CẬP NHẬT CÁCH CHỮA TRỊ BỆNH RUNG TÂM NHĨ

BS. Trịnh Cường, MD

DS Trịnh N. Đàm Giang, R.Ph.

 

Tóm lược

 

Mục đích:  Xét lại cách chữa trị hiện đại để kiểm soát nhịp và tốc độ tim trong bệnh rung tâm nhĩ (AF) và bàn luận những cách điều trị trong tương lai.

 

Dịch tễ học: Trên hai triệu người sống tại Hoa Kỳ mắc bệnh rung tâm nhĩ và tỷ lệ lưu hành cao tới 10% cho những người 80 tuổi trở lên. Nguy cơ bị đột quỵ tăng tới 5 lần cho những bệnh nhân này.

 

Tóm tắt: Bệnh rung tâm nhĩ rất thông thường, đặc biệt đối với người lớn tuổi, và thường đi đôi với nhiều bệnh và có tử vong cao. Điểm lưu ư là nguy cơ bị đột quỵ và suy tim rất cao cho những người bị rung tâm nhĩ. Mục đích chữa trị là làm giảm nguy cơ bị đột quỵ và tái diễn rung tâm nhĩ và suy tim. Ngoài cách ngăn chận đông máu với thuốc aspirin và warfarin, những phương cách để kiểm soát tốc độ gồm có thuốc ngăn chận kênh calcium, thuốc ngăn chận beta, digoxin, và cắt bỏ nút giữa tâm nhĩ và tâm thất (atrio-ventricular node ablation). Giữ nhịp độ sinus để làm giảm triệu chứng, giảm  nguy cơ bị đột quỵ, và giảm sự tiến triển tái tạo bất lợi của tâm nhĩ là những phương sách cần được thực hiện.

Những loại bằng chứng hiện có gồm những chỉ dẫn được công nhận trên toàn quốc, những cuộc nghiên cứu ngẫu nhiên được kiểm soát, những phân tích hồi cứu, những cứu xét có phương pháp.

Mức độ bằng chứng hiện được đáng giá là tốt (là những thuốc dùng để kiểm soát tốc độ và nhịp được kể tới trong bảng chỉ dẫn), hay khá (là những nghiên cứu xét tác dụng của thuốc statins, thuốc áp chế diếu-tố biến đổi angiotensin, thuốc ngăn chận thụ thể angiotensin trong bệnh rung tâm nhĩ.

 

Kết luận: Những bệnh nhân mắc bệnh rung tâm nhĩ có nhiều cách chữa trị để kiểm soát tốc độ hay nhịp tim trong AF. Các nhà nghiên cứu đă phát giác được những cơ chế mới trong bệnh rung tâm nhĩ và các nghiên cứu sẽ đưa tới những cách chữa trị phối hợp hữu hiệu hơn và an toàn hơn để ngừa bệnh phát khởi hay tái diễn.

 

Rung tâm nhĩ

 

Bệnh rung tâm nhĩ là một bệnh thông thường và nhiều thử thách cho y-sĩ nội khoa và chuyên khoa về tim. Dù rằng đă có những chỉ dẫn tổng quát căn cứ trên bằng chứng để giúp y-sĩ định bệnh và chữa trị bệnh tim sai nhịp, cách điều trị có thể phức tạp. Một phần v́ triệu chứng không rơ rệt, sự thay đổi của cách bệnh xuất phát, và tiềm thế đi đôi với những bệnh khác. Ngoài ra sự đáp ứng với những thuốc trị sai nhịp hay thay đổi và không  dự đoán  được về sự công hiệu, độ dung nạp,và mức an toàn.

 

Định nghĩa

Bệnh rung tâm nhĩ là  một loại bệnh sai nhịp tim rất thông thường xảy ra trên tâm thất (supraventricular arrhytmias) gồm có hoạt động điện truyền qua tâm nhĩ và làm cho tâm nhĩ có thể rung từ 300 đến 600 lần trong một phút. Mức hoạt động điện vô tổ chức đó được thấy trên điện tâm đồ như những luồng sóng lớn nhỏ không đều xuất hiện rất mau thay v́ luồng sóng P.

 

Bệnh rung tâm nhĩ được phân loại là  rung tâm nhĩ kịch phát (paroxysmal AF) thường tự động chấm dứt; rung tâm nhĩ dai dẳng (persistent AF) là bệnh tiếp diễn đ̣i hỏi phải dùng điện hay dược-phẩm để chấm dứt và rung tâm nhĩ trường trực (permanent AF). Những đoạn tự chấm dút thường kéo dài dưới bẩy ngày và có khi dưới hai mươi bốn  giờ. Cả hai loại kích phát và bền bỉ thường hay tái phát. Không biết những loại trên có được dùng bởi y-sĩ đo điện tim hay không, đa số bác- sĩ  nhận  thấy  rằng bệnh nhân thường ở vào hai loại, ví dụ kịch phát và dai dẳng. Ví dụ bệnh tâm nhĩ gây nên trực tiếp bởi giải phẫu, viêm cơ tim hay bệnh cường giáp thường được gọi là rung tâm nhĩ phụ thuộc (secondary AF), chữ rung tâm nhĩ đơn độc (lone AF ) được dùng để diễn tả một bệnh nhân không có bệnh tim về cơ cấu và bệnh rung tâm nhĩ không có bệnh van (non valvular AF).

 

Dịch tễ học

Trên hơn  hai triệu người mắc bệnh rung tâm nhĩ tại Hoa Kỳ. Sự lưu hành tổng quát khoảng 0.4% gia tăng rất nhanh với tuổi, khoảng 2 % ở tuổi  60- 69, tới  4. 6% ở tuổi 70 –79 và tới  9%- 10% từ tuổi 80 trở lên. Khoảng  1 trên 4 người trên tuổi 40 sẽ  mắc bệnh rung tâm nhĩ. V́ dân số ở Hoa Kỳ già đi vào những thập niên sắp tới và những người lớn tuổi đó sống sót sau khi bị tim kích và suy tim, sự lưu hành của bệnh sẽ có thể tăng lên  trên  5 triệu.

Sự gia tăng lưu hành bệnh đó thật đáng ngại v́ tỷ lệ bệnh và tử vong rất đáng kể và phí tổn điều trị do bệnh rung tâm nhĩ gây nên cũng đáng kể. Đặc biệt và không kể tới việc dùng thuốc kháng đông máu để ngừa bệnh, một trên sáu bệnh bị đột quỵ trên đất Mỹ đều bị rung tâm nhĩ. Nói chung bệnh rung tâm nhĩ gia tăng nguy cơ đột quỵ tới  5 lần. Nói về tỷ lệ tử vong do bệnh rung tâm nhĩ là 1.5 và 1.9 cho đàn ông và đàn bà và bệnh rung tâm nhĩ là một cách để dự đoán mạnh  về tử vong cho bệnh cơ tim ph́ đại (hypertrophic cardiomyopathy).

 

Những biểu hiệu và bệnh thường đi đôi với bệnh rung tâm nhĩ

Đa số bệnh nhân bị rung tâm nhĩ không có triệu chứng và hoàn toàn không biết nhịp tim bất thường. Những dữ kiện mới thu thập được từ việc dùng những máy điều nhịp (pacemakers) và những máy khử rung gắn (implantable defibrillators) cho thấy rằng một tỷ số cao bệnh nhân bị rung tâm nhĩ kịch phát và ngay cả những bệnh nhân không có tiền sử bệnh rung tâm nhĩ thường bị những đoạn rung tim không gây triệu chứng, và có những bệnh nhân bị đột quy thường mắc phải rung tâm nhĩ không có triệu chứng.

Khi triệu chứng xảy ra, thường là cảm giác tim đập nhanh và không đều, và những chỉ dẫn  huyết động lực bất thường như tức ngực, khó thở, mệt mỏi hay chóng mặt. Ngay cả những bệnh nhân có ít triệu chứng, bệnh rung tâm nhĩ kéo dài cũng có thể đưa tới suy tim hay bệnh cơ tim.

Cuộc nghiên cứu Framingham từ năm 1970 cho tới  2000 cho thấy rằng những bệnh nhân mắc những loại bệnh tim khác nhau thường có tỷ lệ lưu hành  bệnh rung tâm nhĩ khác nhau. Những tỷ số AF đó gồm có ví dụ  10% tới  40% trong bệnh suy tim, 20% trong bệnh tim dạng thấp (rheumatic heart disease), 1%-2% trong bệnh động mach vành tim,  5%-10 % trong bệnh áp huyết cao, 2%-3% trong bệnh cường  giáp và  5%-40% sau khi  giải phẫu nối tắt  động mạch vành tim. Ngược lại những bệnh nhân bị bệnh rung tâm nhĩ thường có tỷ lệ cao bệnh áp huyết cao (56 %), bệnh động mạch vành tim (19%), bệnh van tim (18%), bệnh cường giáp (11 %) rối loạn cơ năng nút sinus (11%), bệnh tim ph́ đạ i (10%) và nghiền rượu (8%).

Bệnh rung tâm nhĩ trong bệnh suy tim cần được nghiên cứu riêng rẽ. Nhiều cuộc nghiên cứu chứng tỏ rằng sự  lưu hành bệnh rung tâm nhĩ tăng lên một cách song song với tăng phân loại suy tim của Hiệp Hội Tim New York từ dưới 5% cho loại I cho tới  25%-50 % cho loại III-IV. Sự lưu hành bệnh đặc biệt cao cho bệnh nhân lớn tuổi và đàn bà mắc bệnh suy tim trong khi đó nó thấp cho bệnh nhân Mỹ gốc Phi Châu.

Sự  liên hệ mật thiết giữa bệnh rung tâm nhĩ và suy tim có thể phản ảnh một  liên hệ

bệnh lư cho những bệnh nhân mà áp xuất tăng trong tâm nhĩ đưa tới răn tâm nhĩ và sơ cứng về sau; kết quả là thay đổi về tính cách điện sinh lư và rung tâm nhĩ. Trái lại suy tim do bệnh rung tâm nhĩ thường gây nên v́ tốc độ tâm thất không kiểm soát được. Dù bất cứ cơ chế nào liên hệ rung tâm nhĩ và suy tim, rơ ràng những bệnh nhân bị suy tim hay bệnh nhân cần  thẩm tách máu có mức độ tử vong cao. Dù rằng ảnh hưởng của sự  tái tạo nhịp tim b́nh thường trong bệnh suy tim hay suy thận kinh niên không được rơ, những thuốc để trị suy tim như  thuốc áp chế men chuyển angiotensin (ACEIs) và áp chế thụ thể angiotensin (ARBs) có thể làm giảm tỷ số tử  vong một phần v́ tái tạo nhịp tim b́nh thường.

 

Những yếu-tố rủi ro và mục tiêu chữa trị

Những nghiên cứu  gần đây tiếp tục làm sáng tỏ sự liên hệ giữa  bệnh rung tâm nhĩ với những bệnh khác hay yếu-tố rủi ro. Căn cứ  trên sự hiển nhiên và những cách chữa trị có liên hệ, sự viêm cơ quan là phần đang được cứu xét một cách tích cực nhất. Cuộc nghiên cứu về Sức Khỏe Tim Mạch (Cardiovascular Health Study) đo lường sự liên hệ giữa bệnh rung tâm nhĩ và C reactive protein (CRP), một chất đánh dấu trong máu của người bị viêm trong số trên 5806 bệnh nhân dược theo dơi trong bẩy năm. Những nghiên cứu gia nhận thấy rằng mức độ CRP cao thường đi đôi với sự hiện diện của bệnh rung tâm nhĩ; ví dụ sự lưu hành của bệnh rung tâm nhĩ là 3.7% cho những bệnh nhân với CRP thấp nhất (<0.97  mg/L) so với 7.4% cho những bệnh nhân có CRP cao nhất (>3.41mg/L). Họ cũng nhận thấy rằng CRP tiên đoán được sự phát hiện bệnh rung tâm nhĩ cũng như tỷ lệ những người sống sót không mắc bệnh rung tâm nhĩ.

Nhiều cuộc nghiên cứu khác cũng xác định rằng mức độ CRP cao cũng tiên đoán được sự  phát hiện bệnh rung tâm nhĩ. Kết quả cho thấy mức độ CRP cao hơn cho những bệnh nhân mắc bệnh rung tâm nhĩ bền bỉ so với những bệnh nhân bị rung tâm nhĩ kịch phát. CPR cũng cao hơn ở những bệnh nhân mắc bệnh có triệu chứng so với những bệnh nhân không có triệu chứng, và mức độ CRP cao tiên đoán sự thất bại khi dùng điện để tái tạo  nhịp tim cũng  như  sự giảm khả năng duy tŕ nhịp tim b́nh thường sau khi tái tạo nhịp tim bằng điện. Dù rằng nguyên nhân của mức độ CRP cao trong bệnh rung tâm nhĩ  không được rơ rệt, cơ chế có thể do  viêm trong sự tái tạo tâm nhĩ. Những liên can của sự nghiên cứu này đang được theo dơi trong việc sử dụng  các chất kháng viêm như aspirin và statins để chữa trị bệnh rung tâm nhĩ

Nhiều cuộc nghiên cứu đă cho thấy rơ yếu-tố rủi ro bệnh rung tâm nhĩ cho đàn bà. Mặc dù sự lưu hành bệnh rung tâm nhĩ cao hơn cho đàn ông, nguy cơ bị tử vong do bệnh rung tâm nhĩ  cao hơn cho đàn bà. Nói chung đàn bà mắc bệnh suy tim có rủi ro mắc bệnh rung tâm nhĩ gấp đôi và đàn bà mắc bệnh rung tâm nhĩ thường hay có triệu chứng và phẩm chất cuộc sống kém và nguy cơ có nhịp tâm thất cao, nguy cơ bị đột quỵ cao và   nguy cơ nhịp tim đập không đều (khi đang  dùng thuốc làm đều nhịp tim). Một cuộc nghiên cứu căn cứ theo giống trong việc điều trị rung tâm nhĩ bền bỉ cho thấy rằng 192 đàn bà đáp ứng khá  về kiểm soát  tốc độ hơn là kiểm soát nhịp. Sự kiện này trái ngược với kết quả cho 330 đàn ông có đáp ứng tương tự đối với  kiểm soát tốc độ và nhịp. Chỉ có  35% đàn bà được phân phối một cách ngẫu nhiên để kiểm soát nhịp có nhịp b́nh thường vào lúc cuộc nghiên cúu chấm dứt và tỷ lệ những phản ứng bất lợi do những thuốc  trị sai nhịp tim (gồm có hồi hộp và sự cần thiết dùng máy điều nhịp v́ tim đập chậm)  cao hơn cho đàn bà so với đàn ông. Những bệnh nhân đàn bà đó cũng có tỷ lệ suy tim và đột quỵ cao.

Một cuộc nghiên cứu rộng răi ATRIA (Anticoagulation and Risk factors in AF Trial) cũng cho thấy rằng đàn bà có rủi ro tương đối bị  đột  quỵ cao; nguy cơ bị đột quỵ cho đàn bà cao hơn so với đàn ông (3.5% so với 1.8%/ năm).

Nhiều cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy những yếu-tố rủi ro và sự  liên hệ với bệnh rung tâm nhĩ. Một cuộc nghiên cứu khác có 2000 người tham dự cho thấy sự rủi ro mắc bệnh rung tâm nhĩ sau 4 năm gia tăng tùy theo số yếu-tố nguy cơ (gồm có cao áp huyết, bệnh tiểu đường, bệnh động mạch vành tim và bệnh rung tâm nhĩ của cha mẹ) đă được thấy đối với cha mẹ. Bệnh ngưng thở khi đang ngủ và tỷ lệ khối lượng thân thể cao cũng gia tăng nguy cơ mắc bệnh run tâm nhĩ.

 

Dược phẩm trị liệu bệnh rung tâm nhĩ

 

Đặc tính người bệnh                                                      Thuốc sử dụng                             Loại

Tuổi < 60, không mắc bệnh tim                       Aspirin 32 5mg hay không dùng thuốc             I

Tuối < 60, có bệnh tim, không có yếu-tố         Aspirin325mg/ngày                                         I 

Tuổi = hay > 60, không có yếu-tố rủi ro         Aspirin 325mg/ngày                                         I  

Tuổi 60 hay > 60, có bệnh tiểu đường            Thuốc kháng đông máu (INR2 - 3)                  I  

hay bệnh động mạch vành tim                         Thêm aspirin  81mg- 162mg/ngày                   IIb   

Tuổi = hay >75 , đặc biệt đàn bà                    Thuốc kháng đông máu (INR= 2)                    I

Suy tim                                                          Thuốc kháng đông máu (INR= 2-3  )               I

Tỷ lệ tống xuất tâm thất trái< 0. 35                 Thuốc kháng đông máu ( INR= 2 -3)               I   

Cường giáp                                                   Thuốc kháng đông máu ( INR=2 - 3)               I

Áp huyết cao                                                 Thuốc kháng đông máu ( INR= 2 - 3 )             I

Bệnh tim dạng thấp (Nghẹt van hai lá)            Thuốc kháng đông máu ( INR=2 .5 – 3.5)        I

Van tim nhân tạo                                           Thuốc kháng đông máu (INR= 2 .5- 3.5 )         I

Bệnh nghẹt mạch do khối huyết                     Thuốc kháng đông máu (INR=2 5.- 3.5 )          I

Huyết khối trong tâm nhĩ                                Thuốc kháng  đông máu (INR= 2. 5 - 3.5)       I 

 

       

 

 

DƯỢC PHẨM TRỊ LIỆU BỆNH RUNG TÂM NHĨ

Sau khi đă định bệnh một cách chắc chắn bằng bệnh sử, khám sức khỏe toàn diện, và đo điện tâm đồ (đôi khi cần phải đo Holter để phát hiện những kịch phát), những vấn đề chữa trị thường là đối phó với  sai nhịp, cấp tính cũng như kinh niên, đề pḥng bệnh huyết khối tắc mạch và đột quỵ. Ngoài trị liệu bằng cách dùng thuốc kháng đông máu  và giảm đột quỵ, mục tiêu của chữa trị là:

1 - gia tăng thời gian tới khi tái phát;

2- giảm số tái phát;.

3- giảm thời gian tái phát;

4- giảm độ nặng của cơn tái phát ;

5 . giảm những nguy cơ của trị liệu.

 

Trị liệu bằng thuốc kháng đông máu

Trong nhiều bệnh nhân với bệnh rung tâm nhĩ tự kết thúc và không có triệu chứng hay kịch phát, thuốc kháng đông máu như aspirin và warfarin là thuốc duy nhất cần sử dụng. Mặc dầu nhiều cuộc hậu phân tích và những chỉ dẫn chứng tỏ rằng việc  dùng thuốc kháng đông máu rất công hiệu để pḥng ngừa cơn đột quỵ (giảm rủi ro tới 61%;

95% confidence interval, 47%-71% so với thuốc vờ), sự sử dụng  warfarin c̣n  quá ít và liều lượng dùng warfarin chưa đúng mức trên phương diện lâm sàng. Trong nhiều trường hợp, bệnh nhân mắc bệnh rung tâm nhĩ  riêng rẽ (lone AF) được khuyên nên uống aspirin. Sự lựa chọn thuốc kháng đông máu cần phải căn cứ trên những yếu-tố  rủi ro bị đột quỵ và xuất huyết và nhữg lợi ích cũng như nguy cơ của một bệnh nhân đặc biệt. Vào những năm gần đây, những nguy cơ bị đột quỵ tùy theo tuổi và những bệnh khác đă được dùng để hướng dẫn việc chữa trị; ví dụ những người có nguy cơ thấp

(0.5%/năm) được uống aspirin bọc 325 mg /ngày, trong khi những người có rủi ro trung b́nh hay cao sẽ được dùng warfarin (mục tiêu INR là 2.0- 3.0).

 

Khử rung ( Cardioversion)

Đối với một vài bệnh nhân bị rung tâm nhĩ, sự tái tạo mau chóng nhịp tim b́nh thường bằng cách dùng điện khử rung hay thuốc chống sai nhịp rất cần thiết. Đặc biệt sử dụng điện khử rung tức thời cần được dùng trong trường hợp rung tâm nhĩ kịch phát với sự đáp ứng mau của tâm thất và có bằng chứng bị tim kích cấp tính trên điện tâm đồ hay bị áp huyết xuống thấp gây triệu chứng, đau ngực thắt hay suy tim mà dược phẩm trị liệu  không công hiệu.

 Điện khử rung cũng cần được dùng để pḥng ngừa rung tâm thất (ventricular fibrillation) cho những bệnh nhân bị hội-chứng Wolf-Parkinson White hay là để chữa sự mất quân b́nh huyết động lực. Nói chung  thuốc để khử rung cũng c̣n được dùng để giảm rủi ro tái tạo  và thành thẹo trong tâm nhĩ sẽ đưa tới nhiều cơn tái phát.

Dùng dược-phẩm để khử rung công hiệu nhất nếu được dùng trong ṿng bẩy ngày sau khi bệnh khởi đầu. Những thuốc nên được dùng hàng đầu khi tỷ lệ tống xuất máu từ  tâm thất b́nh thường gồm có flecainide, ibutilide và propafenone. Đối với những bệnh nhân  mắc rung tâm nhĩ dai dẳng, tỷ lệ thành công là từ 65 %-90% với điện khử rung nhưng tỷ lệ tái phát rất cao nếu không dùng dược phẩm trị liệu. V́ rủi ro có thể bị  “torsades de pointes”, thuốc dùng để khử rung cần phải được theo dơi trong bệnh viện. Ngoài ra c̣n phải phân biệt những bệnh nhân bị bệnh tim cơ cấu với tỷ lệ tống xuất máu từ tâm thất thấp, chứng ph́ tâm thất trái hay bị bệnh động mạch vành tim.

 

Kiểm soát tốc độ và nhịp tim để chữa trị lâu dài

Chữa trị lâu dài chứng tim sai nhịp gồm sự lựa chọn  giữa kiểm soát tốc-độ hay nhịp tim. Kiểm soát  tốc độ tâm thất đôi khi cần thiết để làm giảm triệu chứng và bệnh cơ tim do tim đâp quá mau.

Những lựa chọn chính để kiểm soát tốc độ là thuốc ngăn kênh calcium, thuốc kháng beta, digoxin,  và cắt bỏ nút giữa tâm nhĩ và tâm thất (AV node ablation) đ̣i hỏi phải  gắn  máy điều nhịp.  Chữa trị điều nhịp bằng cách giảm tốc độ (negative chronotropic therapy) có mục tiêu chính là giảm sự truyền dẫn qua nút  tâm nhĩ tâm thất và thực hiện  một tốc độ tâm thất giữa 60–80 trong 1 phút khi nghỉ ngơi và giữa 90–115 /phút khi tập luyện hay thể thao trung b́nh. Một hậu phân tích gồm 54 cuộc nghiên cứu cho thấy rằng những thuốc ngăn  kênh calcium không phải dihydropyridines (verapamil, diltiazem) và thuốc kháng beta như atenolol và metoprolol kiểm soát được tốc độ tâm thất khi nghỉ ngơi và sau khi tập luyện và tốt hơn digoxin cho những bệnh nhân không có phản chủ trị với những thuốc đó. Đối với những bệnh nhân bị suy tim, và có tỷ lệ  tống xuất máu thấp, thuốc ngăn kệnh cacium không nên dùng v́ có thể làm suy tim nặng thêm. Ta phải thận trọng khi  tính liều lượng dược phẩm để kiểm soát tốc độ. Một vài bệnh nhân có thể bị tim đập quá chậm với triệu chứng.

Nguyên nhân bệnh rung tâm nhĩ có thể ảnh hưởng tới sự lựa chọn cách trị liệu. Ví dụ trong trường hợp hiếm có tim đập chậm v́ thần kinh phế vị gây nên rung tâm nhĩ, nhịp độ tâm thất không tăng quá 120 /phút cùng với những lúc ngưng và chậm lại của nhịp sinus, khi đang ăn, ngủ. Đối với những   bệnh nhân cảm thấy hồi hộp vào buổi tối, thuốc như  kháng beta và digoxin có thể làm bệnh rung tâm nhĩ nặng thêm v́ làm chậm nhịp tâm thất. Đôi khi cần xác định bằng đo Holter trước khi bắt đầu dùng thuốc, và có thể phải dùng máy điều tâm nhĩ. Trái lại, trường hợp thông thường hơn khi bệnh rung tâm nhĩ được nhận thấy vào buổi sáng và liên hệ tới sự cố gắng, áp trạng (stress), giải phẫu tim, cường giáp, hoặc bệnh ph́ cơ tim, th́ thuốc kháng beta và thuốc kháng nút tâm nhĩ - tâm thất là thuốc nên dùng.

Nếu sự kiểm soát tốc độ không hữu hiệu để ngừa triệu chứng và nếu  cắt bỏ nút giữa tâm thất và tâm nhĩ và gắn máy điều tâm nhĩ không thể thực hiện được v́ một lư do nào đó, kiểm soát nhịp có thể được dùng với thuốc kháng sai nhịp hay phươngpháp khác như  điều nhịp tâm thất ở nhiều vị trí (multi site atrial pacing) hay giải phẫu. Trong nhiều trường hợp, chỉ tái tạo sự  đồng bộ tâm nhĩ - tâm thất cũng làm giảm triệu chứng. Thực hiện được sự kiểm soát nhịp cũng có thể giới hạn sự tái tạo tâm nhĩ và t́nh trạng biến đổi điện- sinh lư có thể gây nên  rung tâm nhĩ nhiều hơn và cả nguy cơ bị đột quỵ mà rung tâm nhĩ thường đưa tới. V́ vậy dù rằng các loại thuốc để kiểm soát nhịp chỉ công hiệu trong 60% bệnh nhân, chúng cũng vẫn c̣n chỗ đứng trong sự trị liệu.

 

Kiểm  soát  tốc độ bằng thuốc uống

 Những thuốc trị rung tâm nhĩ  kiểm soát tốc độ gồm: Digoxin, Diltiazem, Metoprolol, Propanolol, Verapamil, Amiodarone, Sotalol.

 

So sánh kiểm soát tốc độ và kiểm soát nhịp.

Nhiều cuộc nghiên cứu gần đây đă tường tŕnh sự công hiệu của sự kiểm soát nhịp và kiểm soát tốc độ để làm giảm triệu chứng và mức độ tử vong trong bệnh rung tâm nhĩ. Cuộc nghiên cứu rộng lớn nhất là Atrial Fibrillation Follow-up Investigation of Rhythm Management (AFFIRM), gồm có 4060 bệnh nhân lớn tuổi (tuổi trung b́nh: 69.7 năm) mắc bệnh rung tâm nhĩ hơn 6 giờ trong 6 tháng trước và có rủi ro cao bị đột quy hay tử vong (70% bi áp huyết cao, 65% bị ph́ tâm nhĩ trái, 38% bị bệnh động mạch vành tim, và 24% bị suy tim). Những bệnh nhân trên được phân phối kiểm soát tốc độ hay nhịp và theo dơi trong 3.5 năm.

 

Nói tóm lại, AFFIRM cho thấy rằng cả hai cách chữa trị không cho thấy có lợi cái này với cái kia. Những kết quả này tương tự  như kết quả của ba cuộc nghiên cứu nhỏ hơn: Rate Control vs Electrical Cardioversion for Persistent Atrial Fibrillation (RACE), Strategies of Treatment of Atrial Fibrillation (STAF) và Pharmacological Intervention in Atrial Fibrillation(PIAF).

Một cuộc hậu phân tích gần đây về vấn đề tương tự cũng kết luận rằng sự kiểm soát tốc độ tâm thất phối hợp với kháng đông máu  cũng tương đương với kiểm soát nhịp trong những bệnh nhân thích hợp. Mặc dầu những nghiên cứu trên không chứng tỏ lợi ích đặc biệt của sự kiểm soát nhịp đối với bệnh nhân có rủi ro bị tái phát bệnh cao, điều nên ghi nhận là sự kiểm soát nhịp đó không được hoàn hảo, với một phần lớn bệnh nhân mà nhịp tim không được b́nh thường.

 

   Dù rằng AFFIRM c̣n có nhiều yếu điểm, nó cũng chứng tỏ một cách vững chắc về sự  điều trị thực tiễn và nhắc nhở các y-sĩ  tầm quan trọng của việc sử dụng warfarin cho bệnh nhân dù rằng họ duy tŕ được nhịp tim b́nh thường trong nhiều tuần hay nhiều tháng. Trong AFFIRM, những bệnh nhân dùng thuốc kháng đông máu, nhóm được theo dơi nhịp thường có tỷ lệ đột quỵ v́ thiếu tiếp máu thấp hơn nhóm kiểm soát. Trong số bệnh nhân không dùng warfarin, nguy cơ bị đột quỵ trong nhóm mà nhịp tim được kiểm soát hai lần cao hơn so với nhóm mà tốc độ được kiểm soát.

Việc sử dụng warfarin cần  được kéo dài  suốt đời cho những bệnh nhân có rủi ro mắc bệnh rung tâm nhĩ cao.

 

 Phương pháp trị liệu mới sử dụng thuốc ACEIs, ARBs và statins.

Hệ thống renin-angiotensin-aldosterone đóng một vai tṛ trong sự tái tạo cơ cấu và điện tính của tâm nhĩ trong bệnh rung tâm nhĩ. Nhiều nghiên cứu đă thử thách giả thuyết đó bằng cách đo lường ảnh hưởng của thuốc ACEIs và ARBs trên  độ gặp bệnh rung tâm nhĩ  và kết quả của nó.Một trong cuộc nghiên cứu đó là sự phân tích tái hồi của 374 bệnh nhân trong SOLVD (Studies of Left Ventricular Dysfunction) đă bi suy tim nhưng không bị rung tâm nhĩ hay cuồng động tâm nhĩ (atrial flutter). Khi hồ sơ bệnh lư và điện tâm đồ của những bệnh nhân đó được xét lại, 10 (5.4%) bệnh nhân trong nhóm dùng enalapril bị rung tâm nhĩ trong thời gian theo dơi (trung b́nh 2.9 năm) so với 45 (24%) trong nhóm dùng thuốc vờ. Tác dụng kháng rung tâm nhĩ của ACEI mạnh nhất  cho những bệnh nhân không mắc bệnh suy tim, cho ta thấy sự lợi ích khi dùng ACEI  sớm để ngừa rung tâm nhĩ.

Trong một cuộc nghiên cứu khác dùng một ARB để xét ảnh hưởng của thuốc trên sự duy tŕ nhịp tim b́nh thường sau khi dùng điện khử rung bệnh rung tâm nhĩ dai dẳng (>7 ngày) Trong số 75 bệnh nhân dùng amiodarone, 85% bị rung tâm nhĩ tái phát trong hai tháng sau; trong 79 bệnh nhân dùng amiodarone và irbesartan, mức độ tái phát chỉ có 63% (P=.008). Theo dơi một thời gian dài hơn cũng cho thấy rằng những bệnh nhân chữa trị bằng ARB sẽ ít mắc bệnh rung tâm nhĩ hơn (79.5% so với 55.9%,  P=.007). Gần đây, một cuộc nghiên cứu dùng amiodarone phối hợp với một  ARB hay một CCB cho 250 bệnh nhân bị áp huyết cao và bệnh sử rung tâm nhĩ kịch phát cho thấy sau một năm, rung tâm nhĩ  hiện diện trên điện tâm đồ trong 13% cho nhóm dùng ARB so với 39% cho nhóm dùng CCB, sự  giảm áp huyết tương tự trong hai nhóm.

 

Tác dụng của ACEIs và ARBs trên rung tâm nhĩ mới hay tái hồi có lợi ích trên phương diện lâm sàng về tỷ lệ bệnh và tử vong hay không?

Cuộc nghiên cứu LIFE (Losartan Intervention for End point Reduction in Hypertension). Trước hết, trong số 8851 bệnh nhân bị áp huyết cao nhưng không có bệnh rung tâm nhĩ trên điện tâm đồ, sự xảy ra bệnh rung tâm nhĩ  mới được theo dơi trong 4.8 năm Bệnh rung tâm nhĩ được nhận thấy cho 150 bệnh nhân dùng Losartan so với 221 bệnh nhân dùng thuốc kháng beta (P< .001). Những bệnh nhân mới mắc bệnh rung tâm nhĩ có  tỷ lệ  2, 3, và 5 lần nhiều hơn những tai biến tim mạch, đột quỵ và nhập viện v́ suy tim. V́ vậy dù rằng những nghiên cứu trước đây cho thấy rằng ACE-Is và ARBs đều làm giảm tỷ lệ đột quy, cuộc nghiên cứu LIFE cho  thấy lần đầu tiên là bệnh rung tâm nhĩ mới và đột quy tiếp theo đă được giảm một cách đáng kể nhờ thuốc ARB so với thuốc  kháng-Beta, dù rằng áp huyết được giảm một cách tương tự.

Trong một nhóm nhỏ bệnh nhân  thuộc LIFE ra nhập cuộc nghiên cứu với bệnh rung tâm nhĩ và ph́ tâm thất trái, 36 người dùng losartan và 67 người dùng thuốc kháng beta có một điểm dứt (chết, đột quy, nhồi máu cơ tim) (tỷ lệ may rủi 0.58, P=.009.) Chữa trị dùng losartan hữu hiệu nhất để giảm thiểu tử vong v́ tim mạch và đột quỵ. Những kết quả của LIFE không tùy thuộc vào sự giảm áp huyết và cho thấy rằng ARB có thể giảm rủi ro bị bệnh rung tâm nhĩ mới và tái hồi và sự lưu hành của rung tâm nhĩ không được kiểm soát ảnh hưởng tới tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cho những bệnh nhân bị áp huyết cao và ph́ tâm thất trái.

Như đă bàn tới ở trên, mức độ CRP đă được biết là cao cho bệnh nhân mắc bệnh rung tâm nhĩ. Thuốc statins có tính cách kháng viêm, làm giảm mức độ CRP và tỷ lệ đột quỵ. Mặc dầu c̣n qua sớm để dùng  thử nghiệm CRP để t́m mức độ rủi ro đột quỵ và để sử dụng statin, nhiều nghiên cứu gia đă t́m khả năng của statins để thay đổi cường độ xảy cũng như ảnh hưởng trên bệnh rung tâm nhĩ.Trong cuộc nghiên cứu đầu tiên sự liên hệ đó đă được phân tích cho 449 bệnh nhân bị bệnh động mạch vành tim quân b́nh. Sau 5 năm, 52 bệnh nhân (12%) bi bệnh rung tâm nhĩ. Trong số 59% bệnh nhân dùng statins trong 5 năm, rủi ro mắc bệnh đă giảm một cách đáng kể. Sự bảo vệ chống rung tâm nhĩ vẫn c̣n sau khi sửa đổi tuổi tác, áp huyết cao, mức độ cholesterol và giống. Nhiều cuộc nghiên cứu về CRP xác nhận  rằng làm giảm CRP với thuốc statins đưa tới giảm thiểu các loại rung tâm nhĩ tiên khởi hay tùy thuộc.

 

Kết luận

Các cuộc nghiên cứu cho thấy nhiều hứa hẹn rằng những cách điều trị mới sẽ làm giảm sự lưu hành và ảnh hưởng của bệnh rung tâm nhĩ trong những năm sắp tới. Phương pháp nghiên cứu nhắm vào hệ thống renin- angiotensin-aldosterone cùng viêm tính đang tiếp diễn,  khi hiểu rơ được cơ chế của chúng, các y-sĩ sẽ có lư do dựa vào bằng chứng mới để dùng trị liệu phối hợp sớm cho một số bệnh nhân có rủi ro mắc bệnh rung tâm nhĩ.

 

BS Trịnh Cường

DS Trịnh N. Đàm Giang

(chuyển dịch)

29 July 2006

 

 

 

 

 

C- REACTIVE PROTEIN: Một dấu hiệu để ước lượng

và quản trị nguy cơ bệnh tim

 

Trịnh Cường, M.D. & Giang Nguyễn Trịnh, R.Ph., D.Ph.

 

Viêm đóng một vai tṛ quan trọng trong bệnh động mạch vành tim v́ những biến đổi do viêm phát triển trong vách động mạch. Nhận xét trên đă làm tăng sự chú ư để khám phá sự liên hệ giữa bệnh động mạch vành tim và những dấu hiệu cuả viêm, gồm có C-Reactive protein, fibrinogen, chất amyloid A trong huyết thanh và nhiều dấu hiệu mới.

 

CRP là một dấu hiệu đă được chứng tỏ trong nhiều cuộc nghiên cứu là liên hệ trực tiếp với nguy cơ của một bệnh nhân bị mắc phải một tai biến về động mạch vành tim. Những dữ kiện này rơ rệt đến nỗi Hội Bệnh Tim Hoa Kỳ (American Heart Association-AHA-) và Trung Tâm kiểm soát Bệnh(CDC) đă chấp nhận dùng mực CRP trong máu để ước lương nguy cơ trong một số bệnh nhân chọn lọc.

Tuy nhiên c̣n nhiều câu hỏi về CRP, vai tṛ của nó trong bệnh động mạch vành tim, cùng giá trị lâm sàng để phát hiện những bệnh nhân có nguy cơ tai biến tim mạch. Ví dụ, CRP có trực tiếp gây nên bệnh sơ vữa động mạch hay nó chỉ phản ảnh sự hao tổn v́ bệnh mà thôi? Ta có nên đo xem CRP có gia tăng cho tất cả các bệnh nhân? Mức độ CRP có chính xác hơn mức độ lipid để phát hiện những bệnh nhân có thể bị tim kích hay không? Ta có nên  đối phó với những bệnh nhân có mức độ CRP cao mà không có tiền sử bệnh tim, khác với những bệnh nhân có mức độ CRP b́nh thường không?

 

C̣n một khía cạnh cần phải nghiên cứu là sự liên hệ giữa CRP và những loại thuốc dùng để chữa trị bệnh động mạch vành tim. Ví dụ thuốc statins cung cấp nhiều lợi ích lâm sàng khi bệnh nhân có mức độ CRP cao. Ngoài ra statins c̣n làm giảm mức độ CRP một cách độc lập ngoài  tác dụng trên  cholesterol xấu (LDL-C: low density lipoprotein cholesterol). Sự kiện này chứng tỏ rằng statins có đặc tính kháng viêm quan trọng.

 Do đó tác dụng của statins trên mức độ CRP cũng quan trọng như tác dụng trên mức độ LDL-C.

Bài viết sau đây đề cập đến những nghiên cứu cùng bàn luận để chứng minh đặc tính lâm sàng trên.

 

PROVE IT- TIMI 22

 

Cuộc nghiên cứu  ước lượng ảnh hưởng của Pravastatin hay Atorvastatin và điều trị nhiễm trùng- Tan huyết khối trong Nhồi máu cơ tim (The Pravastatin or Atorvastatin Evaluation and Infection therapy- Thrombolysis in Myocardial Infarction ( PROVE IT- TIMI) thử nghiệm 22 lần cho thấy một nguy cơ tử vong về bệnh tim mạch thấp cho những bệnh nhân với mức độ LDL-C dưới 70mg/dl hơn là những bệnh nhân có mức độ LDL-C trên 70mg/dl. Đây là chứng tỏ đầu tiên của mục tiêu mới về LDL-C thấphơn của Chương Tŕnh Giáo Dục Quốc Gia về Cholesterol (National Cholesterol Education Program = NCEP)

Cho mỗi nhóm, người ta cứu xét ảnh hưởng trên nguy cơ mắc bệnh tim mạch của mức độ CRP sau khi điều trị. Nói tóm lại đối với những bệnh nhân có mức độ CRP dưới 2mg/L, tỷ lệ tử vong về tim hay bị tim kích thấp hơn là đối với những bệnh nhân có mức độ CRP trên 2mg/L. Đối với những bệnh nhân có mức độ LDL-C dưới 70mg/dl và mức độ CRP dưới 2mg/L, nguy cơ tử vong hay bị tim kích thường từ 20% đến 25% thấp hơn là đối với những bệnh nhân không đạt được tiêu chuẩn và khoảng 50% thấp hơn là những bệnh nhân có mức độ LDL-C trên 70mg/dl và mức độ CRP trên 2mg/L.

 

Nhóm nghiên cứu c̣n t́m xem việc ǵ xảy ra khi mức độ LDL-C dưới 70mg/dl và mức độ CRP dưới 1mg/L. Kết quả cho thấy rằng những bệnh nhân có mức độ LDL-C < 70mg/dL và CPR < 1mg/L sẽ có nguy cơ mắc bệnh động mạch vành tim 45%  thấp hơn là những bệnh nhân có mức độ LDL-C < 70mg/dl nhưng có mức độ CRP> 2mg/L.

Những sự kiện trên cho thấy rằng CRP cung cấp nhiều hiểu biết hơn là LDL-C trên phương diện bệnh tim. Hơn nữa, làm giảm mức độ CRP dưới 1mg/L- ngay cả khi mức độ LDL-C đă đạt được tiêu chuẩn- sẽ đưa tới một nguy cơ tử vong v́ bệnh tim hay tim kích thấp hơn.

Đó là nghiên cứu đầu tiên  xét tới khái niệm rằng làm giảm mức độ CRP sẽ mang lại lợi ích. Những kết quả trên đă nhắm vào sự quan hệ của chữa trị mục tiêu- trong trường hợp này là dùng thuốc statins- để làm giảm mức độ CRP, cũng như ta thường làm với mức độ LDL-C. Theo những nhận xét trên, chúng ta đang theo rơi mục tiêu  chữa trị đôi, chú trọng tới làm giảm cả mức độ CRP và LDL-C. Dù rằng tất cả các bệnh nhân trong cuộc nghiên cứu đều được dùng statins, lối sử dụng statins một cách tích cực giúp nhiều bệnh nhân đạt tới mức độ CRP và LDL-C mong muốn hơn là những bệnh nhân được dùng liều statins b́nh thường. Do đó y-sĩ cần nên dùng liều statins cao khi có thể được.

 

REVERSAL

 

Gần đây Nissen và cộng sự viên đă báo cáo một cuộc nghiên cứu có những bệnh nhân mà bệnh động mạch vành tim được chứng minh bằng cách sử dụng siêu âm bên trong động mạch (intravascular ultrasound). Bệnh nhân được chữa trị với liều statins b́nh thường hay cao và sau đó được đo siêu âm để xem bệnh sơ vữa động mạch tiến triển tới mức nào.

Những bệnh nhân dùng liều statin cao sẽ có ít tiến triển, họ cũng có mức độ LDL-C và CRP thấp nhất. Kết quả cho thấy rằng những bệnh nhân có mức độ CRP thấp nhất cũng có tiến trển bệnh chậm nhất. Những người có giảm thiểu CRP và LDL-C nhiều nhất cũng có sự tiến triển ít nhất. Hơn nữa, bản tường tŕnh c̣n nhận xét có một sự thoái triển của bệnh sơ vữa động mạch cho những bệnh nhân trên.

Những nhận xét trên chứng tỏ rằng khi giữ mức độ LDL-C và CRP thấp ta pḥng ngừa được sự tiến triển của bệnh sơ vữa động mạch và ngăn chận sự mất quân b́nh và những tai biến  lâm sàng.

 

Hai cuộc nghiên cứu trên đă xác nhận sự liên hệ giữa mức độ CRP cao và sự tiến triển của bệnh tim. Sự kiện này có thể áp dụng được cho những thuốc mới nếu một thuốc mới có thể làm giảm mức độ CRP, nó cũng có thể làm giảm bệnh sơ vữa động mạch và những tai biến tim mạch.

 

SỰ LIÊN HỆ GIỮA CRP VÀ LDL-C

 

Sự liên hệ này rất yếu. Mức độ LDL-C và  CRP không có liên hệ trong bất cứ bệnh nhân nào. Trong một số bệnh nhân, mức độ LDL-C giảm xuống một cách đáng kể trong khi mức độ CRP không thay đổi, đối với những bệnh nhân khác sự kiện trái ngược xảy ra.

Trên phương diện lâm sàng, ta cần phải đo cả hai mức độ LDL-C và CRP khi chữa trị bằng statins. Cả hai LDL-C và CRP đều có giá trị để ước đoán nguy cơ bệnh tim mạch.

 

THEO DƠI MỨC ĐỘ CRP

 

CRP có giá trị tiên lượng rất đáng kể trong sự pḥng ngừa hàng nh́. Ta cần theo dơi mức độ CRP cho những bệnh nhân  từng có bệnh tim mạch và những bệnh nhân có yếu-tố gây bệnh tim mạch căn cứ theo tiêu chuẩn cuả Hiệp Hội Bệnh Tim Hoa Kỳ (AHA) và Trung Tâm Kiểm Soát Bệnh (CDC). Theo dơi CRP cũng rất có ích để tiên đoán nguy cơ lâu dài về  tai biến bệnh vành tim cho những bệnh nhân chỉ có ít yếu-tố nguy cơ về tim và hoàn toàn khoẻ mạnh bề ngoài. V́ vậy sự đề pḥng sơ khởi cũng hữu ích.

Trong tương lai sự theo dơi mức độ CRP sẽ trở nên thông thường v́ giá cả thử nghiệm rất vừa phải.

 

NHỮNG PHƯƠNG SÁCH ĐỂ LÀM GIẢM CRP

 

Những nghiên cứu trên cho thấy rằng gia tăng liều statins sẽ làm giảm mức độ cuả LDL-C và CRP. V́ vậy dùng statins một cách tích cực là một cách để giảm thiểu CRP. Tuy nhiên nếu liều cao statins thường làm giảm mức độ CRP hơn là liều thấp, ta thường nhận thấy sự thay đổi đáng kể giữa những cá nhân.

Nếu bệnh nhân đă đang dùng liều statins cao- ví dụ 80mg atorvastatin- mà chưa đạt tới mục tiêu LDL-C hay CRP- nhiều cách chữa trị khác đă được chứng minh là giảm được LDL-C hay CRP riêng rẽ. Một là thuốc ezetimibe, một chất ngăn chận sự hấp thụ cholesterol. Ezetimibe có thể được dùng chung vớI một statin để làm giảm cả hai mức độ LDL-C và CRP.

 Glitazones giảm CRP vào khoảng 40%. Những thuốc đó cũng đang trong ṿng nghiên cứu để xem chúng có thể làm giảm sự tiến triển bệnh sơ vữa động mạch và nguy cơ tử vong về bệnh tim.

Thuốc ngăn chận nơi thụ thể endocannabinoid là một loại huốc mới đang được nghiên cứu, Rimonabant đă được chứng minh là giúp bệnh nhân xuống cân và ngưng hút thuốc cũng làm giảm CRP tớI 25% mặc dầu nó chưa được chấp nhận được dùng với mục đích này.

Thuốc kháng viêm không thuộc steroid (Non steroidal  anti-inflammatory drugs-NSAIDs) có tác dụng tối thiểu trên mức độ CRP vào khoảng 5% tới 10%. Aspirin dầu rằng không làm giảm CRP nhưng rất hữu hiệu ngăn ngừa chứng huyết khối cho những bệnh nhân có mức độ CRP cao.

Những cách thay đổi lối sống để làm giảm mức độ cholesterol cũng làm giảm CRP nữa. Những cách như ngưng hút thuốc, kiểm soát lượng đường trong huyết thanh, ẩm thực một cách lành mạnh, năng tập thể dục và xuống cân cũng hữu ích.

Kiểm soát mức độ chất béo, bằng cách làm tăng cholesterol tốt (HDL-C) và làm giảm triglyceride cũng giúp giữ mức độ CRP thấp.

 

MỤC TIÊU CRP

 

Hiện nay c̣n quá sớm để xác định một phương sách căn cứ trên CRP cho tất cả các bệnh nhân.  Tuy nhiên ta cần theo dơi CRP cho những bệnh nhân đang dùng statins, với mục tiêu làm giảm mức độ CRP dưới 2mg/L (lư tưởng là dưới 1mg/L). Để theo dơi sự đáp ứng cuả LDL-C (và của CRP) bệnh nhân cần được theo dơi sau hai tháng để biết chắc rằng mức độ LDL-C dướI 70mg/dL (cho những bệnh nhân bị bệnh động mạch vành tim) và để theo dơi CRP. Nếu mức độ CRP c̣n cao, gia tăng liều statins và khuyên bệnh nhân thay đổi lối sống.

 

KẾT LUẬN

 

Mực CRP trong máu có ích để tiên đoán nguy cơ bệnh tim mạch và đánh giá sự đáp ứng của cơ thể với thuốc statin.

Sau một cuộc tai biến tim mạch, y-sĩ cần điều trị sao để đạt được mục tiêu ấn định bởi NCEP, là  LDC-C < 70mg/dl và theo dơi mức độ CRP, làm giảm CRP < 1 hay 2 mg/L)

Chữa trị với liều cao statin sẽ công hiệu hơn là liều b́nh thường để làm giảm LDL-C và CRP và nguy cơ mắc bệnh tim mạch.

Mức độ CRP có thể giảm được một cách đáng kể bằng dược-phẩm trị liệu và thay đổi lối sống cho lành mạnh hơn.

 

28 November, 2005

BS Trịnh Cuờng & DS Trịnh Nguyễn Đàm Giang

 

 

C-REACTIVE PROTEIN

Giang Nguyễn Trịnh, R.Ph., D.Ph.

 

C-reactive Protein mang tên này do khả năng của một protein có thể làm kết tủa (precipitate) pneumoccocal C-polysaccharide khi có sự hiện diện của calcium. Chất này được khám phá ra lần đầu tiên vào năm 1930 bởi Tillet và Frances.

C-reactive Protein thuộc vào nhóm protein  pentrazin gồm có 5 subunits , mă số bởi một di thể duy nhất trên chromosome 1, liên quan đến thành lập một cơ cấu pentametric giống như một cái đĩa. C-reactive Protein phản ứng với somatic C-polysaccharide của Streptoccocus pneumonia, khi có sự hiện diện của calcium, CRP chuyên biệt gắn vào phosphocholine moieties. CRP giữ một vai tṛ trong việc pḥng vệ cơ thể  v́ CRP gắn vào phosphocholine, mà chất này là thành phần t́m thấy trong polysaccharide của vi trùng, trong yếu tố năng động tiểu cầu gây viêm (platelet-activating factor), và polymorps.

CRP chế tạo trong gan, và tiết ra với một số lượng cao trong ṿng 6 giờ khi có một kích thích viêm cấp. Nồng độ trong máu có thể tăng gấp đôi cứ 8 giờ và tột đỉnh sau 50 giờ. Sau khi chữa trị hay loại bỏ được nguyên do gây viêm, nồng độ có thể giảm rất nhanh

Tầm mực b́nh thường của CRP trong cơ thể trung b́nh là 0.8 mg/L; với 90% người b́nh thường có thông số < 3 mg/L hay 99% có < 12 mg/L . Khi > 12 mg/L CRP cho biết cơ thể có bị bệnh ở chỗ nào đó. Với phụ nữ mang thai, tầm số trung b́nh cỡ < 20 mg/L.

 

Theo nghiên cứu của một bài viết th́ CRP tốt hơn ESR để t́m xem cơ thể có bị viêm hay không khi nói về phản ứng nhanh chóng và chuyên biệt của nơi viêm trong cơ thể. nhưng vẫn công nhận có trường hợp ESR giúp ích hơn CRP.

 

DS Trịnh Nguyễn Đàm Giang

 

Ghi chú.

 Bài viết theo tài liêu của  Dr Glenn Reeves, Immunology HAPS (Nov 1998).

Tài liệu có thể đọc thêm:

1. Pepys MB. The acute phase response and C-reactive protein. The Oxford Textbook of Medicine 1996 Ed. 3, Vol. 2. pp. 1527-1533 

2. Young B, Gleeson M, Cripps AW. C-reactive protein: A critical review. Pathology 1991; 23: pp. 118-124 

3. Janeway C, Travers P. Immunobiologỵ 1994; 9:18 

4. Seldon M. Erythrocyte Sedimentation Ratẹ HAPS Newsletter September 1995. 

 

 

C-Reactive Protein và Tai Biến Tim Mạch

 

Giang Nguyễn Trịnh, R.Ph., D.Ph.

 

So sánh mức độ của C-Reactive Protein và Low Density Lipoprotein Cholesterol trong sự tiên đoán những tai biến tim mạch  đầu tiên.(*)

 

Những khoa học gia nghiên cứu bệnh tim mạch đă chú ư đến một hoá chất trong máu gọi là C-Reactive Protein từ lâu, và cho rằng chất này tùy theo chuẩn độ trong máu có thể cho ta vài tiên đoán về sự rủi ro của mắc bệnh tim mạch. Một nghiên cứu gần đây nhất của trường Đại Học Harvard đă kiểm nhận và cho những kết qủa rơ rệt nhất với kết luận rằng mực CRP và LDL cholesterol thường cao ở những người bị nguy cơ gặp tai biến tim mạch .

 

Phương pháp thử nghiêm .

Đo CRP và LDL cholesterol của 27,939 người đàn bà coi như khoẻ mạnh trong ṿng trung b́nh tám năm để t́m trường hợp bị nhồi máu cơ tim (myocardial infarction), đột quỵ v́ nghẹt máu (ischemic stroke), tái phân bố động mạch vành (coronary revascularization), hay chết v́ nguyên do bệnh tim ma.ch.

Kết qủa cho biết mặc dù hai đo lường này (CRP và LDL cholesterol) không có liên lạc mật thiết với nhau, nhưng mực căn bản của cả hai đều cho một đường thẳng (linear) liên quan đến tai biến tim ma.ch. Bản tường tŕnh cho biết CRP cho kết qủa khá hơn LDL cholesterol, và hơn nữa CRP cho biết thêm về rủi ro mắc bệnh tim mạch có thể xẩy ra ở những người đàn bà trong nhóm thử nghiệm có mực cholesterol thấp.

Kết luận của nghiên cứu này là mực CRP là một tiền chỉ (predictor) báo trước tai biến tim mạch cao hơn LDL cholesterol, và nó có thể giúp cho sự chuẩn đoán sự rủi ro liên quan đến tim mạch.

 

(*) The New England Journal of Medicine

Comparison of C-Reactive Protein and Low-Density Lipoprotein Cholesterol Levels in the Prediction of First Cardiovascular Events

Paul M. Ridker, M.D., Nader Rifai, Ph.D., Lynda Rose, M.S., Julie Ẹ Buring, Sc.D., and Nancy R. Cook, Sc.D.

Volume 347:1557-1565, November 14, 2002 Number 20.

 

Sự liên hệ giữa C-Reactive Protein và bệnh Tiểu Đường ở phụ nữ.

 

Giang Nguyễn Trịnh, R.Ph., D.Ph

 

Theo tin từ Diabetes care số tháng 11, 2002

Khoa học vẫn tiếp tục t́m kiếm khám phá mối nhợ giữa viêm của cơ thể và sự mới phát hiện (onset) của bệnh tật . Một nghiên cứu cho biết có liên quan giữa C-reactive protein và bệnh tiểu đường.

C-reactive protein hay CRP là một sản phẩm của gan tạo nên để đáp ứng với viêm. Mức CRP có thể đo được qua thử nghiệm máu và hiện nay được dùng cùng với những thử nghiệm khác dể xác nhận một bệnh nào đó. CRP không xác đinh địa điểm bị viêm nhưng có tầm quan trọng khá cao khi dùng để t́m hiểu độ hiệu nghiệm của một số trị liệụ

Nhiều điều kiện bệnh tật có thể làm thông số CRP tăng cao gấp cả 100 lần. Thí dụ như lên cơn đau tim (heart attack), đau thắt (angina), bệnh thấp cấp tính (rheumatic fever), nhiễm trùng hậu giải phẫu, chấn thương (thương tổn), và phỏng.

CRP cũng được dùng để dự đoán điều kiện như bệnh động mạch vành (coronary artery disease) và đột quỵ (stroke).

Phụ nữ bị bệnh béo ph́ có nhiều nguy cơ bị bệnh tim mạch và đột quỵ do nhiều yếu tố gây nên. Nghiên cứu gần đây kể ra nhiều chứng cớ cho thấy mô mỡ (adipose) là nơi chế tạo ra một chất hóa học gọi là cytokines, và họ nghĩ rằng CRP cũng hiện diện cao hơn trong người mập ph́.

Nghiên cứu với 729 đàn bà và 515 đàn ông trong khoảng thời gian 6 năm cho biết, so với đàn ông, đàn bà có nồng độ CRP cao hơn, Chỉ số khối lượng cơ thể (BMI=boby mass index) cao hơn, ṿng bụng lớn hơn, mức insulin tăng cao hơn (lờn insulin).

Phụ nữ cũng có tỷ số mới phát cao hơn của hội chứng chuyển hóa hay hội chứng X (metabolic syndrome) . Đây là một loạt những yếu tố như mập ph́, LDL-C và triglycerides cao hơn, cao áp huyết, và tiểu đường loại 2. Khi một ngườ có hai hay nhiều hơn hai trong những yếu tố trên th́ có thể tạo nên hội chứng chuyển hóa.

Tóm lại, nghiên cứu cho biết là CRP cao ở phụ nữ không những liên quan đến bộc phát hội chứng chuyển hóa mà c̣n phát triển thêm bệnh tiểu đường ở phụ nữ. Thử nghiệm không t́m được sự liên hệ này trên phái nam. Từ đó nghiên cứu gia cho rằng CRP là một vết mạc (marker) mạnh hơn trên acid béo của phụ nữ, và viêm đă làm giảm bớt đặc tính che chở của estrogen trong những người này.

 

DS Trịnh Nguyễn Đàm Giang

 

 Home | Literature | Poetry | Science | Great Places | Music and Fiction | Comments

Copyright © 2004-2005. Song Viet-Dam Giang All Rights Reserved.

This site is continually updated.