Nguyễn Quang Lập: Nói ra th́ bảo là phản động
talawas:
Thưa anh Nguyễn Quang Lập, anh vừa dự Liên hoan phim (LHP) Việt Nam lần thứ 14
tại Ban Mê Thuột?
Nguyễn Quang Lập (NQL): Nói đi dự là nói cho oai, thực ra chẳng ma nào
mời tôi. Nguyễn Thanh Sơn và Phạm Xuân Nguyên rủ tôi đi chơi. Ban Mê Thuột tôi
chưa đến bao giờ, tưởng là thế nào, hóa ra chẳng khác ǵ một thị xă miền Trung.
Chất Tây Nguyên tuồng như không c̣n. Nhà sàn xây, mái tôn nhựa, chán lắm. Ở đây
người ta làm du lịch rất tỉnh lẻ. Tôi đến Buôn Đôn là đất voi nổi tiếng, dự định
sẽ cưỡi voi chụp ảnh về khoe với con. Lên đấy mới ngao ngán. Vài cái nhà sàn lèo
tèo làm theo kiểu đời mới, chất đầy đồ lưu niệm được sáng tác theo lối văn nghệ
quần chúng. Hỏi cô phục vụ, cô bảo: „Chờ bốn chục phút“. Ok, bốn chục phút cũng
chờ. Hơn một tiếng vẫn không thấy voi đâu, cô phục vụ đi vô đi ra đủng đỉnh, hỏi
lại cô th́ cô bảo: „Đâu có, em bảo chờ bốn tiếng!“. Bảng quảng cáo to đùng ghi
rành rành: Khu văn hóa nhà mồ. Đến Tây Nguyên mà không biết nhà mồ méo hay tṛn
coi như chưa đến Tây Nguyên. Đến nơi thấy giống hệt một băi mộ hoang. Ba bốn cái
nhà mồ xây bằng gạch, trát vôi trắng xóa. Tượng mộ là một vài con chim c̣ hay
hạc ǵ đấy được đẽo gọt bằng bàn tay chuyên nghiệp „thợ vườn“. Đến Hồ Lăk cũng
vậy. Chạy xe hơn một giờ, thấy một cái hồ nông choèn, dài ngoẵng. Một cái nhà
hàng nổi trên hồ. Cô bán hàng nói: „Các anh muốn ăn ǵ th́ phải đăng kí trước,
chúng em xuống phố đi chợ, trưa mới có ăn.“ Từ Đà Nẵng lên Ban Mê Thuột, đi máy
bay nhỏ, nó kêu roạc roạc suốt cả hành tŕnh, sợ đến thót tim. Trả giá cái sợ
bằng một cái hồ không ra hồ, một cái bến đ̣ được các nhà du lịch Tây Nguyên
thiết kế y hệt bến đ̣ Bắc Ḱ!
talawas: Du khách Nguyễn Quang Lập nghiêm khắc với Ban Mê Thuột như vậy,
c̣n nhà biên kịch Nguyễn Quang Lập với LHP Ban Mê Thuột th́ sao? Chậm nhất là từ
Đời cát với đạo diễn Nguyễn Thanh Vân và Thung lũng hoang vắng với đạo diễn Phạm
Nhuệ Giang, anh nổi lên như một trong những nhà biên kịch sáng giá nhất của điện
ảnh Việt Nam hiện nay…
NQL: Chết! Đừng nói thế, tôi sợ lắm. Tôi không muốn ch́m cũng không muốn
‘nổi lên’, càng không muốn nhận bất ḱ cái nhất nào người đời trao tặng. Tôi
thích lửng lơ con cá vàng. Ở đâu không biết chứ ở ta cứ lửng lơ con cá vàng là
an toàn nhất. Thông minh giỏi giang chỉ tổ người ta ghét. Ông Hoàng Ngọc Hiến
nói rồi: „cái nước ḿnh nó thế“, cứ ngu ngu hiền hiền là đắc lợi, ai cũng thương,
quyền chức cũng dễ có, chứ láu táu ló cái tài của ḿnh ra trước mắt thiên hạ th́
khuynh gia bại sản có ngày.
talawas: Nhưng điện ảnh là show biz, người ta bắt buộc phải nổi lên mới
trụ lại được.
NQL: Lê Hoàng nổi lên như một đạo diễn làm phim ăn khách nhất Việt Nam.
Hai phim Gái nhảy và Lọ lem hè phố đă đem về cho Hăng phim Giải phóng một món
tiền khổng lồ, bản thân Lê Hoàng cũng ôm được một mớ tiền nhiều người làm phim
nằm mơ cũng không có. Thế là Lê Hoàng ăn đ̣n từ bốn phương tám hướng, đến nỗi
phải khóc rưng rức tại Hội thảo ở LHP 14. Một cú khóc của Lê Hoàng khiến báo chí
nước Nam mừng rú. LHP nhạt thếch không biết nói ǵ, bỗng vớ được trận khóc của
Lê Hoàng như vớ được vàng, tất cả đều giật tít to đùng, báo chí dược phen đắt
như tôm tươi. Lâu nay văn nghệ sĩ xuất hiện trên báo chí mặt mày hớn hở, ra cái
vẻ hạnh phúc vô biên, bây giờ vớ được một anh đứng tấm tức khóc, lại một anh nổi
tiếng cả tiền lẫn tài th́ lạ quá, hay quá. Tôi nói với NguyÔn Thanh Sn : „Lê
Hoàng nhà quê, khóc cái ǵ. Ai bảo tài cho lắm vào, thông minh cho lắm vào,
người ta đánh cho là phải. Ḿnh làm ḿnh chịu kêu mà ai thương!“ Hồng Ánh đoạt
giải diễn viên nữ chính xuất sắc nhất, trừ khán giả và anh em trong đoàn phim
đến chúc mừng, c̣n lại tuyệt không có một đồng nghiệp nào nh́n cô bằng nụ cười
thân thiện. Ra sân bay, đồng nghiệp ngồi hai hàng ghế ở pḥng chờ, Ánh tí ta tí
tởn chạy đến chào th́ gặp ngay những đôi mắt mang h́nh viên đạn, sợ quá đứng nép
một xó. Lên máy bay không ai thèm ngồi chung, cứ trơ khấc suốt cả hành tŕnh.
Thanh Vân cũng thế, anh là đạo diễn duy nhất nước ta ăn liền hai giải Châu
Á-Thái B́nh Dương, hai giải Bông sen vàng cả cho phim lẫn cho đạo diễn xuất sắc
nhất. Tôi để ư xem có ai ngoài đoàn phim đến chúc mừng anh không th́ thấy có hai
người, đó đạo diễn Hải Ninh, bố anh, và Lê Hoàng, người vừa bị no đ̣n hai năm
qua. Chấm hết. Sau đêm bế mạc, mọi người đi ăn đêm ở đường Y Juk - ăn đêm ở vỉa
hè Ban Mê thích lắm, dân điện ảnh ngồi đầy cả vỉa hè. Thanh Vân cầm chai rượu hí
hửng chạy đến, tuyệt không một ai gọi, đứng đực như ngỗng ỉa. May có nhà văn
Phạm Ngọc Tiến gọi đến bù khú cho đến sáng, không th́ xách rượu về khách sạn
uống một ḿnh. Cho nên thương nhau th́ xin tha tặng nhau cái „nhất“, cái „nổi
lên“, cực lắm. Cái nước ḿnh nó thế, ông Hoàng Ngọc Hiến quá tài!
talawas: Chuyện đố kị, sự bất công của những thành công hay thất bại ở
đâu cũng có, vấn đề là những cách xử sự mà anh vừa kể hơi thiếu tinh thần chuyên
nghiệp. Nhưng cũng có ư kiến cho rằng việc trao giải vàng cho Người đàn bà mộng
du trong LHP lần này không làm giới điện ảnh tâm phục khẩu phục, cả giải nữ diễn
viên chính xuất sắc nhất trao cho Hồng Ánh cũng vậy?
NQL: Tôi cho rằng người ta đă trao đúng người đúng của. Có năm phim có
thể tranh giải vàng với Người đàn bà mộng du, đó là Mùa len trâu, Mê Thảo, Thời
xa vắng, Lưới trời và Nguyễn Á Quốc ở Hồng Kông. Mùa len trâu không kịp làm thủ
tục để dự thi. Thời xa vắng mặc dù quay rất khéo, cái kết thông minh và chọn
được người đóng anh Sài khá tốt nhưng cứ lổn nhổn nửa phim nửa ti vi, xem rất
mệt. Thêm vào đó phải nghe thứ nhạc dở quá trời, chịu không nổi. Mê Thảo làm khá
ḱ khu nhưng đó là thứ xi nê bị sân khấu hóa, mới lạ thế nào tôi không biết
nhưng tôi không thích và tôi biết chắc BGK cũng không thích. Người ta bảo Mê
Thảo không được giải ǵ v́ có Đơn Dương đóng, tôi e rằng không phải. Bây giờ
người ta quên Đơn Dương rồi, chẳng ai để tâm lâu như vậy. Hơn nữa, đối xử với
Đơn Dương thế là quá đủ, dấn thêm nữa sẽ bị hố với dư luận. Nguyễn Ái Quốc ở
Hồng Kông làm khá tử tế. Phim về Bác Hồ không làm tử tế có mà bốc cám. Nhân vật
Bác Hồ do Trần Lực thủ vai cũng được, tương đối nhuyễn và tránh được cứng nhắc.
Quay phim cũng khá. Tuy nhiên cứ thấy Bác ho hoài, khạc cả ra máu th́ khó tin
quá. Bác lúc đó c̣n trẻ, khỏe cơ mà? Cứ thủ vai lănh tụ là phải ho hục hặc và
uống thuốc bắc ư? Tôi cảm thấy phim này ca ngợi Bác th́ ít, ca ngợi Trung Quốc
th́ nhiều. Việc Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp đỡ Bác trong những ngày tháng cam
go là việc nên nhắc tới. Nhưng nhắc vừa thôi, nhắc quá th́ không ổn v́ đây là
phim ca ngợi bản lĩnh Bác Hồ giữa bầy lang sói nhằm bảo toàn cách mạng Việt Nam
cơ mà! Trần Đăng Khoa ngồi cạnh tôi, rỉ tai tôi: „Đáng ra Trung Quốc phải bỏ
tiền ra làm phim này mới đúng“. Phim này được giải đặc biệt là tốt quá rồi. Nếu
là giám khảo, tôi sẽ loại phim này một giờ như gió, dù tôi rất thương hai năm
trời lặn lội v́ nó của ông giám đốc Hăng phim Hội nhà văn. Có một điều làm tôi
hơi ngạc nhiên: tên phim tiếng Việt ghi rành rành: Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông
trong khi tiếng Tàu trên phim lại ghi: Đào tẩu khỏi Hồng Kông. Chẳng hiểu ra làm
sao. Mấy bác quản lí văn hóa nhà ta rất nhạy cảm với chữ nghĩa, tiếng Tây tiếng
Tàu đều biết cả, lại bỏ qua cái tên phim thế kia th́ cũng lạ. Riêng phim Lưới
trời tôi rất cảm t́nh, nó là phim đề tài đương đại, chuyện chống tham nhũng được
làm khá mạnh tay, nhuần nhuyễn chứ không lên gân, rập khuôn như các phim ta khi
vớ phải đề tài này. Cái ông tiêu cực, Đào Bá Sơn thủ vai -tôi quên mất tên nhân
vật- được dựng và diễn rất người. Nếu là giám khảo, tôi sẽ trao giải vàng cho
phim này cùng với Người đàn bà mộng du để khuyến khích đề tài hiện đại, khuyến
khích sự dũng cảm trong khi hành nghề của đạo diễn Phi Tiến Sơn. Về Hồng Ánh, cô
không khá hơn chính ḿnh trong hai phim Đời cát và Thung lũng hoang vắng, nhưng
trong LHP này cô không có đối thủ. Tôi đă nói với Hồng Ánh đúng như vậy trong
khi người ta đang chấm. Có người thắc mắc sao không trao giải nữ chính xuất sắc
nhất cho Kim Khánh, Minh Thư? Một số cô chú nhà báo h́nh như chưa phân biệt nổi
ti vi với xi nê!
talawas: C̣n những bộ phim từng được dư luận chú ư v́ nhiều lí do khác
nhau như Kí ức Điện Biên, Vua băi rác hay Của rơi?
NQL: Cả ba phim này tôi đều xem cả, thậm chí xem không dưới hai lần.
Chúng ở trong t́nh trạng suưt hay. Vương Đức và Đỗ Minh Tuấn tuy tính khí khác
nhau nhưng có một điểm chung là cả hai đều lao động nghệ thuật nghiêm túc, tuy
nhiên họ rất thích trưng diện các ư tưởng và ngôn ngữ mới lạ. Điều đó cũng tốt
thôi nhưng nếu quá đi sẽ làm cho người ta khó chịu, từ đó sổ toẹt cả những cố
gắng chân thành của họ. Phim nào của họ cũng vậy, đang kể với một ngôn ngữ tả
thực hay ho thế, họ bỗng đưa ra những ẩn dụ khá khiên cưỡng, làm mọi người cứ
ngẩn ra. Nó tuồng như không ăn nhập ǵ vào câu chuyện họ đang kể và điều họ gửi
gắm. Giả dụ anh đang đọc thơ, bỗng nhiên anh chen ngang một đoạn triết luận, dù
thứ triết luận kia là mới lạ, là hay ho th́ cũng làm cho tôi rất mệt và bực ḿnh.
Ô ḱa tôi đang nghe anh đọc thơ kia mà, hay chửa? Sở dĩ tôi rất yêu Thanh Vân,
Nhuệ Giang v́ cặp vợ chồng này biết làm theo lời Bác Hồ dạy: „Tuổi nhỏ làm việc
nhỏ/ Tùy theo sức của ḿnh“. Tôi vốn dốt nát, thuở chiến tranh không được dạy dỗ
cẩn thận nên rất hay mặc cảm. Một đứa trẻ sáu tuổi vở sạch chữ đẹp tôi c̣n kính
trọng hơn các ông nhà văn vô cớ xổ ra một mớ ngôn ngữ rối mù.
talawas: Muốn thế nào, chúng ta cũng phải thấy rằng điện ảnh là ngành
nghệ thuật có tốc độ tự đổi mới nhanh nhất so với mọi ngành khác trong thế kỉ
vừa rồi trên thế giới. Cứ dăm ba năm là xuất hiện một thế hệ đạo diễn với cương
lĩnh nghệ thuật mới, tham vọng và những mục đích nghệ thuật mới. Dù rất vững
vàng và thành công trong ḍng điện ảnh tả thực và luận đề vốn là ḍng truyền
thống và chủ đạo của điện ảnh Việt Nam, Nguyễn Thanh Vân và Nhuệ Giang có nên
tiếp tục như vậy không? Giới hạn của loại điện ảnh này rất rơ, v́ đơn giản là nó
quá phổ biến.
NQL: Muốn cưỡng lại cái phổ biến, cũng là cưỡng lại cái nhàm chán, anh
phải có tiềm lực. Tiềm lực văn hóa và tiềm lực kinh tế. Tiềm lực kinh tế th́
khỏi phải nói v́ đối với điện ảnh nó là chuyện đương nhiên. Tôi xin nói một chút
về cái gọi là tiềm lực văn hóa. Hầu hết những người làm phim nước ta, trong đó
đương nhiên có tôi, đều thiếu một gốc gác văn hóa cơ bản. Thiếu thầy, thiếu sách
và quan trọng là thiếu những nỗ lực cá nhân nhằm t́m kiếm tích trữ một năng
lượng văn hóa đủ để tiếp nhận các sáng tạo không có trong kinh nghiệm. Ngày xưa
đang ở nhà quê, tôi tích cực học hành v́ sợ ḿnh thua quá xa những bạn bè ở Hà
Nội. Nghe tên tuổi những đại danh Hà Nội, tôi hăi lắm. Nhưng khi ra Hà Nội tôi
mới vỡ ra rằng, quá nửa trong họ đă trưởng thành từ nền văn hóa nghe lỏm. Bây
giờ đến lượt tôi, tôi cũng đang rơi vào nền văn hóa đó.
talawas: Xin anh nói rơ hơn...
NQL: Đó là thứ văn hóa nguy hiểm, chỉ tổ làm cho người ta mau chóng sống
trong hoang tưởng, ngoài ra nó c̣n hủy diệt sáng tạo ghê gớm. Đừng mơ mộng xa
vời một khi anh chưa thoát ra khỏi thứ văn hóa giả cầy đó. Tôi xem phim của một
số đạo diễn trẻ Trung Quốc, mới chỉ Trung Quốc thôi nhé, đă hăi lắm rồi. Họ đă
thay đổi gần như hoàn toàn diện mạo điện ảnh Trung Quốc, nhẹ nhàng bước qua các
đàn anh lững lững Thái Sơn như Trương Nghệ Mưu, Trần Khải Ca. Trong khi ở nước
ta vẫn ngồi thèm nhỏ dăi làm được như hai ông kễnh Trung Quốc này. Một số đạo
diễn trẻ Ấn Độ, Iran - chính trị và kinh tế các nước này cũng gặp nhiều vấn đề
lắm - đă bước những bước dài và cao làm tôi choáng ngợp. V́ sao thế? V́ họ có
tiềm lực văn hóa, cả năng lượng cá nhân cả nền tảng văn hóa quốc gia họ. Ta chưa
có, chưa thể có. Đừng vội vàng đổ tội cho một ḿnh chính trị, chẳng qua văn hóa
chúng ta c̣n quá mỏng mà thôi. Những người làm phim nước ta mấy ai thấm được
điện ảnh Iran, điện ảnh hiện đại Trung Quốc, điển h́nh là Uông Gia Vệ? Không
hiểu và thích cái mới làm sao làm ra nó?
talawas: Cặp vợ chồng đạo diễn Thanh Vân-Nhuệ Giang thuộc một thế hệ nhạy
cảm với cái mới…
NQL: Thanh Vân và Nhuệ Giang rất nung nấu đổi mới. Họ đă chán thứ điện
ảnh kể chuyện từ lâu. Tôi nhớ sau khi làm phim Đời cát trở về, sau câu đầu tiên
thăm hỏi tôi, câu thứ hai anh nói làm tôi mừng suưt khóc lên được: “Đây là phim
cuối cùng em làm theo kiểu này”. Nhưng từ bấy đến nay anh vẫn làm phim theo kiểu
cũ. Có lẽ Vân chưa chuẩn bị xong phần năng lượng văn hóa để làm một cuộc cách
mạng xi nê cho riêng anh. Thêm vào đó, nhà nước ta chỉ thích đặt hàng cho loại
xi nê tả thực và luận đề có lợi cho cách mạng mà thôi. Những t́m ṭi tuy vẫn
được cổ vũ nhưng chỉ cổ vũ mồm chứ nhà nước đâu có thời giờ và tiền bạc để đầu
tư cho những thứ phập phù, lại rất dễ bị lực lượng hưu trí ngày càng đông đảo và
giới cựu chiến binh phản ứng. Không chỉ nước ta đâu, nước nào cũng thế, đầu tư
cho những t́m ṭi nghệ thuật đều phải lụy vào những nhà giàu. Tất cả trông chờ
vào tài trợ của các nhà giàu có, yêu mến xi nê và hào hiệp. Khổ thay cho đến nay
vẫn rất khó t́m được những tài trợ để làm phim kiểu đó. Sở dĩ Iran trở nên một
cường quốc xi nê trong khu vực châu Á v́ họ có nhiều nhà giàu dám đặt cược tiền
bạc và niềm tin vào các nhà làm phim nước họ.
talawas: Anh có lí tưởng hoá yếu tố Mạnh Thường Quân trong nghệ thuật lắm
không? Điện ảnh là một công nghiệp. Khác với Ấn Độ, nơi có nền dân chủ lâu đời
nhất châu Á, công nghiệp điện ảnh ở Việt Nam hoàn toàn mang tính chất quốc doanh,
nhà nước đặt hàng, nhà nước chỉ đạo, nhà nước quản lí; dù tư nhân có bỏ chút vốn
vào đó th́ cũng chỉ là hương hoa, không thay đổi được tính chất quốc doanh này.
Không nhà đầu tư độc lập nào bỏ tiền vào một sản phẩm mà quyền kiểm soát nằm
trong tay người khác.
NQL: Đó là câu chuyện của ngày hôm qua, hiện tại nhà nước ta đă có những
thay đổi đáng khích lệ. Dũng cảm giết chết thứ điện ảnh bao cấp là cách đúng đắn
nhất để cho điện ảnh thứ thiệt ra đời và phát triển. Thôi th́ muộn c̣n hơn không.
Chỉ có mấy ông xếp hàng bao cấp là lo sốt vó, c̣n th́ ai cũng khấp khởi mừng
thầm. Nói ra th́ bảo là phản động, chứ tôi thấy hễ thứ ǵ nhà nước thả ra, cho
sống tự do th́ thứ đó tự khắc phát triển. Ngày xưa, ta sống nhờ vào sự phát chẩn
của nhà nước, sống lâu quá đến nổi tưởng rằng nếu nhà nước ngưng phát chẩn th́
chắc chết cả lũ. Đến khi nhà nước thu hồi tem phiếu, sổ gạo, thả tự do cho “sống
chết mặc bay” th́ cả nước bỗng như ông Phù Đổng vươn vai, sướng quá là sướng.
Nhớ lại cái thời bao cấp đến rùng ḿnh, không hiểu tại làm sao ḿnh sống được
đến bây giờ, lại c̣n ca hát ngất trời ca ngợi lung tung, chết cười. Tuy nhiên sự
thay đổi của nhà nước vẫn nửa vời. Bảo rằng cho cổ phần hóa nhưng nhà nước giữ
lấy 51% th́ vẫn c̣n khó lắm. Với 51%, ông nhà nước có quyền quyết định mọi thứ,
vẫn như cũ có khác ǵ đâu. Nhưng cứ từ từ, miễn là nhà nước ư thức được sự thả
ra của ḿnh là có lợi cho cái toàn thể th́ trước sau ông cũng thả ra cả. Ông
không ôm nổi đâu, càng ôm ông càng bí, càng dễ cáu, bực ḿnh ông thả ra cả thế
là sướng! Nhà nước vẫn tưởng ḿnh là bố mẹ, coi đám lê dân như con cái không bao
giờ trưởng thành. Như thế là làm khổ lẫn nhau thôi.
talawas: Ta trở lại chuyện khó sống v́ „nổi lên“, bản thân anh đă nếm mùi
kinh nghiệm ấy chưa? Kịch bản Đảo của dân ngụ cư dựa theo truyện ngắn vô cùng
độc đáo của Đỗ Phước Tiến, anh viết xong đă lâu mà vẫn nằm chờ, kịch bản Không
có Eva cũng vậy. Đó là t́nh h́nh chung hay trường hợp đặc biệt?
NQL: Nói ra buồn lắm, sợ người ta cho rằng ḿnh không được dựng phim, cay
cú nên nói càn. Cả hai kịch bản đó viết ra đă khá lâu, cái th́ sáu bảy năm, cái
th́ ba bốn năm, đến nay chẳng có tín hiệu nào cho thấy sắp được dựng. Tôi không
hề lên Cục, lên Hăng để hỏi, tôi chán cái chốn u mê ấy quá rồi. Chỉ nghe Thanh
Vân, Nhuệ Giang nói lại, các kịch bản đó chẳng ai chê dở, nhưng thời điểm này
đưa ra không hợp. Tôi mải mốt viết văn, chẳng biết quái ǵ chính trị, nghe người
ta nói vậy ḿnh cũng chịu. Nhưng tôi tin hai kịch bản đó thế nào cũng được dựng
thành phim. Đặc biệt Đảo của dân ngụ cư, nếu Thanh Vân làm thật cẩn thận, nhất
định nó sẽ có một cái ǵ đó khiến nhiều người bất ngờ. Chỉ sợ khi phim ra tôi đă
chết rồi, sức khỏe của tôi không có khả năng chờ đợi sự tỉnh ngộ văn hóa của mấy
ông mấy bà duyệt phim. Kịch bản của tôi mà người ta c̣n đối xử thế - v́ nghe nói
các vị duyệt phim rất quí hóa tôi - th́ kịch bản người khác chắc „chết“ oan cũng
nhiều.
talawas: Câu: „thời điểm này đưa ra không hợp“ phổ biến trong đời sống
văn nghệ Việt Nam hàng chục năm nay, được truyền từ thế hệ quản lí văn nghệ này
đến thế hệ quản lí văn nghệ khác. Giả sử anh được hay bị ngồi ở vị trí quản lí
ấy, anh có tin rằng ḿnh sẽ hoặc có thể nói khác không? Rút cuộc th́ nào có phải
những ai xa lạ đang ngồi tại các vị trí đó, toàn là „anh chị em văn nghệ sĩ
chúng ta“, toàn là „người nhà“, „chỗ thân t́nh“ cả. Cục phó Cục Điện ảnh hiện
nay là nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát...
NQL: Chị Ngát rất đáng yêu, nếu chị bé đi chừng mười tuổi tôi sẽ yêu chị
cho bằng được. Chính chị đă lấy kịch bản Đời cát trong hố rác của Hăng phim
truyện Việt Nam đem ra dùng, cũng chính chị đă ra sức bảo vệ Cho Thung lũng
hoang vắng ra đời không bị sứt mẻ. Nhưng từ khi chị lên làm cục phó, câu chuyện
lại hoàn toàn khác. Bây giờ chị cũng phải giống như bao nhiêu quan chức tôi đă
gặp và ớn đến tận cổ. Cái nước ḿnh nó thế, người ta sợ mất cái ghế c̣n hơn cả
mất bố mẹ. Chả hiểu ra làm sao. Ghế cũng hay, cũng có tiền nhưng đâu chỉ có cái
ghế mới tạo ra hay ho, tiền bạc? Có ngàn cách để kiếm tiền mà ḷng dạ thảnh thơi,
không mất bạn mất bè chứ đâu phải chỉ có cái ghế là nhất. Khổ, cái ghế c̣m chứ
sang trọng ǵ đâu mà ham hố. Tôi không h́nh dung ra nếu ở vị trí đó tôi sẽ như
thế nào, khó lắm. Làm sao có thể h́nh dung ḿnh đang sống và viết thế hay ho thƠ,
bỗng rơi vào một trại chăn nuôi, nơi mà nguời ta nói và nghĩ theo một thứ ngôn
ngữ giả cầy.
talawas: Có một điều đáng chú ư là giới viết văn, đặc biệt là các nhà thơ,
hiện diện nổi bật trong điện ảnh Việt Nam. Các nhà thơ Phan Huyền Thư, Nguyễn
Thị Hồng Ngát, Nguyễn Quang Thiều, Đỗ Minh Tuấn, các nhà văn Nguyễn Quang Lập,
Dương Thu Hương... Và phần lớn các phim truyện đều dựng trên tác phẩm văn học
chuyển thể, phần lớn các ư kiến phê b́nh điện ảnh đều xoáy vào tính văn học của
kịch bản. Dường như điện ảnh Việt Nam chưa ư thức được rằng nó phải là một vương
quốc độc lập, trong đó văn học chỉ là một trong nhiều khách mời? V́ sao sự chế
ngự của văn học trong điện ảnh Việt Nam lại dai dẳng thế?
NQL: Tôi nghĩ đơn giản đó là v́ các thầy Liên Xô dạy thế.
talawas: Nhưng điện ảnh Liên Xô c̣n có Sergei Eisenstein, Alexander
Dovzhenko, Andrei Tarkovski..., đâu phải những bậc thầy dở nhất?
NQL: Tôi không có ư nói thầy Liên Xô dạy sai. Có điều thầy chỉ dạy một
thứ, và đến khi thầy chết rồi, tṛ cứ đinh ninh thứ thầy dạy là duy nhất đúng,
các thứ khác là sai bét. Tôi biết văn học và điện ảnh kể chuyện đă có những tác
phẩm vĩ đại nhưng đă đến lúc ta phải biết chán nó. Đến nay người ta vẫn quan
niệm tính văn học là gốc gác của một tác phẩm điện ảnh. Người ta vẫn chưa thể
h́nh dung một tác phẩm điện ảnh sẽ được xây dựng ra sao nếu không có cái móng
vững chắc là tính văn học. Lí luận điện ảnh nước nhà hầu như là zê-rô th́ làm
sao nói chuyện đổi mới nó? Các nhà phê b́nh điện ảnh hầu hết là các nhà văn. Nhà
văn chỉ thạo mỗi cái tính văn học thôi, lại quan niệm tóm được cái tính văn học
là tóm được một tác phẩm xi nê, thành ra nhan nhản trên báo chí người ta phê
b́nh điện ảnh mà không thèm đếm xỉa đến ngôn ngữ điện ảnh, chỉ chú mục lôi tính
văn học ra b́nh. Nếu thế th́ chẳng cần đi xem phim, chỉ cần ở nhà đọc kịch bản
là được rồi. Xứ ta làm ǵ cũng khác người, nếu giống th́ chỉ giống thầy Liên Xô,
bác Trung Quốc những năm 60, 70 chứ chẳng giống ai. Từ xưa đến nay vẫn tồn tại
cái gọi là kịch bản văn học. Các nhà biên kịch viết ra kịch bản văn học, các đạo
diễn căn cứ vào kịch bản văn học để viết ra kịch bản phân cảnh - cái này mới gọi
là kịch bản điện ảnh (!) Nh́n vào kịch bản văn học thấy nó được viết ra na ná
một truyện vừa, chỉ có khác là người ta đă loại các câu văn không quay được, ví
dụ: “chị bỗng thấy xôn xao” chẳng hạn. Viết ra một kịch bản điện ảnh như tôi
viết bây giờ, chỉ xét riêng về h́nh thức thôi, vẫn c̣n xa lạ với hầu hết các
biên kịch nước nhà. Họ vẫn nghĩ, viết như vậy đơn giản là thay đổi cách tŕnh
bày mà thôi, không quan trọng.
talawas: Ngay từ đầu anh đă nghi ngờ cái tính văn học ấy?
NQL: Không, cách đây mấy năm tôi vẫn tin rằng không có văn học th́ điện
ảnh bốc cám. May có mấy ông thầy Úc dạy cho mấy tháng cộng với việc băng đĩa lậu
tràn ngập nước nhà, xem được khá nhiều phim, dần dần tôi mới vỡ ra được chút ít.
H́nh như điện ảnh hiện đại không quan tâm lắm đến tính văn học. Nền móng của một
tác phẩm điện ảnh là ngôn ngữ của nó, văn học chỉ dự vào như một thành phần của
điện ảnh, thậm chí không phải là thành phần không thể thiếu. Tôi đă xem vài phim
mà tính văn học hầu như đặt vào hàng thứ yếu, nó c̣n không quan trọng bằng âm
nhạc. Đó là những phim chỉ một tâm trạng, một xao xuyến, một ám ảnh, thế thôi.
Bối cảnh đóng vai tṛ là nhân vật, con người qua lại nói năng hoàn toàn không có
nhiệm vụ mang vác tính văn học, nó thuần túy chỉ là những kí hiệu của ngôn ngữ
điện ảnh. Xứ ta ngày nay đă bắt đầu làm quen với xem tranh không có tính văn học
rồi, c̣n điện ảnh th́ chưa. Loại trừ văn học với tư cách là nền móng ra khỏi
điện ảnh, coi điện ảnh là một vương quốc độc lập th́ c̣n quá xa lạ ở xứ ta. Ở
cái nơi người ta c̣n nhầm điện ảnh với ti vi, giống Hà Tây bây giờ vẫn có người
nhầm tôm với tép, Hội điện ảnh Việt Nam bao gồm các nhà ti vi và các nhà điện
ảnh, th́ điều chúng ta đang bàn vẫn là chuyện ḱ khôi. Tiện đây nói thêm, tập
thơ Đàn của Dương Tường là để xem (chứ không phải đọc, có chữ ma nào mà đọc!)
nhiều người không hiểu là cái ǵ. Bởi v́ người ta chắc mẩm, thơ tất nhiên phải
có tính văn học và phải được xây dựng bằng ngôn ngữ văn học. Ở đây Dương Tường
làm thơ bằng ngôn ngữ hội họa và có thắp đuốc bảy ngày cũng chẳng ṃ ra tính văn
học ở đâu. Thế là điên, là chập mạch rồi… C̣n việc chuyển thể các tác phẩm văn
học cho điện ảnh là chuyện khác. Với ai không biết, với tôi đơn giản chỉ là sự
tiện lợi. Tôi chuyển một tác phẩm văn học ra điện ảnh không phải v́ tính văn học
của nó. Một khi tôi t́m thấy một tác phẩm văn học đậm đặc chất điện ảnh th́ tôi
lấy chuyển cho khỏe. Việc các nhà văn tham gia nhiều vào điện ảnh có lẽ v́ sự
quyến rũ của điện ảnh, hoặc là v́ mưu sinh, đơn giản chỉ thế thôi.
talawas: Anh cũng từng nổi lên – xin lỗi anh, lại phải dùng từ này – như
một trong những nhà văn đặc biệt của phong trào Đổi Mới. Trên b́a 4 bản dịch
tiếng Pháp của cuốn Những mảnh đời đen trắng có những ḍng so sánh anh với
Borges và Kafka. Nhiều năm gần đây, nhà văn Nguyễn Quang Lập không xuất hiện với
một tác phẩm mới có tiếng vang nữa...
NQL: Đó là người ta quảng cáo b́a bốn cho vui chứ tôi làm sao sánh được
với mấy ông đó. Đến văn họ viết ra tôi c̣n không hiểu nữa là… Tôi không bỏ văn
chương, thậm chí yêu nó hơn bao giờ hết. Sở dĩ tôi ngừng viết văn lâu ngày v́ có
nhiều lẽ. Ngày xưa ḿnh điếc không sợ súng viết lăng nhăng thế, bây giờ khi sắp
chết rồi lại vỡ ra rằng cái thứ ḿnh viết ra thiên hạ đă bỏ qua từ tám hoánh.
Tôi muốn viết một thứ mơi mới mà không biết viết thế nào. Đọc Bùi Hoàng Vị,
Nguyễn B́nh Phương tôi cứ thèm được như họ. Thèm là thèm trẻ như họ, văn hóa như
họ, quyết liệt như họ. Hơn nữa, tôi có một gia đ́nh lớn mà tôi cần phải gánh vác.
Hai mươi năm qua chưa khi nào tiếng gọi của đồng tiền ngưng réo bên tai tôi, cho
tôi yên được một vài ba tháng, thế th́ làm sao viết văn? Bảo Ninh, Trung Trung
Đỉnh mắng tôi: “Mày ngu lắm, mày tưởng viết mấy thứ báo biếc, kịch kiếc, phim
phiếc mà có tiền à. Thời buổi đổi thay rồi, viết văn hay bây giờ không giàu th́
cũng không nghèo đói đâu!” Tôi không ngu, tôi bán lúa non v́ nếu không bán th́
con tôi đói. Nói thế chứ tôi cũng đă viết xong một tiểu thuyết, gọi là T́nh cát,
đúng 450 trang, định đưa in th́ cháy ổ cứng. Tôi dốt vi tính nên mới thế. Chán
quá, định bụng bỏ quách văn chương th́ Trung Trung Đỉnh khích tôi: “Mày nói phét,
mày không viết được cái ǵ, ngượng, nên ai hỏi th́ bảo cháy ổ cứng, tao c̣n lạ
ǵ!”. Tức khí tôi quyết chí viết lại, đến nay đă được trăm trang.
talawas: T́nh cát có nhiệm vụ thực hiện mong ước viết khác đi so với
trước của anh không? Anh có tin rằng một nhà văn có thể khác với chính ḿnh,
miễn là hắn có nhu cầu tự đổi mới? Và nói chung, anh có cho rằng những quan tâm
hàng đầu của văn học thời Đổi Mới đă được giải quyết, Hậu Đổi Mới đ̣i một loại
văn chương khác?
NQL: Nếu không khao khát viết khác đi th́ tôi chẳng cạy cục viết nó làm
ǵ. Có điều văn chương nó nghiệt lắm. Cái ḿnh viết chơi, viết đùa th́ lại thành,
cái ḿnh đắm đuối th́ hỏng, khó nói trước lắm. Chẳng nhà văn nào không có nhu
cầu đổi mới, hầu như đó là mong ước hàng ngày của họ, hôm nay muốn thật khác hôm
qua. Tất nhiên đó phải là loại nhà văn biết văn là cái ǵ, thực ḷng yêu nó và
biết viết ra nó. C̣n đám nhà văn giả cầy th́ lại khác. Đám này vui lắm, chỉ chăm
chú giữ ǵn hư danh và ra sức khai trương cật lực thứ hư danh mà bạn bè anh em
thương t́nh thí cho. Đổi mới đối với họ là viết thật dày và triển khai b́a bốn
thế nào cho thật ấn tượng. Dạo này xứ ta không biết ở đâu ra cái Từ điển danh
nhân thế giới -loại từ điển đánh trống ghi tên, nghe nói chỉ cần một ngàn đô là
người ta sẵn sàng điền tên anh vào- mà lắm anh ra sách, chết sống cũng cố ghi
lên b́a bốn một ḍng thật oách: “Có tên trong Từ điển danh nhân thế giớI”. Sao
mà khổ thế không biết! Tôi lại nói lạc đề rồi phải không?
talawas: Không sao, anh cứ tự nhiên.
NQL: Bây giờ trở lại câu chuyện nhu cầu tự đổi mới và đổi mới. Không phải
nhà văn nào có nhu cầu đổi mới là đổi được ngay. Muốn đổi mới th́ anh phải thực
tài, nếu không anh sẽ chuyển từ cái cũ rích này sang cái cũ rích khác mà thôi.
Mà tài là cái trời cho, trời không cho th́ dù cố mấy cũng chịu. Thêm vào đó xă
hội phải có thái độ tiếp nhận đúng đắn cái đổi mới kia. Anh có thể phê phán, có
thể dè bỉu nhưng đừng vùi dập nó, cấm đoán nó. Cái mới thường không có trong
kinh nghiệm của anh, anh dị ứng cũng là chuyện thường t́nh. Nhưng anh thừa biết
có những cái mới hôm nay anh ghét cay ghét đắng, anh tởm đến buôn nôn lên được
th́ vài chục năm sau con cháu anh, và cả anh nữa nếu c̣n sống, lại háo hức đón
nhận nó như một báu vật trời cho. Lá cỏ của Whitman là một ví dụ. Vậy th́ anh
sấn sổ quy chụp cấm đoán nó làm ǵ. Làm thế anh chỉ bị Hôm Nay nhếch mép cười
thầm, quá lắm chỉ văng tục vài câu, c̣n Ngày Mai sẽ phỉ nhổ anh. Khi đó anh chết
rồi anh chẳng biết đâu, nhưng con cháu anh vẫn c̣n sống nhăn ra đấy, chúng nó
phải hứng một đống tủi hổ, liệu anh có sung sướng không? Ngay bây giờ tôi đă
nh́n thấy một số bạn văn của ḿnh phải cúi gầm mặt v́ những thứ bố mẹ họ đă làm
khi c̣n sống chứ chẳng nói đâu xa. Quy chụp, cấm đoán có thể làm cho anh được
chút ít lợi lộc ngày hôm nay, nhưng ngày mai coi chừng anh sẽ bị lịch sử tùng
xẻo. Anh ỉa vào cái mới hôm nay, nhất thời anh sướng cái lỗ đít nhưng coi chừng
ngày mai anh sẽ bị người ta ỉa vào mặt anh đấy! Tôi thích nói tục thế mới đă.
talawas: Văn học đổi mới thường được đồng nhất với văn học nói sự thật...
NQL: Tôi nghĩ xứ ta cứ nói thật, không nói dối tức là đổi mới rồi. Ai
viết được như thế thiên hạ phục lắm. Cho đến tận bây giờ đa số vẫn không đọc văn
mà đọc vấn đề. Văn học cơ chế vẫn c̣n đang được chào đón, nhưng tôi nghĩ thứ đó
bây giờ rơ ràng là đă lạc hậu. Ngày xưa, thời mới vào đổi mới, người ta háo hức
viết thẳng viết thật, đả phá món cơ chế đă lỗi thời. Chính tôi v́ hăng máu vịt
nên mới viết Những mảnh đời đen trắng. Bây giờ tôi nghĩ, cơ chế không phải là
việc của văn học, đó là việc của báo chí. Kể cả việc đả phá thứ đạo đức xă hội
do cơ chế sinh ra, suy cho cùng cũng không phải việc của văn học. Dùng văn để
viết về lũ tham ô tham nhũng th́ cũng được đấy, hay là đằng khác nếu anh có tài.
Có điều tôi vẫn cảm thấy h́nh như chúng ta đang sa vào cái cụ thể, cái riêng
biệt, cái địa phương của xứ ta. Nhân loại nếu quan tâm đến những đề tài đó th́
t́m trong các sách trinh thám, vụ án mà thôi. Ví von thế này th́ sai bét nhưng
tôi có cảm giác một thời ta bỏ bóng đá người, việc đó có thể có ích nhất thời,
nhưng bây giờ th́ nên thôi, nên nhè bóng mà đá. Thiên hạ đá bóng cả, ḿnh cứ đá
người th́ chẳng ra làm sao. Văn học h́nh như sang trọng hơn cái chúng ta đă làm
nhiều. Quả bóng của chúng ta là văn. Nó quí lắm, hay lắm. Nó thuộc về cả nhân
loại chứ không riêng xứ ta. Ư tôi muốn nói bây giờ ta làm văn đi, đừng làm vấn
đề nữa.
talawas: Anh muốn nói nên chấm dứt việc dùng văn học làm công cụ cải tạo
xă hội? Vậy văn chương nên có vị trí ǵ trong xă hội Việt Nam hiện đại? V́ sao
chúng ta cần đến nó? V́ sao nó vẫn được coi là địa hạt quan trọng đến mức phải
có một Hội đồng lí luận phê b́nh văn học trực thuộc Trung ương Đảng CSVN?
NQL: Cái đó động đến thứ lí luận văn học đă được đóng đinh nửa thế kỉ nay
rồi, tôi không đủ tŕnh độ để nói cho ra nhẽ. Vả lại muốn nói cho ra nhẽ, để
không ai bắt bẻ, phải cả một cuốn sách chứ dăm bảy câu không ăn thua. Tôi chỉ
xin nói vài nhận thức vu vơ của ḿnh thôi. Ngày bé, nghe anh tôi đọc ra rả „Dùng
cán bút làm làm đ̣n xoay chế độ“, tôi cứ băn khoăn: cán bút có một mẩu, xă hội
to thế xoay làm sao được nhỉ? Mon men đến hỏi th́ anh tôi trợn mắt quát: “Ngu!
Ra ngoài chơi!“ Câu hỏi ấy cứ ám ảnh tôi măi nhưng không dám hỏi ai. Thời đó kẹt
lắm, hỏi lăng nhăng sợ không khéo bị qui cho là xét lại, là phản động. Măi khi
ti toe viết văn mới thấy sướng cái lỗ rốn cái câu đó. Văn chương oai thế, oách
thế. Bố mày có bút văn đây nè, bố mày xoay một cái th́ bốc cám. Thỉnh thoảng cấp
trên gọi lên khen ngợi mấy câu, động viên mấy câu: cố gắng! cố gắng! Tuyệt không
có cấp trên nào gọi nhà văn bằng thằng, hết thảy đều gọi bằng đồng chí. Tết nhất
gọi đến cho quà, hoặc gửi quà về tận nhà. Có vị c̣n đến nhà, đỗ xịch xe con
trước ngơ, thiên hạ lác mắt. Thật vinh dự tự hào quá! Trong các hội, từ Hội Nuôi
ong đến Hội Chữ thập Đỏ th́ Hội Nhà văn là quan trọng nhất. Bằng chứng là các
hội khác đại hội ở đâu th́ tùy, chứ Hội Nhà văn nhất nhất cứ phải Hội trường Ba
Đ́nh mới oách. Có anh đi dự Đại hội, cứ khư giữ lấy cái phù hiệu, vênh vênh vang
vang dạo khắp phố phường, thật đă. Đến khi già rồi, sắp chết rồi, lại băn khoăn
cái câu hỏi thuở lên ba: Bút có xoay được không nhỉ? Có khi nó chẳng xoay được
cái quái ǵ, chẳng qua người ta xoa đầu ḿnh thế thôi chứ bút văn th́ xoay được
cái ǵ, nếu có th́ là bút báo chứ đâu phải bút văn. Bút văn chẳng qua là công cụ
để ghi chép tâm sự, nỗi niềm của ḿnh, họa may kiếm được vài cái xuưt xoa chứ
xoay làm sao được mà xoay. Văn chương đâu làm cái việc to tát thế. Thực ra ḿnh
có quan trọng ǵ đâu. Quan trọng là người dùng công cụ chứ đâu phải công cụ.
talawas: Vậy văn chương để… mua vui?
NQL: Đúng, để mua vui thiên hạ như cụ Nguyễn Du đă than, mấy trăm năm nay
rốt lại chỉ có thế. Anh mua vui được th́ anh quan trọng, anh được tặng quà, được
khen ngợi, được gọi bằng đồng chí. Nhược bằng anh làm hỏng cuộc vui của người ta
th́ coi chừng, khi đó nghĩ xem anh có c̣n quan trọng nữa không? Người ta chẳng
túm tóc lôi ra ngoài ngay tắp lự: „ Ngu! Ra ngoài chơi!“ Người ta c̣n cần đến
anh là v́ anh biết mua vui, thế thôi, chứ anh đừng có tưởng bở mà cao giọng góp
ư này nọ. Ngày xưa các cụ nhà ta gặp chuyện đời cảm động th́ viết ra vậy thôi.
Các cụ làm văn chứ có định làm ǵ đâu. Gặp lúc người ta cần, người ta hô hoán
lên, đẩy các cụ tít tận mây xanh. Rồi bảo lũ trẻ phải viết như các cụ. Muốn viết
được như các cụ thời phải có quan điểm này, quan điểm nọ, phương pháp này,
phương pháp nọ. Mệt quá trời. Thôi, đă đến lúc ta ra ngoài chơi văn với nhau, có
chửi bới hằm hè th́ cũng chỉ trong cuộc văn với nhau, có khi thế mà hay, biết
đâu v́ thế văn lại được bền hơn chăng? Tôi bây giờ mệt mỏi lắm rồi, xin không
làm chiến sĩ nữa, tôi làm văn, thế thôi. Văn là văn, không có sắt thép xi măng
ǵ sất, từ nay tôi nguyện làm thứ văn đó. Hay dở c̣n nhờ trời chứ tôi tuyệt
không làm thứ văn khác, cả thứ văn mà Hội đồng Lí luận Phê b́nh ghét cay ghét
đắng và thứ văn mà họ quan tâm khích lệ tôi đều không thiết.
talawas: Xin hỏi sang một điểm khác: Chưa bao giờ văn học đương đại thế
giới được giới thiệu nhiều ở Việt Nam như trong khoảng thời gian một thập niên
gần đây. Dường như các nhà văn Việt Nam ngày càng đánh mất độc giả vào tay những
đồng nghiệp nước ngoài của ḿnh, đặc biệt là đồng nghiệp Trung Quốc và Mĩ, cũng
giống như việc điện ảnh Việt Nam đă thua điện ảnh Mĩ, Trung Quốc, Đài Loan và
Hàn Quốc trong trận đấu giành công chúng điện ảnh. Là biên tập viên tại Nhà xuất
bản Kim Đồng, anh có thể chứng kiến cảnh thị trường sách thiếu nhi ở Việt Nam
rơi vào tay truyện tranh Nhật Bản…
NQL: Ḿnh thua người ta v́ người ta tài hơn ḿnh, ấy là một nhẽ. Buồn lắm
nhưng biết làm thế nào? Tài như ông Thiệp viết được một lúc rồi cũng tịt. Ông
Bảo Ninh th́ từ khi ra cuốn Nỗi buồn chiến tranh, gật gà gật gù măi, hơn chục
năm rồi vẫn không thấy cuốn nào mới. Ông Thiệp xoay sang viết tiểu thuyết. Cuốn
Tuổi hai mươi yêu dấu mỏng lé, chưa in đă thấy tuyên bố rầm trời. Làm marketing
thế cũng khá nhưng tôi nói thật, cuốn ấy dở quá là dở. Nghe nói Cục xuất bản
không cấp giấy phép cho ông Thiệp. Nếu đúng thế th́ Cục xuất bản làm sang cho
Thiệp. Sách ấy mà ra th́ ông Thiệp mất ối độc giả. Văn học lúc thịnh lúc suy là
chuyện b́nh thường nhưng cứ thấy ta suy măi mà không có cửa nào để hi vọng có
ngày nó sẽ thịnh. Nghĩ thế mà buồn. Chúng ta mất dần độc giả v́ chúng ta mất
niềm tin nơi họ. Quanh năm chẳng thấy viết ǵ cho ra hồn lại căi nhau như mổ ḅ.
Chán lắm. Bên chính trị người ta biết bơm nhân vật nào mà họ cần. Bên văn th́
trái lại, hễ anh nào vừa nhoi lên, không biết khiêm tốn kịp thời, trước sau cũng
bị bôi tro trát trấu vào mặt. Lại thêm hễ có cuốn nào đọc đường được là đă nghe
ồn, là có vấn đề rồi, trước sau không cấm cũng thu hồi. Cuốn Đi t́m nhân vật của
Tạ Duy Anh, tôi đọc cũng được, cũng được thôi chứ bảo hay th́ tôi không chịu,
một hôm ngồi nhậu với ông giám đốc xuất bản, ông nói: “Đang méo mặt v́ cuốn đó
đây. Trên đ̣i thu hồi!” Tôi nghĩ măi không ra v́ sao cuốn đó lại thu hồi, có ǵ
đâu mà thu hồi? Hỏi ông giám đốc, ông thở ra nói: “Tôi cũng có biết đâu, trên
bảo th́ ḿnh phải chấp hành thôi.” Cuốn Chuyện kể năm hai ngàn cũng vậy, tập 1
chỉ thuần túy hồi kí nhưng tập 2 th́ quá hay, đang sướng th́ lại nghe cấm, thu
hồi. Chán mớ đời. Thế th́ kiếm đâu ra độc giả!
talawas: Trong khi tác phẩm văn học của nước ngoài được tự do hơn nhiều…
NQL: Thế đấy! Cuốn Phong nhũ ph́ đồn của Mạc Ngôn th́ Trung Quốc cho xuất
bản ầm ầm. Nước ta cũng cho in ầm ầm, chẳng thấy ai thắc mắc ǵ. Nếu Mạc Ngôn mà
ở xứ ta th́ sách ấy đến mồng thất cũng đừng ḥng đến tay độc giả. Ngay cái tên
sách không thôi, người ta đă tát cho vỡ mặt. Nếu hỏi: nước ta có ai viết được
như Mạc Ngôn không, tôi bảo có đấy. Không tin cứ làm như bác Trung Quốc, cũng là
nước xă hội chủ nghĩa đấy thôi, ứng xử với Mạc Ngôn và sách của Mạc Ngôn, làm
được như thế th́ loại sách Phong nhũ ph́ đồn không phải không có, thậm chí có
khi hay hơn. Trung Quốc mấy chục năm trước, văn học cũng trắng phau như ta bây
giờ thôi, mười năm vừa rồi người ta đổi mới ầm ầm, đổi mới thứ thiệt, thế là
sách người ta đổ bộ vào ta là lẽ đương nhiên. Văn hóa bao giờ chẳng chảy từ thế
năng cao đến thế năng thấp. Tôi nhớ có lần Nguyễn B́nh Phương đưa tôi đọc bản
thảo cuốn tiểu thuyết mới. Đọc xong tôi bảo: “Không in được đâu, tao thách mày
in ra được đấy. Muốn in được chỉ có một cách...” Nguyễn B́nh Phương hỏi: “Cách
ǵ?” Tôi bảo: “Mày ghi tên tác giả là A-lếch-xăng-đơ ǵ đó và ghi ‘Nguyễn B́nh
Phương dịch’ th́ sách ra ngay tắp lự!” Nguyễn B́nh Phương cười to bảo: “Đắc sách!
Đắc sách!” Từ bấy đến nay gặp tôi, anh cứ tủm tỉm cười, chẳng hiểu anh có làm
theo cách của tôi không mà cứ tủm tỉm thế không biết. Tôi biên tập cuốn Tục ngữ
ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, rút gọn lại cho các cháu đọc. Trong đó
có bài: “Đêm trăng vằng vặc/ vác cặc đi chơi...” Một bà già viết báo mắng cho:
làm sách cho trẻ em mà thô tục thế à? Sở Văn hoá Thông tin TP. HCM gọi lên gọi
xuống, bắt giải tŕnh này nọ, mệt quá là mệt. Độc giả nước ta sướng lắm, phàm là
sách Tây đều đọc được tuốt. C̣n sách ta th́ cẩn thận đấy, không phản động cũng
đồi trụy, khéo không ngộ độc mà chết, đừng đọc, chúng tôi không cho chúng đến
tay quí vị đâu, quí vị yên tâm. Trăm cái sự ấy dẫn đến việc Ta mất dần độc giả
vào tay Tây, chỉ c̣n trọc lóc mỗi cái khẩu hiệu: “Giữ ǵn bản sắc dân tộc” treo
lên làm v́, thế thôi.
talawas: Anh có cho rằng t́nh trạng không thể nhoi lên được ấy cũng xuất
phát từ không khí trật tự quen thuộc của làng xóm, tỉnh lẻ không? Trong một cái
làng, ai vĩ đại đột xuất, vĩ đại ngoài kế hoạch, đều dễ bị ḷi ra ngay như một
kẻ gây rối, phá hỏng trật tự. Sở dĩ các nhà văn vĩ đại nước ngoài vào làng ta
vẫn được tương đối yên ổn v́ họ là khách, không tham gia vào hệ tôn ti trật tự
đó, không phải cúi xuống cho thấp hơn ông lí trưởng… Làm cách nào để chúng ta
thoát khỏi sợi dây trói vô h́nh của cái trật tự này?
NQL: Ngày xưa, thời Tố Hữu c̣n làm thơ và c̣n coi sóc trường văn th́ cái
câu: “Tố Hữu, con chim đầu đàn của làng thơ Việt Nam” mặc nhiên được coi là chân
lí không cần phải bàn căi. Tôi nhớ có người b́nh thơ Tố Hữu, cứ mỗi lần chuyển ư
chuyển đoạn là đều lặp lại y x́ câu đó trước khi nói hươu nói vượn. Tôi không hề
coi thường hay dè bỉu thơ Tố Hữu. Nó đă góp phần nuôi dưỡng tâm hồn đồng quê của
tôi. Nhưng đội ông lên đầu mấy chục năm không biết chán th́ thật đáng xấu hổ.
Nếu đúng Tố Hữu luôn là con chim đầu đàn mấy chục năm liền th́ thơ Việt Nam mấy
chục năm liền giẫm chân tại chỗ ư? Vô lí! Một nền văn học phát triển phải như
nước thủy triều chứ. Lớp sóng này đè lớp sóng kia. Có mỗi một cây cao bóng cả
ngồi