Ôm Lấy Niềm Đau Sau Trận Hải Chấn
Thiền Sư
Nhất Hạnh
|
|
Thiền Sư Nhất Hạnh |
|
Thiền
Sư Thích Nhất Hạnh giảng tại Làng Mai Xóm
Thượng, Chùa Pháp Vân ngày 30 tháng 12 năm 2004
Kính thưa đại chúng, hôm nay là ngày 30 tháng chạp
năm 2004, chúng ta đang ở tại xóm Thượng.
Trong kinh
Du Hành có chuyện một chú sa di đem
tin tới cho đức Thế Tôn là thầy Xá Lợi
Phất mới qua đời. Vị sa
di đó tên là Cunda (Thuần Đà). Hồi
đó Bụt đang ở miền Bắc sông Hằng
tại thành phố Vaisali. Thầy Xá
Lợi Phất tịch ở quê hương của ngài.
Chú sa di Thuần Đà đợi cho
lễ trà tỳ xong mới đem tro của thầy về
cho Bụt. Tro được để trong một cái bát. Chú nói: “Đây là tro của thầy con.
Thầy con vừa mới tịch.” Trước khi chú sa di Thuần Đà được gặp
đức Thế Tôn th́ chú đă được gặp
thầy A
Có
một hôm ở xóm Thượng, tôi nằm mơ thấy
có hai vị giáo thọ gởi đi dạy tại các
nước
Mấy ngày nay chú nguyện cho các nạn nhân của trận
động đất sóng thần ở Đông Á, tôi
thấy rằng trong giấc mơ ḿnh đă may mắn có
Pháp Hữu để ôm mà khóc, có một người thân
để ḿnh chia sẻ niềm đau nỗi buồn
của ḿnh. Có những người mà gia
đ́nh chết hết, th́ niềm đau nỗi khổ
một ḿnh ḿnh chịu, không có ai để mà chia sẻ.
Đó trường hợp của nhiều chuyện
xảy ra trong trận hải chấn ở Đông Nam Á.
Trận hải chấn ở Đông Nam Á xảy ra vào ngày
26 tháng chạp. Số người chết từ
Tuy
đang ngồi đây, chúng ta cũng đă chết một
phần nào trong trái tim và trong cơ thể
của chúng ta. Ở các miền Bắc Âu như Thụy
Điển có rất nhiều người đi về
miền đó nghỉ lễ, đi t́m tới những
chỗ rất thanh tĩnh, rất trong lành, rất ấm
áp, vậy mà chỉ trong mấy phút đồng hồ
của cuộc hải chấn đă mất mạng. Các nhà khoa học nói rằng nếu những nước
ở Đông Nam Á có hệ thống báo động th́ đă
có thể giúp được cho một số người
tránh được thảm họa. Họ
nói rằng có thể có tới bốn giờ đồng
hồ để cho người dân trốn chạy.
Nhưng dầu có hệ thống báo động đi
nữa, th́ làm sao báo được cho dân chúng: những
người không nghe radio, không coi ti vi,
những người đang làm việc ở ngoài biển,
những nông dân, những em bé.
Trong số những người Tây phương
chết trong trận hải chấn này, cố nhiên phần
lớn là những người đi nghỉ lễ,
trốn lạnh, nhưng cũng có những người
đi làm công việc thiện nguyện. Họ không
phải đi chơi, họ đi là để giúp
đỡ, nhưng họ cũng chết trong trận
hải chấn này. Cái đau
thương nó thúc đẩy chúng ta quán chiếu và suy
nghĩ tới thân phận của con người. Ở trong đạo Chúa, vấn đề này
được đặt ra từ lâu: tại sao
Thượng Đế sinh ra thế giới muôn loài mà
lại để cho những thương đau như
vậy xảy ra được? Đó
là một đề tài thần học có từ ngàn xưa.
Đạo Bụt nói về thuyết Nhân
Quả, ḿnh gây ra nhân ǵ th́ ḿnh chịu quả đó.
Nhưng có người hỏi: “Tại sao những em bé
mới có ba tuổi, năm tuổi, đă gây ra những
tội t́nh ǵ mà phải mất cha mất mẹ, hoặc
bản thân ḿnh cũng chết?” Làm sao cắt
nghĩa được luật nhân quả nghiệp báo?”ơ
Chúng ta, dầu trong truyền thống Cơ Đốc giáo
hay truyền thống đạo Bụt, cũng có những
câu hỏi được đặt ra. Tín
đồ Cơ Đốc hỏi: “Tại sao
Thượng Đế nhân từ mà lại để cho
những cái như vậy xảy ra?”ơ Phật tử
hỏi: “Tại sao những người đi làm thiện
nguyện, những người đi với một trái tim
rất lành, những em bé đang c̣n ngây thơ, đă gây ra
nghiệp báo ǵ, tội t́nh ǵ mà phải chết như
vậy?”ơ
Có những người nói rằng, tuy trong kiếp này
họ chưa gây ra nghiệp xấu, nhưng trong kiếp
trước có thể họ đă gây ra nghiệp xấu
rồi. Chúng ta đi t́m những câu trả
lời tương tự. Thi sĩ Pháp tên là Victor Hugo
vào năm bốn mươi mấy tuổi mất
đứa con gái. Cô con gái trên dưới hai mươi. Cô tên là Léopoldine. Thi sĩ
rất đau khổ và ông hỏi trời hỏi
đất tại sao như vậy. Đứa con gái
chết cũng v́ bị chết trôi. Một bông hoa mơn mởn đang nở như vậy mà
bỗng nhiên bị sóng vùi, gió giập. Lúc
đó thi sĩ đă trở về quê của ḿnh, ở
Villequier. Victor Hugo nói trong bài thơ A Villequier: Con
người chỉ có thể thấy được
một mặt của sự thật, c̣n mặt kia bị ch́m đắm trong một màn
đêm rất bí mật, rất hăi hùng (Nous ne voyons jamais
quơun seul côté des choses. Lơautre plonge en la nuit dơun
mystère effrayant). Con người đă chịu
đựng những khổ đau, những tang tóc mà không
biết được tại sao ḿnh phải chịu
đựng (L’homme subit le joug sans connaitre les causes). Tất
cả những cái ǵ con người thấy, cảm
nhận được, đều là ngắn ngủi,
đều là vô ích, đều là vô thường (Tout ce qu’il voit est court, inutile et fuxyant). Victor Hugo
kêu Thượng Đế :
“Thượng Đế ơi, con đến đây
đặt trước chân ngài những mảnh nát của
trái tim đầy vinh quang của ngài, trái tim mà ngài đă
đập nát ra thành từng mảnh.”ơ
(Je viens à vous, Seigneur, Père auquel il faut croire. Je vous porte, apaisé, les morceaux de ce coeur tout plein de votre
gloire que vous avez brisé). ơ Con thấy
rằng chỉ có ngài mới biết được cái ǵ
ngài đang làm thôi, c̣n cái thân phận con người
chẳng qua chỉ là thân phận của một cây sậy
đong đưa trong gió, chẳng có nghĩa ǵ cả.”ơ (Je conviens que vous seul savez ce que vous faites. Et que l’homme nơest rien qu’ơun jonc qui tremble au vent).
Con người bất lực, con người không có giá trị
ǵ hết, thân phận con người là như vậy, và
chỉ có Thượng Đế biết là ngài đang làm
ǵ thôi, và chúng con không hiểu tại sao ngài làm như
vậy. Và các nhà thần học đă t́m cách
để giải thích. Trong những lối giải
thích đó có kẻ nói rằng là nếu con người không
đau khổ th́ con người không thể nào lớn lên
được, v́ vậy cho nên những tang tóc và đau
khổ đó là chính Thượng Đế muốn cho ḿnh
phải gánh chịu để cho ḿnh học hỏi và
lớn lên. Có những người chấp
nhận được cái lư luận đó, nhưng có
những người không chấp nhận được.
Ở Làng Mai, chúng ta đă học nhiều về luân
hồi, về tái sinh. Chúng ta biết rằng trong đạo
Bụt b́nh dân, giáo lư về luân hồi và tái sinh
được dựa trên niềm tin về ngă: một
người khi chết đi sinh ra một người khác
hay vật khác. Niềm tin là có sự tiếp nối, là khi
ḿnh chết th́ ḿnh không mất hẳn, ḿnh sẽ
được tiếp nối dưới một h́nh
thức khác, đó là luân hồi sinh tử. Nhưng chúng ta
đă học rất nhiều lần rằng trong
đạo Bụt thâm sâu, chúng ta phải hiểu luân
hồi trong ánh sáng vô ngă. Nền tảng
của đạo Bụt là cái thấy vô ngă. Nếu
chúng ta hiểu luân hồi và nhân quả trên nền tảng
hữu ngă th́ chúng ta chưa tiếp xúc được
với cái sâu sắc nhất ở trong đạo Bụt.
V́ vậy cho nên vấn đề khổ nạn (the problem
of evil) cũng phải được giải quyết trong
ánh sáng của vô ngă. Khi chúng ta đặt ra câu hỏi : “Tại sao ta phải gánh chịu tai
họa, khổ đau trong lúc những người khác
sống phây phây không hề hấn? Tại sao những em bé
đầu xanh chưa có tội t́nh ǵ mà đă gánh chịu
những cái tang thương quá lớn lao như vậy?”
Phần lớn các câu trả lời ta được nghe
đều đă căn cứ trên cái ư niệm hữu ngă.
Chúng ta biết rằng nếu chúng ta c̣n căn cứ trên
quan niệm hữu ngă th́ chúng ta chưa t́m được
câu trả lời đích thực của đạo
Bụt. Và v́ vậy các vấn đề nhân quả,
nghiệp báo và luân hồi phải được giải
quyết trên nền tảng vô ngă. Trong Duy
Biểu học, chúng ta đă học về nghiệp. Chúng ta thấy có biệt nghiệp và cộng
nghiệp. Những người ở Đông Nam Á, sinh
ra ở đó, lớn lên ở đó, làm ăn lập
nghiệp ở đó, th́ họ chết v́ trận hải
chấn này đă đành rồi, nhưng tại sao hàng
chục ngàn người ở Tây phương, mắc
mớ ǵ mà đi về đó để cùng chết? Hiện bây giờ có hàng ngàn người ở các
nước Tây Phương vẫn chưa biết sống
chết thế nào, mà mỗi giờ trôi qua như vậy
th́ cái hy vọng càng bớt đi. Khi một chiếc máy
bay nổ, rơi xuống, có thể là phần lớn
những hành khách đi trên chiếc máy bay chết hết,
có chừng một hay hai người sống sót, chúng ta
hỏi: Tại sao vậy? Tại sao không
chết hết mà c̣n một hai người sống?
Khi quán sát như vậy, chúng ta thấy nghiệp có hai mặt:
biệt nghiệp (nghiệp riêng) và cộng nghiệp
(nghiệp chung). Khi ta t́m ra được
nguyên tắc biệt nghiệp cộng nghiệp th́ chúng ta
đă có thể bắt đầu giải quyết
được một phần rất quan trọng của
các vấn đề rồi. Nếu chúng
ta đi về hướng của tuệ giác vô ngă th́ chúng
ta sẽ từ từ t́m ra những câu trả lời xác
đáng. Trong cuộc chiến Việt
Ngày xưa, mỗi khi có thiên tai, như lụt
lội, hay động đất, hay bệnh dịch, các
vị vua chúa ở các nước Á châu cảm thấy
đó là cái lỗi chung, và họ tin rằng là những
người trị nước, họ đă không sống
xứng đáng để cho tai họa thiên nhiên đổ
ập xuống đất nước và dân chúng. Thường
thường các vị vua chúa ở Á châu, mỗi khi có tai
nạn thiên nhiên như vậy th́ phát nguyện ăn chay,
nằm đất, cầu nguyện, và các quan trong triều
cũng ăn chay, nằm đất, cầu nguyện theo
như vậy trong nhiều tuần lễ. Rất
hay! Truyền thống ấy hiện bây
giờ không c̣n nữa. Một ông vua phát nguyện ăn chay, phát nguyện không nằm trên
giường ngự nữa, đem chiếu trải
xuống nằm dưới đất. Nó có nghĩa là ông
vua đó đă thấy được rơ trách nhiệm
của ḿnh, ḿnh đă sống như thế nào, ḿnh đă cai trị như thế nào mà để cho
những tai ương như vậy xảy ra trong
nước. Hành động ăn chay,
nằm đất của vua, của các quan trong triều
đ́nh là hành động của sự sám hối. Rất đẹp! Các nhà làm
chính trị thời nay không thấy được như
vậy. Chúng ta không phải là những
nhà chính trị, chúng ta không phải là những ông vua,
nhưng chúng ta thấy những đau thương khổ
nạn xảy ra cho trái đất, cho nhân loại như
vậy, th́ chúng ta cũng phải ăn chay, chúng ta cũng
phải nằm đất, chúng ta cũng phải tu tĩnh
trở lại, tại v́ cái nghiệp là cái nghiệp chung.
Tất cả chúng ta, dầu ít dầu nhiều, cũng
đă đóng góp vào cái nghiệp chung, và những tai họa xảy ra cho bất cứ một
bộ phận nào của trái đất, của nhân
loại, th́ dầu ít dầu nhiều chúng ta cũng
phải chịu chung một phần trách nhiệm. Và khi người ấy chết th́ ta cũng
chết, người đó đau ta cũng đau,
người đó tuyệt vọng ta cũng tuyệt
vọng. Thấy như vậy là cái
thấy vô ngă. Trong cái thấy của
Victor Hugo, người ta t́m ra được cái ư
hướng, cái nhận thức của sự vượt
thoát cái ngă. Khi người ta thấy
được cái tính vô ngă của những hiện
tượng thương đau như vậy, th́
người ta bắt đầu chấp nhận được
và chịu đựng được những đau
khổ đó, và người ta không c̣n phản kháng nữa,
phản kháng Thượng Đế, phản kháng lại
thân phận con người. Trong Đạo
Đức kinh có câu:
Thiên địa bất nhân dĩ vạn vật như sô
cẩu
Thánh nhân bất nhân dĩ vạn vật như sô cẩu
Có nghĩa là trời đất bất công coi muôn loài
như là con chó rơm, các bậc thánh nhân là bất nhân
tại v́ các bậc thánh nhân cũng coi muôn loài như là con
chó rơm.
Con chó rơm, tức là thân phận tồi tàn, không có
nghĩa ǵ cả. Sanh ra muôn loài lại
để muôn loài đau khổ và chết chóc như
vậy th́ trời đất quả thật là bất nhân.
Thánh nhân ở đây tức là các vị vua.
Những hiệu lệnh của vua gọi là
thánh chỉ, những ư kiến của vua gọi là thánh ư.
Thánh nhân ở đây là các nhà làm chính trị. Các nhà làm
chính trị quyết định về số mạng
của con người, họ quyết định phải
đi chinh phục, phải tạo chiến tranh, và v́
vậy họ cũng bất nhân như trời và
đất. Đó là những câu phản kháng về số
phận con người.
Lát
nữa đây, chúng ta sẽ niệm danh hiệu của
đức Bổn Sư, danh hiệu của đức
bồ tát Văn Thù Sư Lợi, danh hiệu của
đức bồ tát Phổ Hiền và danh hiệu của
đức bồ tát Quan Thế Âm. Chúng ta
như một tăng thân hăy chế tác ra năng
lượng của từ bi, của chánh niệm, chúng ta ôm
lấy hết cả trái đất, chúng ta cầu
nguyện cho tất cả những nạn nhân, chúng ta
cầu nguyện cho gia đ́nh của họ hiện bây
giờ đang khóc, người th́ có người ôm lấy
để khóc, người th́ không có ai để ôm mà khóc,
và chúng ta cầu nguyện cho chính chúng ta, tại v́ chúng ta
cũng là nạn nhân của trận hải chấn kinh
khiếp vừa mới xảy ra. Xin
đại chúng quán chiếu. Đây là
cơ hội để cho chúng ta lớn lên, để chúng
ta hiểu thêm. Dù quư vị đến từ truyền
thống Cơ Đốc giáo, Do Thái giáo, hay Phật giáo, quư
vị cũng phải quán chiếu. Cái ch́a khóa
của sự quán chiếu là vô ngă. Victor
Hugo là người Cơ Đốc giáo, ông đă t́m ra
được sự vượt thoát cái ngă. Chúng ta
phải quán chiếu rằng người chết đó
cũng chính là ta, người mồ côi đó cũng chính là
ta, em bé đó cũng chính là ta. Chỉ như
vậy chúng ta mới chấp nhận được,
chịu đựng được những nỗi đau
thương quá lớn như nỗi đau thương hôm
nay.
Xin
đại chúng ngồi thẳng lên, chắp tay lại,
để chúng ta cùng hộ niệm..(chuông).