VỊ TRÍ ĐỊA LÝ:
Thừa Thiên - Huế là tỉnh thuộc vùng Bắc
Trung Bộ của Việt Nam có tọa độ địa
lý 107000'-108015' kinh Ðông và 16000'-16045' vĩ Bắc.
Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Trị, phía Nam giáp
tỉnh Quảng Nam - Ðà Nẵng với ranh giới là
đèo Hải Vân, phía Tây giáp nước Cộng hòa
DCND Lào với ranh giới là dãy Trường Sơn,
phía Ðông được giới hạn bởi
biển Ðông. Nơi rộng nhất của tỉnh là
64 km từ Tây A Lưới đến cửa biển
Thuận An. Nơi có chiều rộng hẹp nhất là
2,5 km từ biển Lăng Cô qua Hải Vân quanh đến
ranh giới đà Nẵng.
Bờ biển của
tỉnh dài 120 km, có Cảng Thuận An và Vịnh Chân
Mây có độ sâu 18-20m có khả năng xây dựng
cảng nước sâu, có sân bay Phú Bài nằm ở
trên đường quốc lộ 1A và đường
sắt xuyên Việt chạy dọc theo tỉnh.
KHÍ HẬU:
Tỉnh Thừa Thiên Huế nằm trong khu vực
nhiệt đới gió mùa, mang tính chất chuyển
tiếp từ á xích đới lên nội chí
tuyến gió mùa, không có mùa Ðông và mùa khô rõ rệt.
Chỉ khi có những đợt không khí lạnh tràn
về thì thời tiết lạnh, thời tiết khô
khi có ảnh hưởng của gió Lào thổi về.
Thời tiết lạnh là thời kỳ ẩm vì mùa
mưa ở đây lệch về Thu Ðông. Sang mùa
hạ tuy có thời tiết khô nhưng thỉnh
thoảng vẫn có mưa rào hoặc mưa giông.
Do nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa nên
lượng bức xạ khá lớn, ở Huế lượng
bức xạ cao nhất vào tháng 2 là 10,49Kcal/cm3/năm.
Do lượng bức xạ cao dẫn đến
nhiệt độ tăng ở Huế tháng có
nhiệt độ cao nhất từ tháng 6 đến
tháng 8, trung bình 29 - 29,50C; tháng 12, tháng 1, tháng 1 là
những tháng có nhiệt độ thấp 19-200C có
thời điểm xuống tới 10-140C. Nhiệt
độ trung bình hàng năm là 250C. Số giờ
nắng trung bình năm ở Huế là 2000 giờ.
Lượng mưa trung bình nămtại Huế là
2740mm, tại Nam Ðông 3025mm. Mùa mưa ở Thừa Thiên
Huế chủ yếu từ tháng 9 đến tháng 12,
mưa lớn nhất tháng 10,11. Ðộ ẩm giao động
trong năm 72-90%. ở Nam Ðông 78-92%, ở A Lưới
77-92%, ở Huế 69-90%. độ ẩm trung bình năm
1994 ở Huế 83,8%, ở Nam Ðông 85,3%, ở A Lưới
85,8%.
Số lượng bão ở Thừa Thiên Huế khá
nhiều, thường bắt đầu từ tháng 6,
nhiều nhất vào tháng 9,10 hàng năm. Ngoài ra còn
chịu ảnh hưởng lớn của gió mùa Ðông
Bắc. Gió Lào tuy có ảnh hưởng nhưng không
lớn như ở Ðông Hà, Quảng Bình.
DÂN SỐ:
Theo tổng điều tra du lịch thời điểm
1/4/1989 dân số tỉnh Thừa Thiên Huế là 891.352
người, trong đó Nam 427.283 người, nữ
464.069 người. Khu vực thành thị có 237.877 người,
khu vực nông thôn có 653.475 người. Toàn tỉnh có
24 dân tộc chung sống trong cộng đồng, trong
đó người Kinh chiếm 96,74%, tiếp theo là các
dân tộc : Tà ôi có 18.795 người, chiếm 2,1%; Ca
tu 8.930 người, chiếm 1%; Bru - Vân Kiều 609 người
chiếm 0,06%; dân tộc Hoa 477 người, chiếm
0,05%; các dân tộc khác có số dân dưới 100 người.
Các dân tộc trong tỉnh đều sống trong tình
đoàn kết, thân ái. Ðảng và Nhà Nước
đã có nhiều biện pháp thiết thực
nhằm giúp đỡ cho cuộc sống ở các vùng
dân tộc sinh sống. Một số dân tộc có dân
số khá nhiều như Tà Ôi, Bru - Vân Kiều, Cà Tu,
Hoa có truyền thống văn hóa đậm đà,
phong phú, thường tổ chức các lễ hội
truyền thống của dân tộc mình.
Dân số của
Thừa Thiên Huế tăng khá nhanh, tỷ lệ sinh
từ năm 1991 đến 1994 hàng năm đạt
trên 30%, là tỉnh có tỷ lệ sinh khá cao so với
cả nước và một số tỉnh khu vực
miền Trung. Năm1995, dân số trung bình của
tỉnh đã đạt hơn 1 triệu người.
Trong đó khu vực thành thị 260.000 người
chiếm tỷ lệ 25,7%, khu vực nông thôn 749 ngàn
người chiếm tỷ lệ 74,3%. Bình quân trong 5
năm 1991-1995, mỗi năm dân số của tỉnh
tăng hơn 2 vạn người, bằng dân số
của huyện Nam Dương.
Vào năm 1985, bộ môn
Dân tộc - Khảo cổ, khoa Lịch sử trường
đại học Tổng hợp Huế đã phát
hiện di chỉ Cồn Ràng tại xã Hương
Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên
- Huế có trên 20 mộ chum và nhiều hiện
vật tùy táng khác, mang theo đầy đủ đặc
trưng của văn hóa Sa Huỳnh. Trước đó,
những hiện vật văn hóa Ðông Sơn của
người Việt cổ, như thố, rìu, dao găm
đồng, hay trống đồng đã được
phát hiện ở Phù Lưu (Quảng Bình), ở
huyện Hiên (Quảng Nam - đà Nẵng). Gần
đây, ngày 18-3-1994, một trống đồng Ðông Sơn
thuộc nhóm C kiểu II đã được tình
cờ phát hiện ở bản Khe Trăn, xã Phong Mĩ,
huyện Phong Ðiền, tỉnh Thừa Thiên - Huế, bên
tả ngạn sông ô Lậu, cách bờ 50m, nằm sâu
1m2 dưới lớp phù sa cổ.
Những phát hiện
đó, dù chưa cho phép kết luận chính xác
về niên đại và địa bàn và phân bố
của hai nền văn hóa Ðông Sơn và Sa Huỳnh
trên đất Huế thời cổ đại, nhưng
có thể nói rằng: địa bàn Thừa Thiên -
Huế là một trong những vùng hiện diện xen
kẽ hai tuyến văn hóa khác nhau, với chủ nhân
là người Việt cổ có ngôn ngữ Việt Mường
của dòng Nam á, và cả người Chàm cổ có dòng
ngữ hệ Malayo - Polynésie. Mặt khác, ở vùng núi
rừng trường Sơn phía Tây Thừa Thiên -
Huế, còn có những dân tộc thiểu số
thuộc nhóm Taôi - Pacô, Bru - Vân Kiều, Cơtu,
về mặt nhân chủng, mang nhiều yếu tố
đặc trưng của hình thái Indonésien, ngôn
ngữ lại thuộc dòng Môn-Khmer.
Lịch sử Tỉnh Thừa Thiên Huế
Từ sau năm 179 (trước công nguyên) đến
cuối thế kỷ II (sau công nguyên), Huế là vùng
đất thuộc Quận Nhật Nam dưới ách
thống trị của phong kiến phương
Bắc. Sau đó trong suốt thời gian dài gần 12
thế kỷ, vùng đất Thừa Thiên Huế
thuộc địa đầu phương Bắc
của Vương Quốc Chăm Pa.
Từ năm 1306, sau đám cưới của Công chúa
Huyền Trân nhà Trần với vua Chàm là Chế Mân,
vùng đất Châu Ô, Châu Lý (gồm Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế và một phần của Bắc
Quảng Nam) được lấy tên là Thuận Hóa.
Vào nửa cuối thế kỷ XV, thời vua Lê Thánh
Tông, địa danh Huế lần đầu tiên
xuất hiện.
Năm 1636 phủ chúa Nguyễn đặt ở Kim Long
(Huế), tới năm 1687 dời về Phú Xuân – thành
nội Huế ngày nay. Vào những năm đầu
của thế kỷ XVIII, Phú Xuân là trung tâm chính
trị, kinh tế, văn hóa của xứ “đàng
Trong” và từ năm 1788 đến 1801, Phú Xuân
trở thành kinh đô của triều đại Tây Sơn
thống nhất.
Từ năm 1802 đến năm 1945, Huế là kinh
đô của nước Việt Nam thống nhất dưới
sự trị vì của các vua nhà Nguyễn và cũng
vào thời gian này, nơi đây đã hình thành các công
trình kiến trúc lịch sử văn hóa có giá
trị mà tiêu biểu là Kinh thành Huế và Ðại
Nội (253 công trình) cùng các lăng tẩm của 7
đời vua Nguyễn, đàn Nam Giao, Hổ Quyền,
điện Hòn Chén.
Thừa Thiên Huế là một tỉnh có truyền
thống cách mạng oanh liệt, đến nay còn lưu
giữ nhiều di tích liên quan đến cuộc đời
hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và nhiều nhà cách mạng tiền bối khác, cũng
như nhiều di tích liên quan đến hai cuộc
chiến tranh giữ nước, giành độc
lập độc lập dân tộc.
Văn hóa và Truyền thống - Con người
Dân số Tỉnh Thừa Thiên Huế năm 1995 là
1.019.000 người, trong đó khu vực thành thị
chiếm 26,7%, khu vực nông thôn chiếm 73,3%.
Toàn tỉnh có 24 dân tộc chung sống đoàn
kết thân ái trong cộng đồng. Trong đó người
Kinh chiếm 96,74% dân số toàn tỉnh, tiếp theo là
các dân tộc Tà Ôi chiếm 2,1%, Cu Tu chiếm 1%, Bru -
Văn Kiều chiếm 0,06%, dân tộc Hoa chiếm
0.05%, còn lại là các dân tộc khác có số dân dưới
100 người.
Tất cả các cộng đồng dân tộc đều
sống trong tình anh em, đoàn kết và gắn bó
mật thiết. Truyền thống văn hóa của
Thừa Thiên Huế rất phong phú vì mỗi dân
tộc đều mang bản sắc văn hóa đậm
đà, phong phú, đặc sắc với các lễ
hội truyền thống của dân tộc mình.
Tỉnh Thừa Thiên Huế có tiềm năng du
lịch lớn. Với nhiều thắng cảnh đẹp
như Sông Hương, núi Ngự Bình, đèo Hải
Vân, núi Bạch Mã, biển Thuận An và Lăng Cô,
Huế là nơi dành cho những ai muốn tìm đến
với thiên nhiên và tìm hiểu về sự đa
dạng và phong phú của các dân tộc thiểu
số trong tỉnh.
Ðặc biệt Thừa Thiên Huế nổi tiếng
về di sản văn hóa, tiêu biểu là Cố đô
Huế, lăng tẩm và miếu mạo của vua chúa
triều Nguyễn.
Với mục tiêu sẽ đón trên một triệu
khách nước ngoài đến tham quan vào năm 2000,
hiện nay tỉnh Thừa Thiên đang cố gắng
phát triển các dịch vụ và giao thông vận
tải đến các vùng sâu vùng xa trong tỉnh. Ðồng
thời để giúp du khách dễ dàng đi đến
tham quan những thắng cảnh tự nhiên và các vùng
di tích lịch sử, tỉnh cũng đang mở
rộng thêm nữa các loại hình du lịch nhằm
đáp ứng mọi thị hiếu của du khách,
kể cả du lịch kinh tế và các loại hình du
lịch thể thao ngoài trời.
|