày nay. Có những vùng giầu mạnh nhất thế giới vào thế kỷ 15, 16 như các người Mughas ở Ấn Độ, người Aztecs ở Mỹ Châu. Ngày nay đó là những vùng nghèo hơn các vùng như Bắc Mỹ, Á Đông hay Úc Châu. Sự đảo ngược này có thể giải thích bằng các định chế xă hội khác nhau, được thành lập và tồn tại từ đó tới nay.

Cái ǵ khiến cho giới thượng lưu lănh đạo muốn thiết lập hoặc bảo tồn các định chế? Thay đổi định chế khiến phần chia của họ trong nồi cơm chung thay đổi. Nếu thay đổi mà không bị thiệt th́ họ sẽ đổi, nếu thay đổi dù có lợi nhưng tốn kém quá th́ họ không đổi. V́ vậy các nước mà xă hội bất công lâu quá khiến kinh tế tŕ trệ, phải có cách mạng th́ mới thay đổi được. Như ở Việt Nam hồi 1945, ở Roumani hoặc Nga thời 1989, 1990. Như ở Phi Luật Tân thời Tổng Thống Marcos.

Những khám phá và ư kiến của Giáo Sư Daron Acemoglu có giúp chúng ta suy nghĩ thêm về t́nh trạng Việt Nam hiện nay hay không? Các vị thuộc giới thượng lưu lănh đạo trong nước có thấy nên thay đổi thể chế, bỏ độc quyền lănh đạo đi hay không?

NGÔ NHÂN DỤNG