Giáo Hoàng Chống Cộng
Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh
Đức Giáo Hoàng John Paul II từ trần, Chúa mở rộng cửa đón Ngài về. Thế giới tiếc
thương và ca ngợi một vị lănh đạo tôn giáo phi thường. Giáo dân nhỏ lệ nguyện
cầu trước sự ra đi của một trong những Giáo hoàng vĩ đại nhất trong lịch sử
Gia-tô giáo La Mă, một Giáo hội có hơn 1 tỷ tín đồ trên thế giới. Nhân đây chúng
tôi cũng muốn ghi thêm ở Việt Nam, Giáo hội được gọi là Công giáo theo ư nguyện
của hàng Giáo phẩm để kỷ niệm Công đồng Vatican II (1962-65), một hội đồng cấp
cao rất quan trọng nhằm hiện đại hóa Giáo hội, sửa đổi một số nghi thức và đi
sâu hơn vào việc thế tục. Nhân tang lễ Giáo Hoàng John Paul, báo chí Mỹ đă viết,
bàn rất nhiều về triều đại của Ngài cũng như những đóng góp của Ngài giải quyết
những vấn đề lớn của thế giới, trong đó có việc giải thể các chế độ Cộng sản ở
Liên Xô và Đông Âu. Tôi chỉ ṭ ṃ muốn hỏi Giáo hoàng đă chống Cộng như thế nào?
Ngày 30-4-1975, quân đội Cộng sản tiến vào Saigon, màn đen phủ xuống miền Nam
cách biệt với thế giới bên ngoài. Tôi cũng như phần đông các kư giả miền Nam bị
giam vào trại cải tạo, thông tin từ thế giới bên ngoài bị đoạn tuyệt hẳn nên
không biết năm 1978 La Mă đă có một vị Giáo Hoàng mới. Năm 1992 sang định cư ở
Mỹ, tôi đă được biết nhiều về Giáo Hoàng John Paul II. Sự chống Cộng của Ngài
nằm trong một thế ḱnh chống bao quát hơn, tức là chống lại mọi chế độ độc tài
bạo ngược tả cũng như hữu, ở hữu tàn bạo nhất là Đức Quốc xă và ở tả hiểm độc
nhất là độc tài Cộng sản. Cũng như nhiều vị lănh đạo tôn giáo khác, Giáo Hoàng
chủ trương một thế giới ḥa b́nh, nguyện cầu cho con người được sống an lạc
trong tự do, hạnh phúc. Nhưng chủ trương ḥa b́nh không có nghĩa là Ngài muốn có
ḥa b́nh bằng mọi giá, chủ ḥa không phải là chủ bại. Nạn Quốc xă đă tan trước
ngày Ngài lên ngôi Giáo Hoàng, nhưng dưới triều đại của Ngài nhức nhối nhất cho
Thế giới là Cộng sản Đệ Tam Quốc tế. Giáo Hoàng không có quân đội, không có vũ
khí trong tay, chẳng lẽ Ngài chỉ chống Cộng bằng mồm? Chúng ta đă biết chửi rủa,
thóa mạ, lên án Cộng sản, nó không chết, nó vẫn sống phây phây. Và khi Liên Xô
c̣n là một trong hai siêu cường thế giới, khuyến dụ thuyết phục nó cũng như nước
đổ lá khoai. Vậy Ngài làm thế nào để tạo vết nứt đầu tiên đưa đến sự sụp đổ của
Thế giới Cộng sản?
Giáo Hoàng John Paul là người Ba Lan, sinh năm 1920. Năm 1940, Đức quốc xă xâm
lăng Ba Lan. Sau khi cha mẹ qua đời, Ngài vào Đại học và bí mật học làm Linh mục
trong thời Đức chiếm đóng. Lúc này Ngài đă tham gia phong trào kháng chiến chống
Quốc Xă và năm 1942, Ngài bị Gestapo ruồng bắt cùng với một số thanh niên khác.
Đây cũng là lúc vị Giáo Hoàng tương lai học được kinh nghiệm chiến đấu cụ thể
bằng hành động chớ không phải chỉ biết chống bằng lư thuyết. Những kinh nghiệm
sống đó đă giúp ích cho công cuộc chống Cộng của Ngài hơn 30 năm sau. Năm 1979,
John Paul trở về thăm quê hương Ba Lan bị Cộng sản cai trị và chuyến đi này chủ
yếu nhằm vực dậy Phong trào Đoàn Kết trong giới lao động Ba Lan, đưa đến việc
giải thể chế độ Cộng sản ở nước này năm 1989. Hơn hai năm sau Liên Xô tan vỡ.
Xét công cuộc chống Cộng của Giáo Hoàng John Paul, chúng tôi nghĩ có hai đặc
điểm nổi bật. Ngài chống Cộng bằng bất cứ cách nào, kể cả việc tiếp xúc và nói
chuyện với Cộng sản. Nhưng Ngài không chống Cộng bằng mọi giá, nhất là cái giá
gây thảm họa binh đao làm chết thường dân vô tội. Ngày 1-12-91, Tổng bí thư Liên
Xô Gorbachev xin yết kiến Giáo Hoàng, Ngài tiếp. Nhưng khi Gorbachev mời Ngài
qua thăm Liên Xô, Ngài không hề nhận lời. Tại sao Ngài không chịu đi? Ngài thấy
Liên Xô đă tới số rồi, chẳng lẽ đi để giúp cho cơn hấp hối kéo dài? Giáo Hoàng
chống Cộng sản không phải chỉ bằng cách thụ động. Mối quan hệ đặc biệt giữa Giáo
Hoàng và Tổng Thống Mỹ Ronald Reagan có nhiều điểm đáng chú ư. Reagan là người
xây dựng “Sáng kiến Pḥng thủ Chiến lược”, chủ yếu là nếu có đại chiến sẽ dùng
bom hạt nhân dội lên đầu Cộng sản Xô viết. Ông cũng là người cho bố trí hỏa tiễn
nguyên tử tầm ngắn ở Thổ Nhĩ Kỳ gần biên giới Liên Xô và kế hoạch này đă được
tŕnh bày với Giáo Hoàng John Paul. Rồi đây có thể sẽ có thêm những tiết lộ mới
về sự hợp tác chiến lược giữa Reagan và Giáo Hoàng trong thời chiến tranh lạnh.
Giáo Hoàng chủ ḥa, nhưng Ngài vẫn ủng hộ những cuộc chiến nào cần để tiêu diệt
những mầm mống gây đại họa cho nhân loại. Bằng cớ là Ngài ủng hộ cuộc chiến của
liên quân NATO do Mỹ lănh đạo ở Balkans, Ngài không ngăn cản Mỹ mở cuộc tấn công
sào huyệt khủng bố ở Afghanistan, nhưng Ngài không đồng ư với việc Mỹ đánh Iraq.
Về mặt gọi là “nói chuyện hay tiếp xúc với Cộng sản” thời hậu Xô Viết, John Paul
đă đến thăm Cuba năm 1998. Ngài nắm tay Fidel Castro để đ̣i hỏi cho Giáo hội lấy
lại vai tṛ công khai trong nước Cộng sản này và mở một viện Nữ Tu ở đây. Không
ai có thể chỉ trích Ngài đă nói chuyện với Cộng sản hay “nối giáo cho giặc”. Đối
với Việt Nam Cộng sản, các phái bộ cấp cao Vatican đă nhiều lần đến Hà Nội
thương lượng về việc sắc phong hàng giáo phẩm và lập chủng viện, kể cả việc lập
bang giao chính thức giữa Hà Nội và Ṭa Thánh La Mă. Liên Xô đă chết, nguời đại
diện cho cái bóng ma khổng lồ đó nay thiểu năo chỉ c̣n một người: Gorbachev.
Trong khi đó một phái đoàn chính thức Mỹ gồm 5 người do Tổng Thống Bush lănh đạo
đă đến Vatican để cùng các nhà lănh đạo thế giới tham dự lễ an táng Giáo Hoàng.
Các phái đoàn phải hạn chế 5 người v́ số tham dự quá đông. Vào ngày thứ sáu,
hàng trăm triệu người trên thế giới sẽ theo dơi buổi lễ lịch sử này trên màn
h́nh TV.
Tôi không phải là người Công giáo, nhưng cá nhân tôi vẫn có chút t́nh cảm riêng
đối với Ngài. Cuối năm 1999, tôi có viết một bài Thời cuộc đề nghị chọn Đức Giáo
Hoàng John Paul II làm người của Thế kỷ 20, nhưng sau đó báo Time chọn nhà bác
học Albert Einstein, tôi chẳng có ǵ để nói thêm. Nhưng trong ḷng tôi, John
Paul II vẫn luôn luôn là Người của Thế kỷ 20.